Nỗi ưu tư về việc giữ gìn
nền nếp nhân cách con người phương Nam, chúng tôi bắt đầu chuyến thực nghiệm thời
tính để lần hồi trở về hồn cốt quê nhà trải mấy trăm năm từ buổi chúa Nguyễn
vào Nam mở mang bờ cõi. Trên chuyến đi ấy, chúng tôi thực và rồi nghiệm yếu
tính Phật Đà còn in hằn trong tâm hồn con người Nam bộ, trải qua sóng gió thời
đại với bao phen thử thách. Chuyến đi mà Trần Bảo Định mở ra qua các bài viết
trong tập sách đã kết nối phần “siêu hình” trong tâm thức tộc Việt với cốt lõi
của Phật tính, nhằm khơi rạng thêm ra Phật tính trong chốn dân gian phương Nam,
đã thúc đẩy chúng tôi tiếp bước trở về “vùng từ trường” cộng hưởng của “Dân
gian tính” và “Phật tính”, để băn khoăn và ngẫm ngợi về đạo đức con người nơi
đây, ngõ hầu gìn giữ và gửi gắm lại ít nhiều hoài vọng “chơn thiện” trong tâm
tính con người có thể giúp ích nhân quầng xã hội giữa thời “kinh tế thị trường”
từng ngày làm “biến dạng” lối sống nhân nghĩa đáng quý của người Việt phương
Nam.
***
Trường hợp đạo sĩ Thất
Sơn, cụ thể Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa, dường như ta cảm thấy sức đề
kháng mạnh mẽ của tộc Việt trước việc tiếp thu tư tưởng ngoại lai. Thêm nữa, ấy
là tinh thần dung hòa tiếp biến. Đề kháng để giữ gìn, tiếp biến dung hòa để
thích nghi với cuộc sống luôn triển nở; đó là biện chứng âm dương của tâm tính
tộc Việt. Phải chăng vì vậy mà dân gian tính của người Việt phương Nam luôn là
mảnh đất rộng rãi đón luồng gió mới bốn phương[1]. Bởi cung “ly” phương Nam lập
thành ở sự nương tựa, hòa để rồi ứng, tức là rỗng nên tươi sáng nồng nhiệt luôn
giàu có ý tưởng, đầy tính sáng tạo và vận động liên tục, xã hội nhộn nhịp giàu
sinh khí[2]. Nhưng trong đó, con người
phương Nam có cơ chế[3] để điều hòa nguy cơ “vong
bản” bởi sự tác động của thời biến. Một trong số đó chính là “dân gian tính” bền
vững với minh triết Việt hun đúc mấy ngàn năm[4]. Bên cạnh đó, tư tưởng Việt
với trường hợp các tôn giáo nội sinh ở vùng đất Nam bộ phối ứng với trời đất ở
vùng đất mới dần dà hình thành hệ thống quan niệm về thế giới quan đến nhân
sinh quan, góp phần gìn giữ rường cột đạo đức trong sinh hoạt, lao động sản xuất
và chiến đấu. Dấu ấn đó cho đến nay vẫn còn in hằn trong đời sống con người
vùng Thất Sơn và chốn miệt vườn thắm đẫm tình quê.
Trong đó, quan niệm mạt
thế và Hội Long Hoa hay Mạt thế luận (eschatology[5]) trong giáo lý Bửu Sơn Kỳ
Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa chính là vốn liếng tích góp của tộc Việt ở vùng đất mới,
trải qua bao sơn trường cay cực của buổi khai hoang khẩn đất, kiên cường chống
chọi với sương lam chướng khí, bất khuất trước họng súng quân thù, trông vọng ở
cuộc sống tốt tươi mai hậu. Căn cơ của quan niệm mạt thế dễ thấy trước nhất là
tính cách “chơn-thiện”. Người Nam bộ quần quật làm lụng, lo ăn lo mặc, nên
không dám cầu vọng đến cái đẹp - “Mỹ”; nhưng trong chính vẻ thuần phác của “chơn-thiện”
và bụng dạ thiệt thà trong cách ăn ở với trời đất đã lập thành vẻ đẹp chơn
phương giản dị. Và chính bởi giản dị chơn phương nên vẫn còn nguyên giá trị, chẳng
bị lỗi thời. Cũng bởi vẻ đẹp ấy, mà chơn thiện của người Việt Nam bộ vẫn còn giữ
được sức sống bền bỉ qua thời gian.
