LƯỢC BIÊN HẬU
NHÂN LUẬN
Thuật
ngữ “Hậu nhân luận” được sử dụng để chỉ loạt quan điểm lý thuyết đương thời được
đưa ra bởi những nhà nghiên cứu có nền tảng học thuật trong lĩnh vực triết học,
khoa học và nghiên cứu công nghệ, nghiên cứu văn học, lý thuyết phê bình, xã hội
học phê phán và nghiên cứu truyền thông. Trong những lĩnh vực nghiên cứu này, hậu
nhân luận nêu ra một loạt các sự phá vỡ giả thiết nền tảng của văn hóa phương
Tây hiện đại: đặc biệt, hậu nhân luận đề ra lối nhận thức mới về chủ thể người
trong tương liên với thế giới tự nhiên nói chung. Lý thuyết hậu nhân đề xuất nhận
thức luận mới không lấy con người làm trung tâm và lẽ đó không đặt trọng tâm ở
nhị nguyên luận của Descartes. Nó tìm cách làm xói mòn những ranh giới cố hữu
giữa con người, động vật và công nghệ. Lý thuyết gia hậu hiện đại Ihab Hassan
đã đặt ra thuật ngữ này và còn nêu ra định nghĩa mang tính khai mở trong bài
báo với tiêu đề “Prometheus as Performer: Towards a Posthumanist Culture?”
(1977). Liên quan đến thuật ngữ này, với sắc thái lý thuyết riêng, còn bao gồm
cả thuật ngữ siêu việt nhân (transhuman) và phản nhân (antihuman).
Đúng
như tên gọi, đặc điểm nổi bật của hậu nhân luận chính là sự kháng cự/từ chối của
nó đối với nhân bản luận truyền thống phương Tây. Mặc dù tự thân thuật ngữ “nhân
bản luận” có thể được áp dụng cho một tập hợp phức tạp các giả thiết và thỏa ước
giới hạn vốn đã phát triển qua nhiều thế kỷ (từ sơ kỳ Phục Hưng đến cuối thế kỷ
XX), nhưng các học giả hậu nhân tập trung vào một vài đặc điểm cốt lõi: trên hết
là, quan niệm cho rằng nghiên cứu thích đáng về con người chính là con người.
Theo định danh, nhân bản luận chính là việc lấy con người làm trung tâm; nhân bản
luận như hiện tượng lịch sử đã thu hút việc đánh giá lại theo nghĩa là tái tân
và tái kiến giải tu từ học và văn minh Hy-La, thông qua việc đặt con người (chứ
không phải Thượng Đế) ở vị trí trung tâm của dự trình văn chương và triết lý.
Khoa học hiện đại khởi đi từ thời Phục Hưng đã tìm cách đạt được nhận thức về
thế giới tự nhiên vốn dựa trên năng lực quan sát và lý trí của con người để
khám phá các quy luật phổ quát. Như chủ thể tư duy trong trường phái triết học
Descartes, con người có thể nghiệm xét thế giới và lý giải vận hành của nó một
cách khách quan khoa học – như Galileo đã nêu ra một cách cừ khôi bằng ngôn ngữ
toán học. Quan điểm xem con người như tác nhân tự trị, tách biệt khỏi tự nhiên
dù vẫn gắn bó với tự nhiên, lại càng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Khai
Sáng. Các học giả hậu nhân xem sinh học Darwin, kinh tế học Marx và tâm lý học
Freud như dấu hiệu ban đầu của sự đổ vỡ chủ thể Khai sáng thống nhất này. Tuy
nhiên, dù việc tách biệt con người khỏi thế giới tự nhiên và việc đặt con người
ở vị trí cao hơn thế giới tự nhiên đã bị đưa vào vòng nghi vấn bởi đà phát triển
của sinh học, tâm lý học và kinh tế học thế kỷ XIX, nhưng khoa học thực chứng vẫn
tìm cách duy trì sự phiên biệt chủ thể-khách thể thậm chí tới tận thế kỷ XX.
