MỘT SỐ VẤN ĐỀ SINH THÁI VĂN HÓA TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
(Võ
Quốc Việt)
***
1. Vì sao
có thể bàn đến thuyết sinh thái văn hóa trong nghiên cứu văn học?
Vận động toàn
cầu hóa buộc con người phải đối diện nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề môi trường
sinh thái. Thuyết sinh thái văn hóa (Cultural Ecology) quan tâm tìm hiểu, nắm bắt
và lý giải quá trình hình thành/kiến tạo, vận động và phát triển văn hóa trong mối
tương quan với quá trình thích ứng môi trường sinh thái. Hẳn nhiên tương quan
văn hóa và vấn đề thích ứng môi trường sinh thái có nhiều phương diện và chịu
nhiều tác động khác nhau. Do đó, thuyết sinh thái văn hóa, có lẽ, chỉ một trong
số hệ thống quan điểm góp phần lý giải mối quan hệ này. Đặc biệt văn học trong
tương quan khăng khít với văn hóa. Lẽ đó, thuyết sinh thái văn hóa khả dĩ mang
lại xuất phát điểm và góc nhìn chiếu rọi những giá trị nhân bản và vẻ đẹp của
sáng tác văn học.
2. Văn
chương như hệ sinh thái văn hóa.
Trên thực tế,
văn hóa hình thành vận động phát triển chưa bao giờ tách rời với môi trường. Văn
chương tương quan văn hóa như sinh thể thống nhứt, cố nhiên cũng ẩn chứa khả lượng
tiềm tàng về vấn đề sinh thái văn hóa. Nếu xem xét văn hóa như sinh thể sống động
trong mối tương giao môi trường thì văn chương như bộ phận cộng hưởng tích cực
đến toàn bộ hệ sinh thái văn hóa. Bấy giờ văn chương như biểu hiện góp phần bộc
lộ yếu tính của cả hệ sinh thái văn hóa. Vì lẽ đó, thuyết sinh thái văn hóa rất
thiết thực và hữu dụng cho việc tiếp cận và nghiên cứu văn bản văn học. Sáng
tác văn học cơ bản dựa trên chất liệu ngôn ngữ - những “mã văn hóa” cố nhiên
(dù hàm lượng, bảng mã, mã lực có khác nhau) song đều ẩn chứa trong tự thân lượng
tính văn hóa nhứt định. Điều này cũng cho thấy thuyết sinh thái văn hóa có thể
làm rõ đóng góp của văn chương trong vấn đề hành vi ứng xử với môi trường hay rộng
hơn “nhân tính môi trường” (environmental humanities) hiện nay.
3. Thuyết
sinh thái văn hóa và phê bình sinh thái.
Phê bình sinh
thái (ecocriticism) bao gồm nhiều chiều hướng khác nhau: chiều hướng xã hội-chính
trị (sociopolitical dimension); chiều hướng nhân học (anthropological dimension); chiều hướng tâm lý sinh thái (ecopsychological
dimension); chiều hướng đạo đức (ethical dimension); chiều hướng nhận thức luận
(epistemological dimension); chiều hướng thẩm mỹ (aesthetic dimension); … Trong
đó, chiều hướng thẩm mỹ (aesthetic dimension) quan tâm nhiều đến cứu xét văn bản
tưởng tượng hư cấu nhằm khai mở khả năng tái định vị đạo đức sinh thái, xây dựng
tinh thần mỹ học sinh thái và hệ sinh thái văn hóa nói chung. Chính ở đây, thuyết
sinh thái văn hóa gặp gỡ phê bình sinh thái. Nhìn từ phía phê bình sinh thái,
thuyết sinh thái văn hóa cung cấp hệ thống lý thuyết/công cụ nền tảng và phương
pháp hiệu quả trong việc tái nhận thức nhân tính và văn hóa người dưới nhãn
quan sinh thái.
4. Thuyết
sinh thái văn hóa và sáng tác văn học
Sáng tác văn học
xem như một trong số vận động của hệ sinh thái văn hóa. Qua lăng kính sinh thái
văn hóa, sáng tác văn học vừa cho thấy đời sống chữ nghĩa không tách rời chu
trình dịch chuyển năng lượng văn hóa trong đời sống tự nhiên và xã hội. Văn
chương vừa có sự vận động độc lập tương đối với các thiết chế văn hóa/sinh giới
văn hóa, vừa góp phần thúc đẩy phát triển toàn bộ hệ sinh thái. Nói khác, sáng
tác văn học có khả năng tác động lại chu trình vận động năng lượng trong hệ
sinh thái văn hóa/sinh giới văn hóa. Thế thì, giới văn sĩ thông qua hoạt động
chữ nghĩa cũng góp phần không nhỏ vào lượng tính văn hóa xã hội, là bộ phận
năng sản của năng lượng văn hóa. Từ thế giới đến tư niệm của giới văn sĩ, từ
trang viết của kẻ cầm bút đến tâm hồn của bạn đọc: có thể xem như quá trình rất
căn bản trong chu trình rộng lớn hơn – chu trình vận động năng lượng văn hóa. Với
sinh thái văn hóa, tâm trí không đơn thuần sinh hoạt thần kinh nội tại mà là một
khả thể/khả lượng tiến nhập vào đời sống con người, cũng nghĩa là khả lượng bồi
lưu vào dòng dịch chuyển năng lượng văn hóa. Sáng tạo văn học nói riêng, sinh
hoạt tinh thần nói chung, chẳng khác gì hoạt động trao đổi chất giữa sinh thể với
sinh giới của nó. Dẫu đôi câu thơ, vài truyện ngắn hay đơn sơ mấy nhận định văn
chương cũng đều tham gia vào đời sống văn hóa, nghĩa là góp phần triển hiện hệ
sinh thái văn hóa. Đời sống/vận mệnh của mỗi văn bản văn học rất khác nhau. Có
những vần thơ ngàn năm, có những áng văn thiên cổ, và có những “thần ngôn” chiếu
diệu đến muôn đời sau; chung quy sức sống văn chương tùy thuộc vào trữ lượng
văn hóa và khả năng cộng hưởng với sinh giới văn hóa trong đời sống con người.