Mạt thế luận Bửu Sơn Kỳ
Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa sở dĩ gọi là vốn liếng tích góp bởi chăng những ưu tư
về cái chết và tận thế đã hiển hiện trong tâm hồn nhân loại Đông Tây kim cổ. Thực
tế, hệ thống quan niệm mạt thế có liên quan đến Thần học (Theology) và Tương
lai học (Futurism)[6];
trong địa hạt tôn giáo, mạt thế xoay quanh các vấn đề như cái chết, sự phán
xét, thiên đàng và địa ngục. Dẫu rằng danh tự ở mỗi phương trời có khác nhau
cũng như mối quan hệ giữa các quan niệm trong hệ thống tư duy về mạt thế có
khác nhau, nhưng chung quy đều hướng con người đến điều thiện. Vừa là hệ thống
xử thế vừa là lề lối khuyên răn, tạo thành giới hạn hành vi con người trong đời
sống xã hội. Điều này xác quyết Mạt thế luận gắn liền với Đạo đức học. Vì chăng
gọi là Đạo đức học mà không xem giản đơn chỉ như là hành vi đạo đức; vì luận về
mạt thế bao gồm nhiều bộ phận tư tưởng gắn kết với nhau, kết dệt thành cấu trúc
tĩnh tại (ở vĩ mô) nhưng vận động (ở vi mô), đưa lại kết quả là một hệ thống
quan niệm đạo đức gắn liền với sinh giới con người. Đó chính là trường hợp xã hội
người Việt ở vùng đất Nam bộ.
Nói cụ thể hơn về mạt thế
luận và đạo đức học người Việt Nam bộ, có lẽ chúng ta đã nắm bắt ít nhiều qua một
số bài viết trong tập sách này của nhà văn Trần Bảo Định. Nên chúng tôi nghĩ rằng
chỉ cần sơ lược các yếu điểm trong mạt thế luận Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, để sau nữa bạn đọc quê mình có thêm một đường hướng nào đó trở về với nếp
sống hiền hòa thân thuộc quê nhà.
-
Sáng thế và tận thế: Từ buổi khởi thủy, đời
sống con người tốt lành. Nhưng lần hồi suy bại do nhân tâm nhân tính, đến nỗi
tuổi thọ và vóc dáng hình hài cũng ngày càng thoái hóa. Kéo theo đó là “ôn
hoàng tật bệnh liên lai khốn nàn”, kể cả phong tục lối sống cũng biến tướng suy
vi, sâu dân mọt nước nổi lên khắp nơi, cảnh sống con người lầm than cơ cực; nào
là oan hình lao ngục triền miên[7] à
sự cảnh tỉnh đối với con người à Đạo của sự thức tỉnh;
-
Phán xét linh hồn (thiện-ác): Với cảnh đời
suy vi, hành động của con người là căn cớ phán xét thiện ác trong vòng xoáy
luân hồi. Phương diện này, giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp thu
dấu ấn Phật giáo rõ nét (tu la, ngạ quỷ, súc sanh, về cõi tịnh độ hay đọa vào địa
ngục)[8];
-
Hủy diệt và sáng tạo vũ trụ mới (hạ
ngươn-thượng ngươn) (chu kỳ vũ trụ): Nhứt ngươn Đức Phật Thích Ca, trải qua tam
ngươn đến thời mạt pháp, khi Giáng sinh Long Hoa hội cũng tức là mở ra một chù
kỳ mới của vũ trụ;
-
Người lãnh đạo tinh thần (thần, sứ giả,
nhà tiên tri,…): Đức Phật Thầy Tây An và Đức Bổn Sư là người lãnh đạo tinh thần,
đứng ra giúp dân trị bệnh, khởi xướng phong trào khai hoang, lập trại ruộng cho
dân an cư lạc nghiệp, răn dạy tín đồ sống phước đức tu nhơn học Phật, giữ gìn nền
nếp đời sống đạo hạnh. “Thần hôn lạy Phật đọc kinh,/ Lạy Thầy đức
hóa tái sanh đạo mầu”[9], tin tưởng ở sự tái sinh của
người lãnh đạo tinh thần như ngọn đèn khêu rạng soi sáng giai đoạn chuyển kiếp
Thượng Ngươn.
