Trích: "TRƯỜNG THƠ LOẠN QUA THẨM MỸ QUAN DIONYSOS"
(Võ Quốc Việt)
***
"Sử linh tư tưởng"
Trên phương diện tư tưởng, có thể nói “Chơi giữa mùa trăng” thuộc vào hàng đệ nhứt kiệt tác của Trường Thơ Loạn và thơ Việt hiện đại. Lẽ vì nó biểu thị hầu như mọi nẻo của hồn linh Dionysos với khả lực loạn cuồng phi thường.
Nên
nhắc lại, loạn không mang sắc thái tiêu cực; gọi “loạn” chỉ để nói đến cách thế
khác với sự mực thước đoan chính mà thôi. Loạn tức phi thường. Loạn vượt đến “linh
hồn thanh khiết”.
“Khi
ngòi bút của tôi đã thấm nhuần những ý nhĩa cao cường, truyền sang bởi điện
tính truyền của trí tuệ, tôi phơi lên mảnh giấy thanh sạch này những tình cảm
nóng ran, tràn trề và thơm lựng. Hỡi quý nhân, người có nghe thấy điều gì mới lạ,
tinh khôi, reo lên, hiện lên, và sử linh tư tưởng của người? Người cảm giác ra
làm sao! Hay là mắt người đã no rồi, tai người đã đầy hơi khoái lạc, thần trí
người đã mê man, người linh tính để phân biệt màu sắc và âm thanh của sự vật.
Người thấy gì trong ánh sáng?”[1].
Dường như trong tâm tưởng vọng lại âm ba Hy Mã tuyết phủ ngàn năm và lời Zarathoutra thủ thỉ bên tai từ bữa xa rời linh trưởng. Chỉ có thể một sinh thể nghệ thuật bốn chiều! Tiếng hát mộng du dần đi vào cõi tâm linh, tức là vượt thoát khỏi giới ba chiều, đi vào giới bốn chiều, tức thời tính. Biểu hiện khả thể nội tại bốn chiều: phá vỡ quy hệ tư duy, phá vỡ quy phạm ngữ ngôn; phá vỡ quy thúc tâm lý; vận động từ tâm trí đến tâm linh (căn bản ở chỗ xem thời tính cũng như không tính).
Hàn
và Bích đã tương phùng ở cõi ấy. “Sự phát triển bồng bột quá, dồi dồi quá, sẽ
đưa linh cảm chàng đến một địa hạt siêu thần hơn; thơ chàng cũng như hồn chàng,
sẽ qua hết những không khí nhiệm mầu, bay cao đến tột cùng của Nước Trời hay
chìm đắm xuống đáy sâu Địa-Ngục”[2]. Hàn còn tinh ý nhận ra lối
“điển quang biện chứng pháp” trong thơ Bích. Ở chỗ, Hàn phân tích màu sắc
cụ tượng và màu sắc trừu tượng hiển hiện từ lối điển quang ấy[3]. Hiện hữu Bích chẳng phải
hiện như hữu “máu thịt” mà đã hữu như hiện “tinh linh ánh sáng”. Và thần thức
điển quang ấy khiến Hàn phải thốt lên: Bích là một thi sĩ thần linh.
Nhìn
Hàn từ phía Nietzsche, từng có người còn đặt Hàn cao hơn Nietzsche. “Nietzsche
hay Heidegger thì cũng đang mê đắm nơi trò chơi phủ nhận. Chỉ có Hàn Mặc Tử là
không lập lại, không trích, không từ chương. Con người Hàn Mặc Tử, con người thể
xác và thần trí, rả ra để phát nên Lời, như Bồ tát Quảng Đức thoát trên đầu Lửa,
im như nguyệt, mà truyền TIN cho thế giới”[4]. Thi Vũ thấy Nietzsche còn
quẩn quanh túng khẩu trong khi Hàn đã vang lời. Từ phía Thể Tính Bàu Đá, Thi Vũ
xác lập Hàn như nỗ lực “sử linh tử tưởng”[5]. Nhưng cả Thi Vũ và Phạm
Công Thiện vẫn còn đứng ở dưới ngó lên, bởi tại vin vào căn bệnh quái ác để bàn
đến thi sử Hàn Mặc Tử, bàn đến sử mệnh Hàn Mặc Tử liên hệ sử mệnh quê hương.
