Skip to main content

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

 

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

(Võ Quốc Việt)

*

Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó[1]. Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image).

Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity[2]) của Katherine Hayles trong How We Became Posthuman. Đặc điểm của thực thể thông tin vật chất này chính là ý thức ở trạng thái tri nhận phân tán (distributed cognition[3]) – “toàn hiện thức”. Chính nó dẫn đến khái niệm “hậu nhân bất khả định” (dislocated posthuman). Phê bình hậu nhân đặc biệt chú ý thực thể này trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng liên quan đến trí tuệ nhân tạo.

Khác biệt căn bản của phê bình hậu nhân với phê bình nhân văn nằm ở cách tiếp cận hình tượng “con người”. Trước hết, phê bình hậu nhân phân tích diễn ngôn văn học để phá vỡ ưu thế, đặc quyền, vị trí trung tâm và định vị nhân tính của hiện thân người. Phê bình hậu nhân phân tích các diễn ngôn áp bức, diễn ngôn huyền thoại hóa nhân tính duy chủ trung tâm. Sự phân tích đánh giá việc loại trừ, suy giảm và thủ tiêu nhân tính của quan niệm Tây phương trung tâm (Western-centrism), Hán trung tâm (Sinocentrism), thủ đoạn làm tiêu biến bản sắc văn hóa, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giới tính-xu hướng tính dục, kỳ thị giai cấp, phân biệt vùng miền, đàn áp tôn giáo-tín ngưỡng, … trong văn bản văn học đều thuộc vào phạm vi phê bình hậu nhân. Lẽ đó, nó có thể được xem như giải luận diễn ngôn duy chủ trung tâm hóa ở các cấp độ, phạm vi khác nhau.

Nếu giải cấu trúc chú tâm vào phân tích diễn ngôn nhân tính trên phương diện ngôn ngữ thì phê bình hậu nhân chú tâm vào phân tích diễn ngôn nhân tính trên phương diện hiện thân. Nó vừa gắn bó vừa kháng cự mô hình khoa học thực nghiệm (vốn tìm cách minh định quan hệ nhân quả, độ tin cậy, tính giá trị) và nhắm đến phương diện vật chất của tư duy và tồn tại. Phê bình hậu nhân sử dụng các phương pháp định tính và định lượng. Nghiên cứu định lượng hậu nhân tức “điều tra thực nghiệm có hệ thống” các biểu hiện vật chất nối dài/cải tiến của chủ thể hậu nhân như thực thể vượt qua giới hạn nhân hình vốn có. Nghiên cứu định tính hậu nhân tập trung vào đặc điểm thuộc về chủng tộc, sắc tộc, giới tính, xu hướng tính dục, giai cấp, văn hóa, tôn giáo-tâm linh, ngôn ngữ và các phương diện khác để định vị bản dạng hiện thân người.

 “Trong phê bình văn học hậu nhân, tính sáng tạo và tính phê phán là sự thực hành đồng thời và năng động nhằm kích hoạt và cởi bỏ giới hạn của các bản dạng cứng nhắc và hình thành các chủ thể thực tồn và thay thế. Nó khước từ tính chất tuyến tính và đặt ra truy vấn về sự hiện hữu của Chân Lý cũng như tính trung tâm của Con Người trong văn bản[4].  Và “phê bình văn học hậu nhân tham gia vào loạt truy vấn phê phán trong nền Nhân Bản Mới như phản ứng đối với các thách thức liên kết toàn cầu của khủng hoảng sinh thái, bất bình đẳng giới và sắc tộc, cũng như những khám phá và thử nghiệm gây tranh cãi trong khoa học đời sống, y sinh, khoa học năng lượng và công nghệ kỹ thuật số[5].

Nhưng phê bình hậu nhân không chỉ xoáy vào việc đạp đổ thiết chế nhân luận như phản nhân bản luận[6] mà nó nhận thấy vốn dĩ nhân luận của chủ nghĩa nhân bản đã tự thân biến đổi. Nên phê bình hậu nhân nhắm tới việc thúc đẩy, điều hướng diễn biến nhân tính này trong thời đại hậu công nghiệp – thời đại mà dù muốn dù không thì nhân hình nhân tính cũng phải vận động biến đổi để thích nghi. Phê bình hậu nhân không dừng lại và thực tế đã vượt qua tính phê phán để trở thành “tương lai học” trong văn học.

Đến nay, phê bình hậu nhân chí ít có hai khuynh hướng tiếp cận: từ hậu nhân luận đến diễn ngôn nghệ thuật; và từ diễn ngôn nghệ thuật đến hậu nhân luận.

