Loạt bài: TỪ DỊCH
NHÂN LUẬN ĐẾN HẬU NHÂN LUẬN
***
Kỳ 1: “AI” CÓ PHẢI
MỘT VẤN ĐỀ VĂN HỌC?
(Võ Quốc Việt)
*
Khoa học công
nghệ làm thay đổi điều kiện nhân sinh, kéo theo sự thay đổi nhân luận. Nên
chăng, hiểu hậu nhân luận như bước diễn tiến của chủ nghĩa nhân văn hơn là sự đạp
đổ/phủ định/bôi xóa. Có lẽ nên hiểu, hậu nhân luận như luận thuyết về vấn đề
nhân bản/nhân tính trong điều kiện hậu công nghiệp. Cũng có thể xem nó là bản
tường trình đương đại và viễn cảnh của chủ nghĩa nhân văn trong tương lai.
1. Có hay
không “dịch nhân luận”?
Dịch nhân luận
(transhumanism) là gì? Thuyết này bàn đến sự dịch chuyển/biến đổi cả tồn tại
sinh học và tồn tại xã hội của con người trong điều kiện bị/được ảnh hưởng bởi
khoa học công nghệ hiện đại[1].
Sự biến đổi điều kiện nhân hình-nhân tính dẫn tới biến đổi quan niệm về nhân bản.
Dịch nhân luận căn bản thể hiện quan niệm về sự gia tăng và mở rộng quan niệm về
con người, tức sự gia tăng/mở rộng nhân hình-nhân tính (từ N thành N’, từ nhân
thành dịch nhân; và từ NHÂN đến HẬU NHÂN). Dù muốn dù không, sự phát triển khoa
học công nghệ đã làm thay đổi toàn diện đời sống con người. Không có gì kỳ lạ
khi nhận ra quan niệm người “trượng phu” trung đại quá khác biệt với quan niệm
“công dân toàn cầu”, hay quan niệm “tao nhân mặc khách” với hình tượng “play
boy” thời nay. Chỉ ra sự khác biệt hầu như hẳn nhiên và tất yếu này nhằm để nói
đến quá trình dịch nhân cũng tất yếu và hẳn nhiên tương tự, để không ai phải ngờ
ngợ, ngỡ ngàng hoặc nghi ngại khái niệm dịch nhân và dịch nhân luận. Điều này
buộc chúng ta phải thừa nhận: nhân đã thành ra “dịch nhân” hoặc chí ít đã trở
nên nhân hình-nhân tính khác. Biến đổi (thậm chí cực đoan hơn là đột biến) tất
yếu và cần thiết cho sự phát triển. Phát triển vừa kết quả diễn hiện vừa khả lực
tiềm tàng. Hẳn nhiên, biến đổi này cũng bao gồm cả nguy cơ khôn lường. Vấn đề dịch
nhân luận khởi đi từ điều kiện nhân hình-nhân tính mới để xây dựng hệ thống
quan niệm khác về con người với tất cả vận động đa dạng của nó trong điều kiện
mới (cả cơ hội và thách thức). Trong đó, trọng tâm cứu xét nằm ở biểu hiện nhân
hình, vận động nhân tính của hậu nhân, mở rộng khái niệm “nhân” tức là mở rộng
khái niệm “nhân giới”. Người bây giờ gồm cả ý nói đến: chủng người mới, tổ hợp
cơ giới điều khiển, thực thể kỹ thuật số độc lập, …
Như vậy dịch
nhân luận và hậu nhân luận động chạm đến vấn đề căn cơ của định dạng nhân tính,
không lý nào không can hệ đến sự phản ánh người và nhân sinh của văn học, và hẳn
nhiên có thể can hệ đến nhãn quan tiếp cận văn bản văn học.
2. Dịch
nhân và hậu nhân?
Vấn đề xác định
khái niệm có vai trò tiên quyết và rất ngặt nghèo. Nhưng nên chăng, sự xác định
dịch nhân và dịch nhân luận với hậu nhân và hậu nhân luận nằm ở mối tương quan
của các khái niệm. Xác định mối tương quan của các khái niệm góp phần xác định
khái niệm; chứ không thể định danh khái niệm theo lối “khu biệt hóa” hay “bỏ vào
ngoặc” hay đưa khái niệm đó vào “phòng thí nghiệm”. Mỗi người có thể đặt khái
niệm ấy trong điều kiện khởi sinh, nhìn nhận mối tương quan giữa chúng (nhânàdịch nhânàhậu nhân) trong quá
trình vận động biểu hiện để xác định các khái niệm kéo theo. Thiết nghĩ, đó là
cách định danh khả dĩ phù hợp.