Hậu nhân luận, hậu cấu trúc luận, hậu
hiện đại luận
Thời
đại nghệ thuật và chính trị hiện đại (khoảng nửa đầu thế kỷ XX) có thể được nhận
thức như là biểu hiện sau cùng của hệ hình chủ thể tự trị khai sáng. Sang nửa
sau thế kỷ XX, nhiều nhà lý thuyết hậu cấu trúc và hậu hiện đại đã tham gia vào
dự trình thay thế [hệ hình tư duy đó]. Những gì mà họ tìm cách thay thế chính
là những chân lý của chủ nghĩa hiện đại: những giả định về cái đẹp khả dụng phổ
quát và nhận thức luận có giá trị phổ quát. Hậu cấu trúc luận đặc biệt phê phán
việc phân tích cấu trúc ngôn ngữ, văn chương và văn hóa. Có ảnh hưởng hơn cả
chính là các nhà hậu cấu trúc, gồm: Jacques Derrida, Roland Barthes, Michel
Foucault, và Paul de Man. Các lý thuyết gia phê phán đã phát triển chủ nghĩa hậu
hiện đại thành ra phạm trù lý thuyết tổng quát – một sự phát triển được thể hiện
qua hai công trình cực kỳ khác biệt, đó là: The
Postmodern Condition (1979/1984) của Jean-François Lyotard và Postmodernism (1991) của Fredric
Jameson. Công trình của Lyotard nêu ra sự phê phán về cái được gọi là những đại
tự sự, mà ông đã xác định được trong các ý hệ và thực hành giao tiếp của thời
hiện đại. [Trong công trình của mình], Jameson khởi đi từ nghệ thuật với mỹ học
và cho rằng những đặc điểm thẩm mỹ hậu hiện đại không thể được xem xét trong
cách thế tách biệt khỏi điều kiện kinh tế hậu công nghiệp. Hậu cấu trúc luận và
hậu hiện đại luận là sự hồi ứng có tính cách phê phán đối với những gì được nhận
thức như là các thực hành và tu từ học toàn quát hóa của kỷ nguyên hiện đại.
Trong mỗi trường hợp, sự hồi ứng này là một nỗ lực nhằm lật đổ những tuyên bố về
tính thống nhất, tính đơn phương và tính phổ quát [của chủ nghĩa cấu trúc và chủ
nghĩa hiện đại]. Những dấu hiệu lật đổ đó đều có thể được xem như đặt nền móng
cho cái mà Hassan [trong bài báo năm 1977] định danh như là văn hóa hậu nhân.
Công trình của Gilles Deleuze và Félix Guattari, vốn
khó phân định là thuộc về hậu cấu trúc hay hậu hiện đại, cũng đã ảnh hưởng sâu
sắc đến lý thuyết hậu nhân.
Cyborg như chủ thể hậu nhân
Những
nhà hậu hiện đại có ảnh hưởng hơn cả chủ yếu quan tâm đến nghệ thuật, văn
chương, lịch sử và triết học. Việc giải cấu trúc của họ trong các lĩnh vực này
có thể được xem như những tiền đề hay các liên đề cần thiết cho việc lập thành
hẳn hỏi hậu nhân luận của một nhóm nhỏ các nhà lý thuyết theo sau đó – những
nhà lý thuyết mà trước tác của họ tập trung vào khoa học công nghệ và sinh học
hơn là nghệ thuật và văn chương. Donna Haraway (với công
trình Simians, cyborgs, and
women: The reinvention of nature, 1991) là nhân vật chủ
chốt trong việc khám phá đặc điểm mềm xốp của các ranh giới tương liên giữa máy
móc-con người-động vật. Bà đề xuất thuật ngữ cyborg[1]
như ẩn dụ văn hóa đương đại để nắm bắt tình trạng mâu thuẫn tư niệm của tồn tại
người đương đại, những người mà cơ thể họ sẵn sàng đón nhận các hình thức cải
biến và can thiệp của công nghệ. Sự ẩn dụ đó một mặt gợi lên những viễn cảnh của
hư cấu khoa học, mà ở đó chi giả hay thuốc không chỉ khắc phục khiếm khuyết của
nhân vật mà còn có thể khiến họ trở nên mạnh mẽ hơn, nhanh hơn, thông minh hơn
và nói chung là khác biệt với con người thường tình. Hư cấu khoa học thường là
lĩnh vực của siêu việt nhân, vốn đề cập đến tình trạng vẫn được xem như là sự mở
rộng và tăng cường của nhân bản luận truyền thống hơn là bác bỏ nó. Nhưng “người
sáu triệu đô”[2]
vẫn là con người theo cảm quan văn hóa truyền thống. Còn cyborg của Haraway
không chỉ là siêu việt nhân, mà còn là hậu nhân, bởi sự kháng cự và tái cấu lập
các giá trị của chủ thể nhân văn truyền thống. Mặt khác, ẩn dụ cyborg còn chỉ
ra rằng phiên bản hậu nhân luận nữ quyền của Haraway không chối từ công nghệ
như là nguồn cơn cho việc tái cấu lập con người. Với ẩn dụ cyborg của mình, bà ấy
tìm cách duy trì những thúc bách và khả năng điều hòa bằng công nghệ mà thậm
chí có thể mang lại hiệu quả ở cả phạm vi chính trị.