Trước hết, hậu nhân luận được ứng dụng để khảo sát, phân tích và luận giải những tác phẩm văn học có biểu hiện “hậu nhân tính”. Theo lối này, The Birthmark (1843) của Nathaniel Hawthorne khiến Leon Kass đặt ra những truy vấn về đạo đức công nghệ sinh học hiện đại. Và khi đối diện những bất toàn của con người, ta nên cải tiến hay chỉnh sửa nó. Qua đó, bạn có thể thấy văn học đóng vai trò nhất định trong hành động triết lý về phía hậu nhân. Thậm chí văn học đóng vai trò cơ chế rà soát tư tưởng hậu nhân luận công nghệ. Như thực hành triết lý, Andrew John Hicks luận giải diễn ngôn hậu nhân trong các tiểu thuyết của Kurt Vonnegut qua chuyên khảo Posthumanism in the Novels of Kurt Vonnegut (2021). Xuất phát từ giả thiết nhân bản luận để phát hiện các vấn đề hậu nhân, Hicks soi chiếu vào tác phẩm Kurt Vonnegut. Hicks tập trung mổ xẻ biểu hiện xuyên ngôn ngữ của các vấn đề nhân hình-nhân tính. Trong tác phẩm của Vonnegut, Hicks phân tích vấn đề đạo đức hậu nhân để đặt truy vấn về nhân tính[7]. Trong trường hợp này, hậu nhân luận đóng vai trò nền tảng cho nghiên cứu văn học là hậu nhân luận phê phán.

Trong tập sách The Cambridge Companion to Literature and the Posthuman (2017), các nhà nghiên cứu (Bruce Clarke, Manuela Rossini, Ridvan Askin, R. L. Rutsky, Claire Colebrook) phân tích diễn ngôn nghệ thuật để tìm kiếm luận đề hậu nhân. Các luận đề này đồng thời là những khái niệm cốt lõi của hậu nhân luận (phản nhân, phi nhân, bán nhân, tri thức phân tán, …). Theo đó, các nhà nghiên cứu phân tích và đánh giá sự biểu hiện của văn bản văn học cũng như các loại hình nghệ thuật và sản phẩm văn hóa đại chúng khác nhau đối với diễn tiến thời đại hậu nhân[8]. Ngoài ra, phê bình hậu nhân còn xuất phát từ việc khảo sát thể loại (văn xuôi khoa học viễn tưởng, truyện tranh, hồi ký) và phương thức tồn tại (điện ảnh, sân khấu, văn học điện tử) của diễn ngôn nghệ thuật để trình bày các khía cạnh thực tiễn hậu nhân mà con người đã và đang tiếp tục đối diện[9].

Một số công trình lại khai thác nhóm đề tài để rút kết yếu điểm hậu nhân luận. Ví dụ như Posthuman Pathogenesis: Contagion in Literature, Arts, and Media (2023) do Başak Ağın và Şafak Horzum biên soạn. Ở đây, các học giả tập trung khai thác đề tài dịch bệnh. Sự bùng phát dịch bệnh dẫn tới thảm họa tận thế và hậu tận thế. Họ đặt ra và giải quyết một số vấn đề thực hành hậu nhân (đặc biệt thời kỳ hậu Covid-19) để phát hiện: những mầm bệnh hậu nhân (Posthuman Pathogeneses). Một trong số mầm bệnh đó: nỗi bất mãn. Họ khảo sát, phân tích và đánh giá các tác động của mầm bệnh hậu nhân trong diễn ngôn văn học nghệ thuật và truyền thông. Đại dịch bất mãn gây ra cho con người (đặc biệt người trẻ) những phản ứng cực đoan. Người trẻ không nhìn thấy bản thân họ trong tương lai. Nên họ từ chối nỗ lực, từ chối phấn đấu, từ chối sống. Nhưng trong khi khao khát người bị kỷ nguyên hậu nhân bóp chết, người trẻ vẫn không thể không khao khát – không thể sống mà không khao khát. Chỉ là, họ khao khát cuộc đời khác, sinh mệnh khác, hành tinh khác, dạng sống khác. Đúng hơn: khao khát về nhân loại khác bởi vì đời sống văn minh đương đại đang vùi lấp và tiêu biến con người.