Lẽ đó, dịch
nhân luận tập trung nhiều hơn vào quá trình dịch chuyển/nguyên do dịch chuyển của
NHÂN thành HẬU NHÂN. Trong khi đó, hậu nhân luận tập trung nhiều hơn vào viễn
tượng khả dĩ của NHÂN trong tương lai. Ở khía cạnh này hậu nhân luận ít nhiều nằm
trong phạm vi tương lai học (futurology). Nhưng điểm chung, cả dịch nhân luận
và hậu nhân luận đều là sự “cách tân/tái tân” chủ nghĩa nhân văn.
Liệu việc này
có cần thiết không? Có lẽ không bắt buộc bàn đến tính cần thiết của những bàn
luận về dịch nhân và hậu nhân. Bởi vì vấn đề ấy đã và đang hiện diện “sát nách”
trong cuộc sống nhân loại (sự thay đổi phương tiện và cách thức liên hệ người,
phương pháp đông xác (cryonics), công nghệ gen, công nghệ nano, người máy, trí
tuệ nhân tạo, …). Dù gì cũng không thể loại trừ biểu hiện và vận động “dịch
nhân” trong cuộc sống thường nhật (trên cấp độ vi mô lẫn vĩ mô). Không nhất thiết
đặt ra câu hỏi cần phải “tái tân” nhân văn chủ nghĩa hay không, mà cần thiết
xác định nên xuất phát từ lập trường-nhãn quan nào cho việc thiết lập quan niệm
về dịch nhân và hậu nhân. Vấn đề xác định nhãn quan tiếp cận còn “chí tử” hơn
chính đối tượng tiếp cận. Bởi vì từ nhãn quan/lập trường mà dịch nhân hay hậu
nhân có thể hiện ra như cánh cửa hoặc nấm mồ.
3. Tại sao
phải đồng thời bàn đến dịch nhân luận và hậu nhân luận?
Nếu tách rời dịch
nhân luận và hậu nhân luận, bạn đọc dễ nhìn nhận hậu nhân luận như một hệ thuyết
hàm hồ, giả tưởng hoặc chỉ là thói viễn vông của một số học giả/khoa học gia mơ
mộng. Hệ quả này khởi đi từ chỗ dịch nhân luận bám sát trên phương pháp nghiên
cứu khoa học thực chứng và nghiên cứu trên tình trạng/bối cảnh/điều kiện phát
triển kỹ nghệ mà con người dễ dàng nhìn thấy (dễ thuyết phục) hơn là nghiên cứu
hậu nhân (vốn ít nhiều hướng đến viễn cảnh khả dĩ). Do đó, nếu tách rời hậu
nhân luận và dịch nhân luận thì bạn đọc có thể đi đến chỗ phủ nhận khái niệm “hậu
nhân”.
Một lý do nữa,
khiến cho hậu nhân luận ít được phần đông người chấp nhận: Dịch nhân luận cho
thấy niềm tưởng lạc quan vào sự phát triển kỹ nghệ (chí ít là mọi người dễ nhìn
thấy ích lợi của công nghệ đối với sự phát triển đời sống con người), trong khi
hậu nhân luận gợi ra nhiều nguy cơ tiềm tàng về viễn cảnh nhân sinh rủi ro. Thế
nên, hậu nhân luận dễ bị đánh đồng với khoa học giả tưởng và thiên về hư cấu
nghệ thuật hơn là vấn đề khả tín. Tuy nhiên, nếu bạn đặt dịch nhân luận và hậu
nhân luận trong mối quan tâm đồng thời, bạn có thể nhận thấy ích lợi của việc
này ở hai khía cạnh: (1) khiến dịch nhân luận trở thành kiểu xuyên vượt nhân luận
(hyper-humanism); (2) khiến hậu nhân luận có thể tái thiết nhân bản luận (humanism).
Mở rộng ra,
nhân bản luận (humanism) – dịch nhân luận (transhumanism) – hậu nhân luận (posthumanism)
biểu thị tương liên biện chứng, cho thấy vòng khép kín hữu cơ cần thiết cho sự
vận động nhân tính trong các điều kiện nhân giới khác nhau. Mà dịch nhân luận
và hậu nhân luận (xét trên phương diện chức năng) chính là tái nhân tính hóa (rehumanization).
Vòng khép kín hữu cơ ấy cũng biểu hiện đặc trưng của Thế nhân sinh (Anthropocene).