5. Thuyết
sinh thái văn hóa và vận động năng lượng văn hóa của văn bản văn học
Xem xét văn bản
văn học như bộ phận hệ sinh thái văn hóa, thuyết sinh thái văn hóa có khả năng
nắm bắt, định vị, phát hiện quy luật vận động của năng lượng văn hóa trong mỗi
văn bản. Đồng thời, có thể lý giải một số vấn đề lịch đại của sự triển hiện văn
hóa, có thể phân định dòng chảy văn học trong hệ sinh thái văn hóa ở phạm vi
khác nhau. Tập trung vào sự vận động năng lượng văn hóa, thuyết này nhắm đến nắm
bắt các mối quan hệ tương liên đa chiều: tương liên nội tại và tương liên ngoại
hiện. Tương liên nội tại của văn bản văn học hay sự tác động qua lại giữa các
“tế bào”/ “mã” / “chất điểm” văn hóa trong cơ quan / bảng mã / hệ quy chiếu tự
thân. Tương liên ngoại hiện của văn bản văn học hay sự tác động qua lại giữa tự
thân văn bản với tất cả các bộ phận hiệp thành sinh giới văn hóa mà nó thù thuộc.
Nói một cách hình tượng, nhà phê bình tìm kiếm và minh định các dòng chảy năng
lượng văn hóa, chẳng khác gì dò tìm mạch nước văn hóa tàng ẩn trong ruộng vườn
chữ nghĩa! Và không chỉ tìm, nhà phê bình còn kết dệt hệ thống dòng chảy nhiều
cấp độ trên bức tranh sinh thái văn hóa nói chung. Để rồi, mạch nước văn hóa tưới
tắm môi trường tâm hồn con người hôm nay.
6. Thuyết
sinh thái văn hóa và quan điểm hệ hình tư duy văn hóa
Nếu liên hệ
thuyết sinh thái văn hóa với nhãn quan hệ hình, bạn sẽ thấy đời sống văn chương
đã trải qua không ít hệ hình tư duy văn hóa cũng chính là trải qua không ít hệ
hình sinh thái văn hóa khác nhau. Những hệ hình tư duy văn hóa/hệ hình sinh
thái văn hóa này có những biểu hiện, đặc trưng tính chất và cách thế vận động
năng lượng khác nhau. Nếu bạn lập định hệ hình trên diễn trình tiền hiện đại –
hiện đại – hậu hiện đại thì cũng lập thành diễn trình hệ hình sinh thái văn hóa
tiền-hiện-hậu. Tuy nhiên, bản thân tiền tố tiền-hiện-hậu biểu hiện thời tính, tức
võ đoán. Lẽ đó, phải chăng nên nhìn nhận hệ hình tư duy văn hóa dựa trên thể
tính sinh thể văn hóa. Dựa trên thể tính mà phân định, bạn liền nhận ra diễn
trình tư duy văn hóa đã trải qua các hệ hình điển phạm-khoa học-hoài nghi. Từ
đây, bạn cũng nhìn ra hệ hình sinh thái văn hóa có ba biểu hiện điển phạm –
khoa học – hoài nghi. Hay: (+) hệ hình sinh thái văn hóa nhân chủ; (+) hệ hình
sinh thái văn hóa nhân chủ cực đoan; (+) hệ hình sinh thái văn hóa phi nhân chủ.
Văn hóa xã hội hậu công nghiệp: một trong số biểu hiện của hệ hình sinh thái
văn hóa hoài nghi. Bởi ở đó, năng lượng mang khuynh hướng hoài nghi/tái thiết
chỉ số văn hóa là rất cao, rất phổ biến do năng lực xô đẩy/dao động của nhu cầu
tái cấu trúc hệ sinh thái văn hóa. Đơn giản vì nguồn cơn thao túng làm suy kiệt
môi trường sinh thái nằm ở chính bàn tay và khối óc con người. Hẳn nhiên, chiều
hướng tái thiết này ẩn chứa không ít nguy cơ tiềm tàng.