Chính vậy Stefan Herbrechter cho rằng: “Chủ nghĩa nhân văn là thành tựu vĩ đại nhất (mà cũng là nguy hiểm nhất) của loài người[10]. Điều này được ông phân tích qua trường hợp nhân sinh quan bi thảm Camus. Ông đặc biệt chú ý “khát vọng người” trong kỷ nguyên hậu nhân. Dường như kỷ nguyên này đã bóp chết khát vọng người của con người. Herbrechter quay lại với Dịch Hạch của Albert Camus để lập định một số vấn đề tự do cá nhân, quyền con người, công bằng xã hội, đối thoại đa nguyên hóa, … từ đó phân tích biểu hiện người trong thời đại dịch và nêu lên một số đặc trưng thời hậu nhân. Stefan Herbrechter đã chứng minh: con người nhất thời không thể từ bỏ quan niệm con người trung tâm nhưng cũng phải cay đắng thừa nhận khái niệm “người” phổ biến đã không còn phù hợp cho cuộc sống đang và sẽ diễn ra[11]. Trong khi đó, André Vasques Vital phân tích “đại dịch niềm vui trong Gumball”. Ông chú ý kịch bản loạt phim truyền hình hoạt họa và truyện khoa học viễn tưởng. Thông qua đó, ông phân tích cách nhận thức, nỗi âu lo và niềm khát vọng về một thời đại mới. Vấn đề này cũng nằm trong phạm vi quan tâm của giới sử học đương đại[12]. Từ việc phân tích kịch bản loạt phim The Amazing World of Gumball (2011-2019) cụ thể phần “The Joy” (phát sóng 19/6/2014) xoay quanh đại dịch niềm vui, truyền nhiễm thông qua cái ôm, André Vasques Vital cho thấy đặc trưng phổ phát của dòng diễn ngôn này trong việc phản ánh biến đổi quyền lực xã hội, tái cấu trúc quan niệm về thời gian và lịch sử, tái nhận thức quan niệm tiến hóa tuyến tính. Đặc biệt nó đặt ra truy vấn bản chất thời gian; đề cập đến quyền lực sinh học chính trị trong việc lựa chọn ai được sống và ai phải chết thông qua cái ôm truyền bệnh[13]. Ở chiều hướng khác, nhà phê bình hậu nhân bắt đầu từ việc khảo sát thực tiễn biến đổi hoàn cảnh hậu nhân để phân tích sự phản ánh những vấn đề này trong văn chương. Thông qua các tác phẩm phản ánh đại dịch, Ruth Clemens và Max Casey khảo sát quan hệ tồn tại người-vi rút và chứng minh rằng đại dịch liên quan đến vi rút đã phá vỡ quan niệm thời tính của nhân bản luận[14].

Công trình Posthuman Capital and Biotechnology in Contemporary Novels (2019) của Justin Omar Johnston dựa trên nền tảng thực nghiệm trong lĩnh vực công nghệ sinh học và nguồn vốn nhân lực để phân tích vấn đề nhân bản vô tính trong Never Let Me Go (2005) của Kazuo Ishiguro. Ông cho thấy sự trỗi dậy của khuynh hướng đời sống hậu nhân trước quyền lực thống trị của quá trình nhân bản hóa vô tận[15]. Trong tiểu thuyết Oryx and Crake (2003) của Margaret Atwood, ông lại quan tâm đến vấn đề lai tạo thú-người, qua đó đi sâu vào bản chất nhân tính. Trong bối cảnh không-thời gian hậu diệt chủng, nó tạo ra xã hội hư cấu, hàm ẩn quan niệm phản địa đàng (dystopia) xoay quanh việc phản ánh thảm họa môi trường, sự phi nhân, bá quyền thống trị, thoái hóa quan hệ xã hội. Khi phân tích diễn ngôn hậu nhân trong tiểu thuyết The Stone Gods (2007) của Jeanette Winterson, Justin Omar Johnston đưa ra nhận định:

Do những hạn chế về mặt lịch sử và tưởng tượng nảy sinh từ hệ thống của tính gia trưởng [quan niệm con người trung tâm], chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa nhân văn; thì Winterson và các nhà văn đương đại khác đã tranh đấu để “trình bày tính tương lai” dựa trên những hình thức mới của đời sống: người nhân bản, Robo Sapiens, dị nhân độc hại. Những hiện thể mới này không đơn thuần chỉ là phụ phẩm phản địa đàng của tân nhân bản luận ngày nay; mà chúng còn là sự phản ánh đời sống “xuyên vượt tình thế hiện tại của nó” trong nền chính thể sinh học nhân văn. Chúng là những chủng loài lai tạo bất xác định mà chúng ta đang trở thành, và chúng nhắc nhở ta một cách gay gắt về tính lai tạo bất định mà ta vốn có[16].

