Skip to main content

VỀ ẨM THỰC TRONG VĂN XUÔI VŨ BẰNG VÀ TRẦN BẢO ĐỊNH

 

VỀ ẨM THỰC TRONG VĂN XUÔI VŨ BẰNG VÀ TRẦN BẢO ĐỊNH

(Võ Quốc Việt)

Có thực mới vực được đạo”. Ăn là sinh hoạt thiết yếu, gắn liền đời sống con người. Thiên hạ cho ăn là đệ nhứt tứ khoái. Và ăn cũng một nghệ thuật. Nên ăn biết ngon cần có thiện nghệ. Tay sành ăn có thể xem nghệ sĩ. Bắc-Trung-Nam đều có nghệ thuật ẩm thực riêng biệt, độc đáo, phong phú. Văn sĩ ba miền không ít người bàn đến chuyện ăn. Ở Bắc Việt rồi vào Sài Gòn, Vũ Bằng bàn về cái ăn từ Bắc tới Nam-có thể xem “tay sành sỏi” trong làng ẩm thực. Với bộ sách “Đất và người Nam bộ mến yêu”, Trần Bảo Định cũng khắc họa đặc sắc ẩm thực phương Nam.


1.

Ở miền Nam, Vũ Bằng không nguôi nhớ Bắc Việt. Do đó, ẩm thực trong trang văn Vũ Bằng là sự hồi tưởng nhung nhớ. Trong khi đó, Trần Bảo Định “nấu nướng” chủ yếu để gợi suy tưởng. “Món ăn thể hiện tính cách con người; đồng thời, nó cũng có thể tạo nên số phận[1]. Thiên về kể-tả, món ăn trong trang viết Vũ Bằng nổi bật với màu sắc, hình dáng. Vũ Bằng nhạy bén ở đôi mắt và đầu lưỡi; còn “Ông già Nam bộ nhiều chuyện” nhạy cảm ở khứu giác và vị giác. Trần Bảo Định chú ý đến mùi và vị bởi mùi vị có thể làm sống lại trí tưởng sâu xa. Nếu trang viết Vũ Bằng khiến độc giả thèm thuồng và nâng cao năng lực thẩm mỹ, thưởng thức; thì trang viết của Trần Bảo Định khiến độc giả thương cảm, suy ngẫm để rồi biết trân quý giá trị văn hóa truyền thống.

Qua ngòi bút Vũ Bằng, ẩm thực Bắc Việt (phở, rươi, bún chả, cốm Vòng, tiết canh cháo lòng, hẩu lộn, bánh đúc, bánh khoái, bánh Xuân Cầu,…) được khắc họa với bề dày truyền thống thẩm mỹ. Nhà văn khai thác giá trị thẩm mỹ trong sinh hoạt ẩm thực đời thường. “Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm thì thanh nhẹ, mát rượi đi. Ở trong thúng, bánh được xếp thành lớp kiểu như bực thang, trên những lá chuối xanh trong màu ngọc thanh; sắc trắng của bánh nổi lên nhưng nổi bật lên một cách hiền lành; và người ta tưởng tượng đến những người con gái bé nhỏ đứng ở dưới tầu tiêu đẹp một cách kín đáo và lành mạnh[2]. Ẩm thực Bắc Việt như “cấu trúc thẩm mỹ” độc đáo; trong đó, cách thưởng thức của người ăn là một bộ phận quan trọng hiệp thành “cấu trúc thẩm mỹ” ấy. Với Trần Bảo Định, ẩm thực còn là bộ phận trong chỉnh thể “cấu trúc văn hóa” gắn liền lịch sử xã hội Nam bộ. Đó là những món ăn của người lưu dân mở cõi (thường tùy nghi sản vật sẵn có; giàu tính sáng tạo, mới mẻ, tiện dụng, nhanh chóng, tức thời; có gì dùng nấy, cây nhà lá vườn). “Riêng dân hạng cá kèo như ba con, thì cơm độn khoai ăn với khô cá bổi hoặc đường tán…đựng bằng mo cau. Một lần má rắn mắt, cắc cớ giở lén mo cau cơm của ba con… chỉ có năm ba hột muối, và độc nhứt cục cơm nguội trộn khoai lang được vắt cẩn thận thiệt khéo[3]. Món ăn Nam bộ trong văn xuôi Trần Bảo Định gồm chứa ký ức văn hóa buổi đầu “sơn trạch” bước chân trên vùng đất mới.