Haraway
và những nhà hậu nhân khác cũng chú ý đến việc xóa nhòa ranh giới nữa, đó là:
ranh giới giữa con người và động vật phi nhân. Từ quan điểm của họ, điểm trọng
tâm của nhân bản luận chính là sự nhấn mạnh của nó vào hố thẳm không thể vượt
qua giữa con người và động vật. Truyền thống nhị nguyên luận có sức ảnh hưởng của
Descartes đã khẳng định rằng yếu tính của con người là tri nhận và rằng động vật
chỉ là cỗ máy quá phức tạp, là bộ phận của thế giới vật chất trong thế đối lập
với thế giới tâm trí. Như đã lưu ý ở trên, việc nhấn mạnh vào cách biệt triệt để
giữa người và động vật đã vấp phải hàng loạt thách thức trong thế kỷ XIX và XX,
chủ yếu khởi đi từ cách mạng của Darwin trong khoa sinh học, và trong những thập
kỷ gần đây các nhà tư tưởng hậu nhân đã tung ra những cuộc đột kích về mặt lý
thuyết vào truyền thống [nhân bản luận]. Việc gia tăng sự phức tạp của hệ hình
khoa học thực chứng đã thúc đẩy thiện chí ngày càng tăng trong việc nhấn mạnh
tính liên tục hơn là tính tách biệt trong thế giới sinh học. Những tiến bộ
trong di truyền học và kỹ thuật di truyền cơ hồ cung cấp minh chứng xác thực
cho tính chất mềm xốp của những rào cản giữa các chủng loài và lẽ đó làm phức tạp
thêm quan niệm chủng loài. Thực tế là các nhà khoa học thời nay có thể nhân bản
ngay cả một số động vật có vú (minh chứng nổi tiếng là chú cừu Dolly, ra đời
1996), dường như là biểu trưng cho một số vấn đề giới hạn quan trọng đối với
các nhà hậu nhân. Một trong số bài học rút ra được từ việc nhân bản và các kỹ
thuật di truyền khác không cho thấy rõ ràng rằng “tự nhiên” đặt ra bất kỳ giới
hạn nào trên trường phổ liên tục của sinh học. Nhưng nếu con người không được
tách biệt khỏi tự nhiên thì phạm trù chính trị liệu có còn chỉ riêng thuộc về
con người hay không? Các tác giả hậu nhân khởi đi từ các nền tảng khác nhau
ngày càng có xu hướng đi tới việc coi quyền động vật như là vấn đề triết học và
chính trị xã hội nghiêm túc. Trước tác của họ tiêu biểu cho các hoạt động tương
ứng thuộc về lý thuyết và học thuật của phong trào bảo vệ quyền động vật và môi
trường ngày càng phát triển rộng rãi.
Nghiên cứu khoa học-công nghệ và hậu
nhân luận
Thực
tiễn và lý thuyết khoa học trong thế kỷ XX (không chỉ trong khoa sinh học mà
còn trong vật lý học) đã góp phần vào sự phá vỡ các ranh giới và bản thể học
truyền thống. Ở nửa sau của thế kỷ này, lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ
(STS) khởi lên như liên minh linh hoạt của các nhà xã hội học, nhân học, lịch sử
và nghiên cứu văn học. Bruno Latour và nhiều người khác nữa trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học công nghệ đã xem xét khoa học đương đại ở những gút mắc mâu
thuẫn giữa tu từ học thực chứng và thực tiễn phức tạp mơ hồ của nó. Trong We Have Never Been Modern (1993), Latour
đã tranh luận về sự đổ vỡ của cái mà ông gọi là “thiết chế hiện đại”, tức khuôn
khổ nhận thức luận đã chi phối tư duy khoa học Tây phương hàng thế kỷ. Nhận thức
luận đó đã mặc nhiên công nhận các chia biệt sâu sắc, như chia biệt giữa xã hội
và tự nhiên, chia biệt giữa nhân loại và phi nhân loại. Các chia biệt này đã bị
đe dọa bởi sự phát triển mau lẹ của các loài lai ghép mà chính khoa học đã tạo
ra. Để lý giải cho sự lai ghép như thế, Latour, John Law và những người khác nữa
đã phát triển lý thuyết mạng lưới tác nhân (ANT), tức lý thuyết giúp mô tả hiện
tượng xã hội dưới góc độ tương hỗ giữa nhân tố (hoặc diễn tố) nhân loại và phi
nhân loại. Từ vựng ANT cấu thành sự kháng cự/bác bỏ các ranh giới cơ hồ an toàn
trong khoa học và triết học nhân văn truyền thống, và lẽ đó nó đã có đóng góp ảnh
hưởng đến dự trình hậu nhân. Trong khi đó, một số nhà hậu nhân khác lại dựa vào
“lý thyết hệ thống tổng quát” của nhà xã hội Niklas Luhmann để tái nghĩ xét về
sự phân biệt chủ thể-khách thể như nền tảng căn cơ cho cả khoa học thực chứng
và triết lý nhân văn[3].