Như bước chuyển từ thi pháp ngôn từ sang thi pháp văn hóa, phê bình hậu nhân còn mổ xẻ văn hóa du mục dưới tác động xã hội kỷ nhân sinh. Nó tìm hiểu phận đời du mục trong hoang địa đô thị hậu công nghiệp (chẳng hạn phận người du mục đô thị trong bộ phim Nomadland ra mắt năm 2020 do Chloé Zhao kiêm đạo diễn, biên kịch). Từ phận người du mục đô thị, Joseph David Clark đặt lại mối tương quan “nhân”-“phi nhân”. Đời du mục (nomadism) trong diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện trở thành sự khuếch trương hậu nhân luận. Clark khiến ta nhận ra: đây là hệ quả (hầu như tất yếu) của bất kỳ xã hội nào vận động theo hướng công nghiệp hóa để trở nên xã hội tiêu thụ[17]. Hậu công nghiệp đang “mờ hóa” hiện hữu người hoặc chí ít khiến hiện hữu người thành ra dạng hiện hữu khác (thường cực đoan, kỳ quái, dị dạng). Clark phân tích hiện tượng người du mục phá vỡ/vượt thoát các hệ thống chuẩn hóa, hệ thống bình thường hóa. Ví dụ: sự chuẩn hóa dựa trên nền chính trị sinh học (bio-politics) – sự chuẩn hóa mà ở đó con người bị định đoạt cách sống, cách chết, cách tương tác xã hội. Những hiện thân người như thế là các hạt tự do. Clark xem họ như các entropy (tức hiện thể tồn tại ở trạng thái bất định, mất trật tự, hỗn loạn, cơ ngẫu, không chắc chắn). “Ở đây, tôi sử dụng thuật ngữ khoa học entropy để tạo ra hình tượng người du mục như phân tử bị phá vỡ và phân tán, cũng giống như tâm lý người du mục theo cách nghĩ của Deleuze mà tôi sẽ trình bày trong phân tích văn bản của mình[18] (ở đây Clark muốn nói tới quan niệm du mục của Gilles Deleuze[19]). Chủ thể hậu nhân bấy giờ được xem như entropy trong hệ thống xã hội hậu công nghiệp – nơi mà kể từ cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thậm chí xa hơn – con người dần nhận ra: tiến trình các cuộc cách mạng công nghiệp làm tăng tốc quá trình đột biến nhân hình nhân tính, đồng thời gia tăng xung đột và tích lũy thảm họa ở mức độ, quy mô, phạm vi ngày càng khốc liệt.

Phê bình hậu nhân khiến những tiên báo của văn học nghệ thuật xuyên phương tiện trở nên vấn đề thực tiễn và trực diện.

*

Như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại, hậu nhân luận vẫn đang tiếp tục vận động phát triển. Nó có những tiền đề sinh khởi nhất định. Phần đông học giả cho rằng hậu nhân luận khởi đi từ việc phê phán quan niệm con người trung tâm của nhân bản luận và khởi đi từ việc giải cấu trúc tập trung vào hiện thân người. Nó biểu thị quá trình “giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa” diễn ra phổ biến trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại với chiều kích, phạm vi, mức độ khác nhau. Bên cạnh đó, hậu nhân luận biểu hiện như hướng nghiên cứu liên ngành được thúc đẩy bởi gia tốc công nghệ nhiều lĩnh vực. Gia tốc công nghệ thời hậu công nghiệp lý giải tính tất định của xã hội hậu nhân với những đặc điểm văn hóa hậu nhân như bước tiến mới của nền văn hóa đại chúng đầu thế kỷ XXI. Hậu nhân luận phản ánh vận động thực tiễn và lý luận của thời đại hậu công nghiệp (với chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, … làm biến đổi toàn diện xã hội loài người).

Như quá trình hậu nhân hóa diễn ngôn nghệ thuật, văn học hậu nhân chí ít có hai chi lưu: văn học hậu nhân mang ý hướng giải nhân luận và văn học hậu nhân mang ý hướng tân nhân luận. Văn học hậu nhân mang ý hướng giải nhân luận như diễn ngôn phê phán, thách thức hai quan niệm của nhân bản luận: chủ nghĩa con người trung tâm và chủ nghĩa ngoại trừ (exceptionalism). Khuynh hướng này có thể hiểu như việc mở rộng và phi trung tâm hóa những gì vốn ở trung tâm của nhân bản luận. Nó là văn học của Cái Khác qua việc tái định vị triệt để bản tính người. Văn học hậu nhân mang ý hướng tân nhân luận phản ánh thông điệp gắn liền với hình tượng hậu nhân liên quan đến biến đổi khí hậu, tuyệt chủng, trí tuệ nhân tạo, người máy, hậu nhân sinh kỷ (postanthropocentrism), truy vấn thú tính, tương lai nhân/phi nhân, bán nhân hóa (cyborgisation), công nghệ thông tin, … cũng như các phát tiến khoa học đương đại. Vượt qua quan niệm cho rằng văn học phản ánh hiện thân hậu nhân quá ngây thơ hoặc thiếu nền tảng khoa học, vượt qua sự ái ngại đối với các tiên báo của văn học hậu nhân, chí ít ta phải công nhận rằng: văn học hậu nhân đã “giúp cho ta nghĩ tưởng các vấn đề, kiểm tra các hệ thống và giả thiết, cũng như mở rộng trí tưởng tượng của chúng ta[20].