2.

Như đã nói, ẩm thực trong trang viết Vũ Bằng khởi từ tiếc nhớ! Ngay từ đầu tập “Miếng ngon Hà Nội”, nhà văn đã thổ lộ niềm “tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không còn thấy[4]. Sự ăn thuộc về thời quá khứ phảng phất hương vị “vang bóng một thời”. “Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá khứ hơn[5]. Bởi quá khứ Bắc Việt với bao kỷ niệm và hình bóng người thương không mờ phai. Hẳn bạn cũng thấy, giữa xưa và nay, Vũ Bằng có khuynh hướng ngã về sự ăn năm cũ để mà thương mà tiếc, để thỏa nỗi nhớ nhung trỗi dậy trong lòng. Và cũng từ đó, sự ăn thiên về thụ hưởng thẩm mỹ, biến cảm thọ ẩm thực thành nghệ thuật. Thực vậy, “ăn đuông không phải là chỉ ăn một con sâu, nhưng là ăn cả một sự diễn tiến của mấy kiếp sống vào lòng, ăn đuông là ăn cả hương hoa của đất thơm, là cỏ cây mây nước, là ăn mấy chục năm buồn vui, tươi đẹp và thơ mộng[6]. Chắc hẳn Cậu Bảy Tân ở Cổ Chiêng cũng chưa nhận ra hết tinh túy món đuông dừa như Vũ Bằng. Ẩm thực với Vũ Bằng là hoạt động thẩm mỹ-nghệ thuật đầy thi vị. Điều này không có nghĩa trang văn Vũ Bằng không ẩn chứa triết lý, chỉ là ý hướng chủ đạo đi về phía “thẩm mỹ”. Trái lại, sự ăn trong văn xuôi Trần Bảo Định sống động tươi mới ở thì hiện tại. Trần Bảo Định có khuynh hướng khắc họa sự ăn bây giờ. Dẫu rằng “Ông già Nam bộ nhiều chuyện” không ít lần nhắc nhớ món ăn ngày xưa nhưng ở “thì hiện tại của quá khứ” để cho bạn nhìn lại “thảm trạng” sự ăn hôm nay. Lấy xưa nhìn nay, cốt để “hôm nay” bày ra trên bàn ăn! Bạn nếm mùi vị món ăn không chỉ luyến nhớ, thương tiếc mà còn phản tỉnh. “Từ ăn no mặc ấm; chuyển một cái rẹt qua ăn ngon, mặc sang thì, cái ăn đứng đầu tứ khoái có cơ mang gây biết bao điều hiểm họa[7]. Nhà văn Trần Bảo Định hướng sự ăn vào việc khai mở nhân sinh quan bình dân nhằm chuyển tải triết lý của người nhà quê Nam bộ. “Con người chém giết nhau từ cái ăn, phúc họa từ cái lỗ miệng! Biết mà vẫn phải … mới đau![8].  Và món cá linh hấp mía còn ẩn chứa triết lý sống chan hòa thấm đượm nghĩa tình; hướng đến hòa hợp, cân bằng chứ không áp chế, đè nén. Quan niệm ấy được trao truyền qua nhiều thế hệ. “Về sau, tôi mới vỡ lẽ: “hấp, ngữ nghĩa đậm chất chia sẻ ngọt bùi. Đã là chia sẻ ngọt bùi, mấy ai phủi đít quên lúc đắng cay! Kho, nói lên sự áp chế khắc nghiệt nhau. Đã là áp chế khắc nghiệt nhau, thiên hạ sẵn sàng muối mặt dù tiếng đời bia miệng!”. Tưởng rằng, “cá hấp cá kho” là câu nói hời hợt, dễ dãi của hạng dân dã; nào dè nó thiệt sâu và thiệt sắc của hạng người từng trải chốn phong trần[9]. Với Trần Bảo Định, sự ăn nhằm thức tỉnh và phản tỉnh!

3.