7. Tích hợp
văn học với thực nghiệm cảm tính và khoa học thực chứng
Từ góc nhìn
thuyết sinh thái văn hóa, văn bản văn học chứa đựng nguồn năng lượng tri kiến
văn hóa sinh thái rất đặc biệt. Sở dĩ đặc biệt, bởi sự tồn tại văn bản văn học
cho phép nó vừa có khoảng cách nhứt định, lại có khả năng tích hợp và cũng có
khả năng chuyển vượt qua các nguồn năng lượng cảm tính thực nghiệm, năng lượng lý
tính thực chứng, năng lượng tâm linh khác nhau. Từ đây, bạn có thể mở ra viễn cảnh/xu
hướng khả dĩ cho việc tích hợp giữa tri kiến văn học với tri kiến khoa học (nhứt
là khoa học thực chứng) và tri kiến thuộc phạm vi niềm tin tín ngưỡng. Chẳng hạn
các trang viết theo thể ký về sinh hoạt văn hóa và môi trường sống của con người
có thể minh chứng cho khả năng tích hợp năng lượng tri kiến văn học với năng lượng
tri kiến thực nghiệm và tri kiến khoa học nói chung. Sự tích hợp này mang lại
ích lợi gì? Dễ thấy nhứt, sự tích hợp này góp phần làm rõ yếu tính và xu hướng
vận động của hệ sinh thái văn hóa. Thế nên, dự án nghiên cứu sinh thái văn hóa
không thể bỏ qua cứu xét văn bản văn học liên quan. Khả năng tích hợp này kỳ thực
không có gì mới mẻ, có chăng dưới góc nhìn thuyết sinh thái văn hóa, việc nắm bắt
minh định trở nên chặt chẽ nghiêm ngặt và thuyết phục hơn mà thôi!
8. Tiếp nhận
hệ sinh thái văn hóa
Theo Hubert
Zapf, nếu xem xét trên phương diện chức năng, việc đọc tác phẩm văn học (xem
như hệ sinh thái văn hóa) có thể triển khai trên ba phương thức/mô hình: (+) mô
hình đọc tổng hợp-phê phán: để chỉ ra các giáo điều/thành kiến trì trệ trong hệ
sinh thái văn hóa; (+) mô hình đọc phản biện giả định: để chỉ ra biến số hệ
sinh thái văn hóa; (+) mô hình đọc tái hợp-liên kết để phác thảo và đề xuất trạng
thái cân bằng bền vững cho hệ sinh thái văn hóa. Nhưng để tiến hành đặt vào
khung tham chiếu nhằm đánh giá chức năng theo các mô hình trên, thiết nghĩ, nên
thực hiện thao tác cơ bản: đọc và sàng lọc các thông số/mã văn hóa/ ký hiệu
sinh thái (eco-semiotic). Bấy giờ, thông tin của hệ sinh thái văn hóa trong văn
học được lập định trong khung tham chiếu/mô hình vừa nêu, để nhìn ra diễn trình
vận động của hệ hình sinh thái văn hóa, từ đó phác thảo đề xuất. Chung quy,
cách thế đọc văn bản văn học như hệ sinh thái văn hóa nhằm mục đích làm rõ hệ
hình sinh thái văn hóa (cũng là hệ hình tư duy văn hóa) trên các cấp độ khác
nhau. Nhờ đó, thuyết sinh thái văn hóa nắm bắt để rồi từ đó phác họa, đề xuất,
cảnh báo viễn cảnh môi trường sinh thái.
9. Thuyết
sinh thái văn hóa và nền văn học bền vững
Văn học với sự
tham gia của nó vào hệ sinh thái văn hóa, cũng đóng góp nhứt định tạo nên trạng
thái vận động bền vững. Tính bền vững mà văn học mang lại nằm ở khả năng lưu trữ
ký ức văn hóa và tiếp diễn sáng tạo văn hóa, tác động đến viễn cảnh vận động
văn hóa. Bền vững hiểu như khả năng duy trì hằng số phẩm tính bên cạnh biến số
phẩm tính qua nhiều thời kỳ khác nhau, thì văn học trong hệ sinh thái văn hóa bền
vững phải đầy đủ khả năng bảo tồn hằng số văn hóa đồng thời năng sản không ít
biến số văn hóa. Sáng tác văn học, hay chủ thể sáng tác văn học, có lẽ nên ý thức
sâu sắc cả hai phương diện này để hướng đến nền văn học bền vững trên khung
tham chiếu hướng đến. Bản thân sáng tác văn học nói riêng, quá trình vận động
văn bản văn học nói chung, thiết nghĩ, nên bao gồm trong hoạt động sáng tạo: lượng
tính luân lý, lượng tính thẩm mỹ, lượng tính khai mở/đề xuất mô hình văn hóa bền
vững. Văn chương bấy giờ sẽ nằm ở dòng chủ lưu đời sống./.
Rừng
Dầu, 08/2022
Võ
Quốc Việt
Comments
Post a Comment