Trong đó, chức năng nhân bản luận: kiến thiết định vị nhân tính và giá trị nhân
tính; chức năng dịch nhân luận: thúc đẩy biến đổi nhân tính và hệ giá trị nhân
tính; chức năng hậu nhân luận: tái nhân tính hóa dựa trên tái nhận thức nhân
tính và giá trị nhân tính, hướng đến nền nhân tính mới/nhân bản mới. Vòng lặp
này không chỉ đang diễn ra, mà đã từng diễn ra không ít lần.
Thiết nghĩ,
tương quan nhân bản luận-dịch nhân luận-hậu nhân luận và cơ chế tái nhân tính
hóa nên được chú ý trong việc cứu xét văn bản văn học trên nền tảng chủ nghĩa
nhân văn và văn hóa bản địa.
4. Phân kỳ
dịch nhân luận và hậu nhân luận?
Hẳn nhiên quan
niệm dịch nhân và hậu nhân đã tồn tại trong cách thế khác nhau, rải rác tư tưởng
Đông Tây xưa nay. Thế nhưng các học giả Tây phương cho rằng nền tảng tư tưởng
cho dịch nhân luận và hậu nhân luận khởi đi từ thời kỳ Khai sáng[2].
Việc này xem như cách để các học giả “thuận tiện” tiếp nối quan niệm nhân bản.
Điều đáng quan tâm hơn, chính là: ngay ở đỉnh cao chói lọi của nhân bản luận
thì mầm móng của dịch nhân và hậu nhân đã khơi mào. Giai đoạn kịch liệt của mối
quan tâm về dịch nhân và hậu nhân có lẽ khởi đi từ sau thế chiến thứ II với nạn
diệt chủng, chiến tranh ủy nhiệm và các biến động địa chính trị nhiều khu vực
trên thế giới. Nhất là trong cuộc chạy đua vũ trang thời chiến tranh lạnh, song
hành quá trình phát triển như vũ bão của khoa học kỹ nghệ hiện đại. Cho đến
nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ nghệ ngày càng rộng mở, tốc độ ngày càng nhanh
chóng. Nhất là từ thập niên 1990 trở đi[3].
Dựa vào đó, tạm có thể hình dung: Nhân bản luận (Trước và trong thời kỳ Khai
sáng); Dịch nhân luận (Sau khai sáng tới Liên Xô sụp đổ); Hậu nhân luận (Sau
khai sáng tới Liên Xô sụp đổ đến nay).
Quả thực, quá
trình định danh-phân kỳ nhập nhằng và chồng lấn. Việc phân chia này mang tính
tương đối không hoàn toàn rạch ròi mốc thời gian. Việc phân kỳ như vậy dựa trên
nguyên động lực trong thực tiễn dẫn đến mối quan tâm và hoạt động nghiên cứu,
đưa tới sự định hình của các vấn đề. Nhất là mối quan hệ song hành-đồng thời-gắn
liền nhưng cũng có sự phiên biệt nhất định giữa dịch nhân luận và hậu nhân luận.
5. Dịch
nhân luận, hậu nhân luận và nghiên cứu văn học nghệ thuật?
Một trong số
nguyên nhân khiến công chúng quan tâm nhiều hơn đến dịch nhân luận và hậu nhân
luận là trào lưu văn chương khoa học khoảng thập niên 1980. Nhiều sáng tạo văn
chương khoa học liên quan đến trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, công nghệ gen,
người máy, người nhân bản, … Chẳng hạn: Seth McEvoy với Not Quite Human (1980); Lawrence Watt-Evans với The Cyborg and the Sorcerers (1982);
William Gibson với Neuromancer (1984),
Bruce Sterling với Crystal Express
(1989) … Trong điện ảnh, có một số bộ phim như: Cyborg 009: Legend of the Super Vortex (1980); Heartbeeps (1981); Blade
Runner (1982); Born in Flames (1983);
Tetsuo: The Iron Man (1989); ... Tất
nhiên, những sáng tạo này không góp phần định hình khung khái niệm của dịch
nhân luận như một hệ thuyết khoa học nhân bản nhưng đã góp phần truyền cảm hứng
cho các nhà nghiên cứu dịch nhân. Một số quan điểm xác định nguồn cơn hậu nhân
luận khởi đi từ một số “chất điểm” tư tưởng trên chu trình vận động tư tưởng
Tây phương, chẳng hạn như: Stefan Herbrechter xác định hậu nhân luận khởi đi từ
quan điểm tái thiết hệ giá trị của Nietzsche và xem Nietzsche như người phát khởi
không mấy dễ chịu của hậu nhân luận[4];
Neil Badmington xác định hậu nhân luận từ xã hội học Karl Marx và tâm lý học
Freud[5];
hay Pramod K. Nayar xác định hậu nhân luận từ sự khởi xuất và cấu thành của các
diễn ngôn gồm hậu cấu trúc luận, nữ quyền luận, thuyết đồng giới và khoa học kỹ
nghệ[6].