Giữa bao đổi thay, người Hà Nội vẫn trở về với nền nếp ẩm thực xưa cũ, vốn đã thành truyền thống khuôn mẫu, chuẩn mực. Dù cho cao lương mỹ vị phương xa cùng với đời sống văn minh kỹ nghệ Tây phương ùa vào xứ sở thì người Hà Nội vẫn nguyên phẩm chất trong việc ăn uống. Phố xá, nhà cửa, quần áo có thay đổi mà cái ăn vẫn thế. “Người Hà Nội rồi cũng quay về với những món ăn cổ truyền đặc biệt Hà Nội nó làm cho chúng ta thèm nhớ[10]. Và có lẽ, sự ăn khiến Vũ Bằng thèm-nhớ hơn cả chính là ẩm thực gia đình bên cạnh sự ăn ngoài hàng quán phố xa kinh kỳ. Bởi gần gũi mến thương quá đỗi, bởi gợi nhắc bóng người tần tảo gánh gồng, lẽ đó không thể không thương nhớ. Đây cũng là điểm chung giữa Vũ Bằng và Trần Bảo Định. Trang văn Trần Bảo Định cũng đong đầy niềm thương nhớ với những người phụ nữ lam lũ, vất vả: bà, mẹ, chị, và nhất là người vợ không quản cơ cực chăm lo miếng cơm manh áo cho mái gia đình. Để rồi, Trần Bảo Định mở rộng từ ăn trong gia đình đến ăn ngoài xã hội; ăn trong lễ hội (gà trống luộc cúng Giao thừa, cháo vịt lên nề ghe, cốm dẹp cúng Trăng,…) đến sự ăn tâm linh tín ngưỡng (cá lóc nướng trui cuốn lá sen non cúng Thần Nông, trứng-tôm-heo cúng Tam sênh, bánh trôi nước cúng ma da, bánh tét cúng tổ tiên dịp giỗ quải tết nhứt, …). Thông qua trang văn, Vũ Bằng lẫn Trần Bảo Định đều góp phần phác họa không gian văn hóa Việt thấm đẫm nghĩa tình!

Từ góc nhìn văn hóa, bạn cũng có thể nhận ra điểm chung (cũng như nét riêng) của mỗi nhà văn. Trang viết của họ đều thể hiện tình yêu thiết tha, chân thành với văn hóa ẩm thực dân tộc. Vũ Bằng viết về những món ăn như phở bò, phở gà, bánh cuốn, bánh đúc, bánh khoái, cốm Vòng, rươi, gỏi, bún chả, cháo lòng, hẩu lốn, … bằng niềm luyến nhớ, thèm thuồng, thiết tha trở về quê cũ. “Ăn vây, ăn bóng, ăn hải sâm, bào ngư, gì rồi cũng chán. Một buổi sáng kia, thấy nản về sự tiêu hóa, ta chợt nhớ rằng cơm trắng vẫn là lành và hợp với tạng phủ ta. Một bát phở khói bốc lên nghi ngút, một mẹt bún chả thơm ngào thơm ngạt, hay một đĩa đậu rán phồng nống rẫy lên, tự nhiên là cho ta nhớ ra rằng những cái đó đã tạo nên một phần nào linh hồn của Hà Nội; sở dĩ ta thấy không thể quên được Hà Nội cũng vì những thức ăn đặc biệt Hà Nội đó[11]. Nhớ ôi là nhớ! Đặc biệt Vũ Bằng còn tỏ ra am tường cả ẩm thực Bắc-Nam. Trong khi đó, Trần Bảo Định thấu hiểu tính chất “xuyên văn hóa” trong ẩm thực Việt-Hoa-Khmer trên vùng sông nước Cửu Long hơn ba trăm năm qua (bánh tét, lúa ma, rượu Ba Xuyên,…).

4.