Sao thiên hạ vẫn thường vin vào chuyện bệnh tật của Hàn để luận chứng về cách
thế dị thường ấy. Trong khi bệnh tật chỉ là vấn đề thể xác mà nếu như không có
sự khai mở trước đó thì cái bệnh quái ác kia sao có thể bung nở hoa điên trác
tuyệt (bao nhiêu người bất hạnh vướng bệnh hiểm nghèo nhưng đâu phải ai cũng trở
thành Hàn Mặc Tử). Liệu có ai để tâm quãng đời thơ ấu kịch liệt của Hàn và giây
phút cận tử do Nguyễn Bá Tín kể lại, đã tác động triệt để đến Trí, biến Trí
thành ra Hàn Mặc Tử. Giây phút cận tử trên phương diện tinh thần đưa Hàn đến với
sự thức nhận về tâm linh. Phải chăng đây mới là nguyên do dẫn tới khai mở và khả
năng nhạy cảm khác thường của Hàn đối với hữu hiện thế giới, là chìa khóa đưa
Hàn đến đệ tứ chiều kích, khiến Hàn hiểu “vĩnh cửu tính chất” của Nietzsche để
tao ngộ với hằng cửu ấy trong thơ Bích và Chế. Mấy lời nhắc nhớ của Hàn khi
tương ngộ với Bích, thiết nghĩ, có thể làm bằng chứng cho mối tương quan/tương
đồng nào đó giữa cơn say Rượu Đế An Nam với cuộc nhậu Pinot Gris Đức Quốc.
Thành
ra, “làm sao mà hiểu thấu được cái hay thấm thía, cái âm nhạc réo rắt, cái
linh hồn siêu việt của thi phẩm người”[6]. Về Xuân Như Ý và Thượng
Thanh Khí: Trần Thanh Mại còn nhìn thấy: “Hồn thơ của thi sĩ càng ngày càng
xa cõi thế gian và mọi thứ tình tứ của người thường, như một làn trầm hương bốc
tỏa lên cao, cao mãi, khi thơ của thi sĩ cũng vượt ra ngoài cả bầu không khí trần
gian mà dâng lên tận những tầng khinh khí thiên không, những vùng trời, cao khiết
đến không hề nhuốm lấy một hạt bụi nhỏ, thanh tịnh đến không hề rộn lấy một tiếng
động chạm”[7].
Việt giới ở chỗ biết rằng không có giới hạn. Thiên địa tứ thời, nhân gian ấm lạnh,
mà Hàn chỉ rặc một cõi xuân. Bởi vì đâu? Trần Thanh Mại ví Hàn như con tằm ủ
kén (nói vậy có phải để hậu thế viện cớ phúng thích "tháp ngà” yếm thế).
Làm vậy khác gì bắt con phượng hoàng đem nhốt vào lồng. Vậy thì tội nghiệp phượng
hoàng lắm ru! Bởi con chim tung cánh rẽ thêm phương trời. Con chim phượng hoàng
đã bỏ lại cõi người dưới vòm trời. Chính Trần Thanh Mại xác nhận phượng hoàng bỏ
đời thế tục. “Thi sĩ đã đi lạc đường ra ngoài mức, ngoài trình độ lĩnh hội của
người thế gian, nghĩa là ngoài cả lĩnh hội của chính thi sĩ nữa.”[8]. Có phải ngầm thừa nhận: không
thể suy nghiệm[9]
thơ Hàn. Hàn cố vượt ra ngoài phạm vi ngữ nghĩa của ngôn ngữ ba chiều. Sự võ
đoán, lỏng lẻo giữa vỏ và ruột, giữa xác và hồn khiến cho ngữ ngôn ba chiều
thành ra khí cụ tai hại dẫn đến cảnh lệch pha giữa người với người, khiến cho vực
thẳm tôi và phi-tôi, giữa ngã với tha càng thêm dịu vợi muôn trùng. Hàn từng
nói: “sự cắt nghĩa đối với thơ là vô ích. Người ta cảm biết một cách tự
nhiên”[10].