Chỉ đến thập niên 1990, các vấn đề khái niệm, hoạt động tổ chức nghiên cứu ứng
dụng phát triển rộng rãi thì dịch nhân luận coi như đi vào giai đoạn mới. Kể từ
đây dịch nhân luận ngày càng khác đi so với niềm tin tưởng lạc quan ban đầu của
các nhà dịch nhân khai mở. Bởi các tổ chức (như World Transhumanist Association/WTA
chẳng hạn), đi vào phát triển thuyết dịch nhân đồng thời nhận diện và đối diện
kịch liệt với các trở ngại và hệ lụy của lĩnh vực này.
Điều này cũng
có nghĩa, khoa học văn học trong hệ thống khoa học nhân văn nói chung không thể
không can hệ trong thực tiễn biến đổi nhân hình-nhân tính hôm nay. Dịch nhân luận
và hậu nhân luận vừa như thực tiễn cần phản ánh trong văn chương vừa như hệ thống
nền tảng lý luận cho việc nghiên cứu. Minh chứng là hàng loạt công trình đầu thế
kỷ XXI, như: The New Human in Literature:
Posthuman Visions of Change in Body, Mind and Society after 1900 (2013)[7];
Posthumanism in literature and
ecocriticism (2016)[8];
Posthuman spaces of relation: Literary
responses to the species boundary in primate literature (2016)[9];
The Posthumanist Methodology in Literary
Criticism (2020)[10];
…
*
Dẫu không hoàn
toàn rạch ròi nhưng chí ít cũng có sự phân định tương đối ranh giới dịch nhân
luận và hậu nhân luận. Khởi đầu dịch nhân luận phác họa và hướng đến viễn tượng
duy trì nhân tính với môi trường xã hội thuận lợi hơn cho sự tiến hóa tâm linh.
Nhưng dần dà (nhất là trong thời chiến tranh lạnh), khoa học kỹ nghệ lại vượt
qua ranh giới sinh học, ranh giới cơ học trong việc nhìn nhận nhân tính, khiến
cho hệ giá trị nhân tính ít nhiều phá sản – đây cũng là bước ngoặt đẩy tới Hậu
nhân luận bởi sự ra đời bán nhân (cyborg), vô tính nhân (Clone), hợp nhân/người
hỗn hợp, hay có thể nói là một dạng phức tạp khó phân loại hơn; nhất là trí tuệ
nhân tạo.
Điều thú vị đó
là: văn học (dòng văn học khoa học viễn tưởng) đã truyền cảm hứng cho các nhà dịch
nhân luận và các nhà hậu nhân luận để từ đó các nghiên cứu dịch nhân và hậu
nhân được ứng dụng vào nghiên cứu văn học nghệ thuật và các phương diện nhân
tính nói chung. Văn học nghệ thuật quả thực vừa chất xúc tác vừa một trong số đối
tượng cho sự nghiên cứu dịch nhân và hậu nhân hôm nay.
Rừng
Dầu, 11/06/2023
Võ Quốc
Việt
Tham khảo
·
Badmington, N. (ed., 2000). Posthumanism. New
York: Palgrave.
·
Herbrechter, S. (2013). Posthumanism: A Critical
Analysis. London et al.: Bloomsbury.
·
Iovino, S. (2016). Posthumanism in literature
and ecocriticism. Relations, 4(1), 11-20.
·
Kowalcze, M. (2020). The Posthumanist
Methodology in Literary Criticism. Forum for World Literature Studies (vol. 12,
no. 4, Dec. 2020), pp. 707-721.
·
Nayar, P.K. (2013). Posthumanism. Cambridge et
al.: Polity Press.
·
Ranisch, R. and Sorgner, S. L. (eds., 2014).
Post- and Transhumanism: An Introduction. New York: Peter Lang Edition.
·
Rosendahl Thomsen, M. (2013) The New Human in
Literature: Posthuman Visions of Change in Body, Mind and Society after 1900,
London: Bloomsbury.
·
Villanueva Romero, D. (2016). Posthuman spaces
of relation: Literary responses to the species boundary in primate literature.
Relations, 4(1), 81-94.
·
Wolfe, C. (2010). What is posthumanism?
(Posthumanities series V.8). Minneapolis and London: University of Minnesota
Press.
Comments
Post a Comment