Đối với “món lạ miền Nam”, Vũ Bằng từ chỗ kinh ngạc thành ra thích thú, khoái trá. Lẽ thường, phàm xa lạ dễ gây tò mò; mới đầu còn quái lạ (chuột nướng than hồng nhấm rượu đế bìm bịp, bò kiến vàng rưới mắm nêm cặp với rau thơm, hay dơi thui cắt tiết, …). Ông chưa hiểu vì sao có sự ngược đời nào là ăn cóc, ăn rùa, ăn chuột… Ông ái ngại miễn cưỡng nhưng một khi có dịp thưởng thức thì ngỡ ngàng nhận ra: ăn một lần dễ ghiền như chơi! Quả thực, Vũ Bằng đã “nhập gia tùy tục” và bạn cảm nhận được tình yêu mến vẻ đẹp quê hương miền Nam trong trang viết của ông. Một số món như canh rùa, khô, đuông, cháo cóc, dơi huyết, bò kiến, tóp mỡ ngào đường, … không ít bạn miền Nam đọc trang viết Vũ Bằng cũng ngỡ ngàng nhận ra sự thú vị của món ăn quê nhà vốn quen thuộc mà ít khi chú ý tới. “Vì thế, đừng tưởng ăn thế này là ta chỉ ăn thịt cóc mà thôi, nhưng chính là ta ăn hương thơm đồng ruộng, ăn … những bản nhạc dân ca, ăn … bao nhiêu cuộc “ân tình” “ra rít” vào lòng…[12]. Rõ ràng, Vũ Bằng đâu có ăn thường tình mà còn đẩy lên thành hình thức cảm thụ thẩm mỹ của hàng tao nhân mặc khách – cái ăn của tầng lớp trung lưu trí thức.

Với Trần Bảo Định, bạn nhận ra sự ăn của người nhà quê không thạo chữ nghĩa. Dẫu sự ăn của người Việt-Hoa-Khmer thẩy đều là hình thức ẩm thực của người bình dân quê mùa. Nhiều nhất là các món bánh và mắm. Mắm có: mắm ba khía, mắm còng, mắm tôm chà, … Bánh có: bánh tét, bánh tằm xíu mại, bánh giá chợ Giồng, bánh tằm Ngan Dừa, bánh hỏi Bãi Xàu, … Canh có: canh chua cá bống kèo với bông so đũa và đậu rồng, canh chua lá giang; và những món chim khìa, cháo cá lóc, ốc lát xào khóm, cá linh hấp mía, … chưa kể món ăn cúng kiếng giỗ quải. Nếu sự ăn của Vũ Bằng thuộc về người tao nhơn mặc khách thì sự ăn của Trần Bảo Định thuộc về người nhà quê miền sông nước Cửu Long. Qua đó, bạn thấy được cuộc sống lam lũ ở vùng đất mới, khả năng thích nghi và óc sáng tạo của người lưu dân trong việc nấu nướng, ăn uống.

5.

Thông qua ẩm thực, Vũ Bằng đề cập đến mối quan hệ giữa người với loài vật. Nhà văn ít nhiều ưu tư về vấn đề “nhân tính” trong việc ăn uống. “Nhưng muốn khôn đến chừng nào thì khôn, dơi cũng thua mưu mẹo của loài người ma mãnh. Vì thịt của nó ngon, vì mỡ của nó béo mà không ngấy, vì huyết của nó ngọt lại có tiếng là bổ thận, trừ lao, người ta tìm đủ mọi cách để bắt nó đem bán để ăn và để nhậu[13]. Đề cập trực diện hơn, Trần Bảo Định ưu tư rồi bàng hoàng về quan niệm “nhân chủ”/“con người trung tâm” trong mối quan hệ giữa người với thế giới xung quanh. “Nhìn con mắm còng trụi lủi thân, nằm trơ trọi trên dĩa thiếu hương vị đậm đà xứ sở, tự dưng Sáu xốn xang lòng; và cũng đã rõ sự tệ bạc của con người đối với thiên nhiên, đối với loài vật xung quanh. Còng mất dần và gần như tuyệt giống. Vả chăng, nếu còn là còn cái danh bất hư truyền mà người đời nay thường nhắc tới: “Bánh giá chợ Giồng/ Mắm còng Phú Thạnh””[14]. Trang văn Trần Bảo Định biểu hiện quan niệm “đạo đức sinh thái”, “diễn ngôn sinh thái” mà cũng là “diễn ngôn nhân tính”. Viết về ẩm thực, dù ít nhiều, cả hai nhà văn đều đề cao và khơi dậy lòng trắc ẩn trong hồn người.