Trong nghiên cứu văn học và các loại hình nghệ thuật xuyên phương tiện, phê bình hậu nhân phổ biến hai chiều hướng tiếp cận: (a) ứng dụng hậu nhân luận như nền tảng lý luận cho việc phân tích diễn ngôn nghệ thuật; (b) xem diễn ngôn nghệ thuật như sự nối dài, khuếch trương, hưởng ứng, thúc đẩy hậu nhân luận. Tuy nhiên phải hiểu rằng trên thực tiễn, hai chiều hướng này không có sự phân định rạch ròi mà đôi khi tương hỗ bổ trợ lẫn nhau. Trên nền hậu nhân luận, phê bình hậu nhân tái khái niệm nhân vị không như chủ thể mà như tính tương quan (relationality). Tính chất này nảy sinh từ tương tác giữa nhân với toàn bộ giới phi nhân nhưng không đặt “nhân” ở trung tâm phóng chiếu. Nó khước từ các định chế khái niệm người vốn quen thuộc và phổ quát hóa. Đó là quá trình giải đồng nhất hóa (dis-identification) để thế giới không còn hiện lên qua ánh mắt người mà con người hiện lên qua tương tác với tất cả những gì không phải người. Thông qua nhịp cầu phê bình hậu nhân, văn học hậu nhân đóng vai trò như cơ chế kiểm nghiệm; chứng minh sự tồn tại; bổ trợ mở rộng nội hàm và ngoại diên của hậu nhân luận. Phân tích diễn ngôn nghệ thuật trong bối cảnh văn hóa đại chúng, phê bình hậu nhân không giới hạn trong văn bản văn học mà còn hướng đến các loại hình nghệ thuật xuyên phương tiện. Việc ứng dụng phê bình hậu nhân trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam theo chiều hướng đó có thể mở ra nhiều vấn đề mới.

Tựu trung, từ hậu nhân luận đến văn học hậu nhân và phê bình hậu nhân, bài viết bước đầu gợi mở và phác họa vài chủ điểm nền tảng. Trong khi hậu nhân luận vẫn đang tiếp tục vận động phát triển nên bài viết trông đợi thêm nhiều chuyên luận bổ sung và mở rộng lĩnh vực nghiên cứu này.

Rừng Dầu, 29/10/2023

Võ Quốc Việt

(Nguồn: Võ Quốc Việt (2023). Hậu nhân luận và Nghiên cứu văn học. Tham luận hội thảo "Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học từ tầm nhìn hiện đại". Viện Văn học).



 

Comments

Popular posts from this blog

LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN

  LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN Thuật ngữ “Hậu nhân luận” được sử dụng để chỉ loạt quan điểm lý thuyết đương thời được đưa ra bởi những nhà nghiên cứu có nền tảng học thuật trong lĩnh vực triết học, khoa học và nghiên cứu công nghệ, nghiên cứu văn học, lý thuyết phê bình, xã hội học phê phán và nghiên cứu truyền thông. Trong những lĩnh vực nghiên cứu này, hậu nhân luận nêu ra một loạt các sự phá vỡ giả thiết nền tảng của văn hóa phương Tây hiện đại: đặc biệt, hậu nhân luận đề ra lối nhận thức mới về chủ thể người trong tương liên với thế giới tự nhiên nói chung. Lý thuyết hậu nhân đề xuất nhận thức luận mới không lấy con người làm trung tâm và lẽ đó không đặt trọng tâm ở nhị nguyên luận của Descartes. Nó tìm cách làm xói mòn những ranh giới cố hữu giữa con người, động vật và công nghệ. Lý thuyết gia hậu hiện đại Ihab Hassan đã đặt ra thuật ngữ này và còn nêu ra định nghĩa mang tính khai mở trong bài báo với tiêu đề “Prometheus as Performer: Towards a Posthumanist Culture?” (1977). Liên...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...