Bởi “Trí Người đã dâng cao và thơ người dâng cao hơn nữa. Thì ra Người đang
say sưa đi trong Mơ ước, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra ngoài
Hư linh…”[11].
Vậy thì ai nỡ bắt ý thơ/hồn thơ/nguồn thơ phải “nằm trong phạm vi lĩnh hội của
người”, liệu có phải “cầm tù” Hàn hay không?
Thơ
Hàn-Bích-Chế ví như “Dimethyltryptamine” mà người xưa vẫn dùng để thông
linh. Thi ca=liên kết phân tử tâm linh. Và khi Hàn cho rằng Bích là thi sĩ thần
linh thì chính Hàn đã tương phùng với Bích ở chỗ ấy. Và sự thông linh này liệu
có gần gũi thân thích gì với nẻo đạo Xuân Thu sau nữa thì chưa dám nói, nhưng
nét tương đồng thượng thanh khí với thanh khí thì có thực!
““Thơ” là Đạo, cái
đệ nhất nguyên lý, sẽ sáng tạo được vạn vật, khi đã chia âm dương. Âm dương phải
tương phối mới có sáng tạo, phát huy được cái đạo nguyên thủy”[12].
Chế
Lan Viên cũng chia sẻ với Hàn ở điểm: loạn trào lý trí. Chớ lấy lý do bệnh hoạn,
mà nên nhớ khoảnh khắc cận tử hồi niên thiếu đã biến Nguyễn Trọng Trí thành ra
Hàn Mặc Tử, mới là thâm nguyên sơ xưa dẫn bước chàng đến đệ nhứt hiện thực – thực tướng của hữu tại. Và dù gán cho Hàn tượng
trưng khuynh hướng, siêu thực trào lưu hay tôn giáo thi ca, tất cả đều là Hàn
mà không phải là Hàn. Có lẽ, chàng chỉ như một hơi Rượu Bàu Đá trung phần nước
Việt.
Cốt
thơ/Thần thức vũ trụ (Cosmic consciousness): khả năng trực quan bản chất. Thơ
ca tức đốn ngộ! Bấy giờ có thể hiểu vì sao giây phút “cận tử” của linh hồn đưa
chữ nghĩa vượt qua ngữ thức khế ước thông thường! Chính ở thần thức, lý giải vì
sao anh bồ nhí Dionysos nằm dưới lòng huyệt mộ u minh vô thức vẫn có thể linh
hiển đội mồ.
Đến
đây, sau khi đã dụng đến quy hệ Apollo-Dionysos để định vị Trường Thơ Loạn. Vị
đã định thì quy hệ không còn cần thiết nữa. Từ rày trở đi, bạn đã có “loài thi
sĩ” trung phần nước Việt chuyên chở thơ Việt sang bờ tư tưởng. Từ nay về sau,
chớ ai hò xê xự xàng liu để nhắc tới giống loài ấy nữa, mà hãy thắp nén tâm nhang
tiếp giao với loài ấy trong cõi vô lượng muôn đời!
Chung
quy, Trường Thơ Loạn (trong tương quan phần còn lại của Thơ mới), lập thành
cách thế tư tưởng, một phương thức tư duy, một hình thái tâm linh. Trường Thơ
Loạn: chân kinh của “sử linh tư tưởng” trong thi ca Việt thế kỷ XX.
Rừng Dầu, tháng 9/2022
Võ Quốc Việt
Trích tham luận Hội thảo khoa học: “90 NĂM THƠ MỚI VÀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN”.
Comments
Post a Comment