***

Nhìn chung, khi viết về ẩm thực, trang văn của Vũ Bằng thiên về tính thẩm mỹ, còn Trần Bảo Định thiên về tính triết lý. Ở nhiều đoạn, cả Vũ Bằng và Trần Bảo Định đều có lối kể chuyện dí dỏm, tinh nghịch. Nhưng câu văn Vũ Bằng mượt mà giàu biểu cảm, câu văn Trần Bảo Định lại có phần gãy gọn, dứt khoát, sắc nét, nặng suy tư. Về giọng điệu, sự ăn của Vũ Bằng dường như man mác, đượm vẻ buồn thương. Đó là ăn vì nhớ hoặc vì nhớ nên sự ăn thành ra buồn thương khắc khoải. Còn Trần Bảo Định, sự ăn hiện tại, tức khắc trong đời sống đang diễn ra nên giọng văn tươi tắn, sôi nổi, hồ hởi và triết lý. Có thể nói, “chủ âm” trong trang văn Vũ Bằng là buồn thương; “chủ âm” trong trang văn Trần Bảo Định là triết lý. Tựu trung, văn hóa ẩm thực trong văn xuôi Vũ Bằng và Trần Bảo Định đều xuất phát từ tình yêu quê hương thắm thiết; thể hiện lòng trân quý, nhớ thương món ăn quê nhà. Trang văn đưa bạn đọc trở về quê cũ, khơi dậy trong lòng bạn nhận thức vẻ đẹp và giá trị văn hóa truyền thống, chất chứa hồn Việt đậm đà!

Rừng Dầu, 23/9/2022

Võ Quốc Việt

Tài liệu tham khảo

·         Vũ Bằng (1989). Món lạ miền Nam (in lần thứ hai). Đồng Nai: Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.

·         Vũ Bằng (2009). Miếng ngon Hà Nội (tái bản). Hà Nội: Nxb. Lao động.

·         Trần Bảo Định (2015). Đời bọ hung. TPHCM: Nxb. Văn hóa-Văn nghệ.

·         Trần Bảo Định (2017). Đất phương Nam ngày cũ. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn.

·         Trần Bảo Định (2018). Bóng chiều quê. TPHCM: Nxb. Tổng hợp.



[1] Trần Bảo Định (2017). Đất phương Nam ngày cũ. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn, tr.101.

[2] Vũ Bằng (2009). Miếng ngon Hà Nội (tái bản). Hà Nội: Nxb. Lao động, tr.46-47.

[3] Trần Bảo Định (2018). Bóng chiều quê. TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.183.

[4] Vũ Bằng (2009). Sđd, tr.15.

[5] Vũ Bằng (2009). Sđd, tr.15.

[6] Vũ Bằng (1989). Món lạ miền Nam (in lần thứ hai). Đồng Nai: Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, tr.59.

[7] Trần Bảo Định (2015). Đời bọ hung. TPHCM: Nxb. Văn hóa-Văn nghệ, tr.87.

[8] Trần Bảo Định (2015). Sđd, tr.111.

[9] Trần Bảo Định (2017). Sđd, tr.40.

[11] Vũ Bằng (2009). Sđd,tr.20.

[12] Vũ Bằng (1989). Sđd, tr.71.

[13] Vũ Bằng (1989). Sđd, tr.79.

[14] Trần Bảo Định (2017). Sđd, tr.113.

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN

  LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN Thuật ngữ “Hậu nhân luận” được sử dụng để chỉ loạt quan điểm lý thuyết đương thời được đưa ra bởi những nhà nghiên cứu có nền tảng học thuật trong lĩnh vực triết học, khoa học và nghiên cứu công nghệ, nghiên cứu văn học, lý thuyết phê bình, xã hội học phê phán và nghiên cứu truyền thông. Trong những lĩnh vực nghiên cứu này, hậu nhân luận nêu ra một loạt các sự phá vỡ giả thiết nền tảng của văn hóa phương Tây hiện đại: đặc biệt, hậu nhân luận đề ra lối nhận thức mới về chủ thể người trong tương liên với thế giới tự nhiên nói chung. Lý thuyết hậu nhân đề xuất nhận thức luận mới không lấy con người làm trung tâm và lẽ đó không đặt trọng tâm ở nhị nguyên luận của Descartes. Nó tìm cách làm xói mòn những ranh giới cố hữu giữa con người, động vật và công nghệ. Lý thuyết gia hậu hiện đại Ihab Hassan đã đặt ra thuật ngữ này và còn nêu ra định nghĩa mang tính khai mở trong bài báo với tiêu đề “Prometheus as Performer: Towards a Posthumanist Culture?” (1977). Liên...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...