Nữ quyền luận và hậu nhân luận
Trong
luận đề của mình về cyborg và một số vấn đề khác, Haraway cho thấy làm thế nào
mà nữ quyền luận như lập trường lý thuyết có thể đóng góp cho hậu nhân luận.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, nữ quyền luận lý thuyết đã cấu thành một loạt quan điểm
lập trường khác nhau với chi lưu trong xã hội học, văn hóa học, sinh học và
chính trị học, cũng như nhiều cây viết nữ quyền có sức ảnh hưởng nhất đã đóng
góp cho các chủ đề của hậu nhân luận. Như đã lưu ý ở trên, tự thân nhân bản luận
mặc nhiên công nhận hoặc đơn giản chỉ là coi đàn ông như là tiêu chuẩn và quy tắc
của chính con người. Trước tác của các tác giả và nhà lý thuyết nữ quyền từ
Simone de Beauvoir cho tới Julia Kristeva, Luce Irigaray, Judith Butler cùng
nhiều người khác nữa đã hoán chuyển đàn ông khỏi vị trí trung tâm trong định
danh con người và thách thức sự cô kết về giới như một phạm trù. Ví dụ như
trong Gender Trouble (1990), Butler lập
luận rằng giới và tính dục, thay vì được ấn định bởi tự nhiên, thì lại được dựng
xây và diễn hoạt bởi cá nhân trong khuôn khổ diễn ngôn và đè nén văn hóa. Bởi
vì tầm quan trọng của vấn đề giới đối với căn tính, Butler kết luận rằng tự
thân căn tính có tính diễn hoạt – một lập trường hoàn toàn trái ngược với nhân
bản luận truyền thống.
[…]
Hậu nhân luận và các ngành nhân văn
Sau
hết, hậu nhân luận có những hệ quả về mặt thiết chế. Các thực hành và giả định
của nhân bản luận đã được cụ thể hóa hàng trăm năm qua trong các trường đại học,
các học viện quốc gia và được hỗ trợ bởi những hình thức bảo trợ công và tư
khác nhau. Lẽ đó, tương lai của nhân bản luận thành ra là câu hỏi về tương lai
của các ngành nhân văn, đặc biệt là trong đại học thời nay[4].
Các lý thuyết gia hậu nhân đề xuất không gì khác hơn là một sự tái cấu lập triệt
để các ngành nhân văn – một sự tái cấu lập nhằm loại trừ chủ đề tự do khỏi trọng
tâm của truy vấn về nhân tính. Họ đòi hỏi các hướng tiếp cận mới cũng như thay
đổi chất liệu nghiên cứu. Chẳng hạn như, các nhà hậu nhân thường đề xuất STS
như hướng tiếp cận liên ngành có kiểm soát – một hướng tiếp cận mà có thể thông
suốt các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Trên hết, hậu nhân luận đối kháng với
bản chất luận mà nó nhận thấy trong các thực hành luận giải nhân văn truyền thống.
Nó tham gia vào sự kháng cự này bởi trong những thập kỷ gần đây hậu cấu trúc luận,
hậu hiện đại luận, nghiên cứu hậu thuộc địa, nghiên cứu nữ quyền và nghiên cứu
văn hóa, tất cả đều có được vị trí trong các phân khoa nhân văn.
Võ Quốc Việt
lược dịch
Nguồn:
Jay
David Bolter (2016). Posthumanism. In: The International Encyclopedia of
Communication Theory and Philosophy, 2016; available online at: https://onlinelibrary.wiley.com/doi/epdf/10.1002/9781118766804.wbiect220
[1] ND.
Cyborg trong nhãn quan của Haraway là sự kết hợp giữa hư cấu khoa học viễn tưởng
và thực tiễn vật chất; là sự kết hợp giữa thân thể sinh học và thân thể cơ giới
hóa. Thuật ngữ này thể hiện sự bác bỏ của Haraway đối với các ranh giới tách biệt
con người khỏi động vật và tách biệt con người khỏi máy móc.
[2] ND.
Tức loạt phim “The Six Million Dollar Man” công chiếu từ 1973 đến 1978, thể hiện
nhãn quan siêu việt nhân luận (transhumanism). Nhắc đến điều này, tác giả bài
viết có ý cho rằng nhãn quan của siêu việt nhân luận không triệt để vượt qua
nhân bản luận.
[3] Wolfe,
C. (2010). What is posthumanism? Minneapolis, MN: University of Minnesota
Press.
[4]
Xem Chương 4 trong công trình nghiên cứu của Braidotti, R. (2013). The
posthuman. Cambridge, UK: Polity.
Comments
Post a Comment