Trong quan niệm về tương
lai sáng sủa của con người thiện lành, mạt thế luận người Việt Nam bộ cho thấy
tinh thần lạc quan và niềm tin chắc chắn vào “thiên lương-thiên tư” bền vững của
con người Nam bộ qua vật đổi sao dời. Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi muốn đưa
ra một vài so sánh, ngõ hầu gợi mở trong suy tưởng riêng tư mỗi người mối tương
quan nào đó giữa các quan niệm mạt thế trong các tôn giáo khác nhau. Cánh chung
luận Cơ Đốc (eschatologia) đóng vai trò quan trọng lập thành niềm tin Ki-tô,
xoay quanh vấn đề về vận mệnh chung cuộc của con người trong toàn bộ cấu trúc tạo
thế. Trong khi đó, mạt thế luận của người Việt Nam bộ chú trọng nhiều hơn đến
cuộc sống trong giây phút hiện tại biểu hiện trực tiếp qua hành vi sống. Nếu
như thuyết mạt thế Ki-tô chú trọng hơn đến cuộc sống sau cái chết, đại nạn, sự quang
lâm, phán xét và thế giới mới; thì những vấn đề ấy trong thuyết mạt thế Nam bộ
chỉ là “ngữ cảnh” cho việc xác định cách thế sống trong chính cuộc đời hiện có.
Bởi vậy, trong mối quan hệ giữa mạt thế luận và tương lai học, thì tương lai của
con người thiết thực nhất chính là sự hữu hiện tại thế của mỗi nhân vị. Điều
này phải chăng bắt nguồn từ đặc tính ưa thiết thực cụ thể của người Việt. Cho
nên, từ mạt thế luận lập thành hành vi sống, hệ giá trị này ảnh hưởng lập thành
hệ giá trị đạo đức. Nói trắng ra, điều đáng giá là cái sống ở đời, chứ chẳng phải
vì trông vọng ở sự cứu vớt mai hậu mà lập thành đức lý. Thực sự, cách ăn ở trước
sau từ đạo lập đức ngay khoảnh khắc hiện tiền, chính bản thân sự thể ấy đã mang
lại nghĩa lý và cứu cánh cho sự có mặt của con người ở đời. Chính bản thân những
con người như vậy là đã góp phần khai mở Hội Long Hoa. Và Hội Long Hoa không ở
đâu xa, mà chính là cuộc sống thường ngày chơn quê mộc mạc đậm đà tình nghĩa láng
giềng. Chóm xóm quê nhà, chẳng phải là đời thượng ngươn của Hội Long Hoa hay
sao ! Hoặc như Thuyết Mạt thế Do Thái giáo cũng đề cập đến sự tái lâm của Đấng
Cứu Thế và tái lập vương quốc Thiên Chúa xán lạn huy hoàng (Eschatology of
Judaism)[10];
nhưng với người Việt Nam bộ, ngày tái lập cõi đời mới không đâu xa xôi mà chính
là cuộc sống an lành vui vầy của con người trong tình thân quê nhà.
Cuộc vần xoay biến đổi trời
đất tạo lập thời thượng ngươn trong quan niệm mạt thế, mỗi tôn giáo đề cập đến
các vị thần, sứ giả, tiên tri, đấng cứu thế, … hoặc có thể gọi chung là vị lãnh
đạo tinh thần, biểu hiện cho sức mạnh ý chí của cả cộng đồng. Với Hin-du giáo,
quá trình mạt thế-tái thế, dựa trên truyền thống Vaishnavite (Vaishnavite Tradition)[11], biểu hiện qua hình tượng
Kalki như là quá trình hóa thân/hiện thân qua nhiều chu kỳ khác nhau để cuối
cùng Harihara
phá hủy và sau nữa tái lập vũ trụ. Việc tái lập thế giới trong quan niệm Hindu
giáo mang màu sắc thần thoại với uy vũ và quyền năng tối thượng của thần
Vishnu. Thêm nữa, sự dịch chuyển các chu kỳ vũ trụ còn biểu hiện qua tình trạng
suy đồi đạo đức dẫn đến cơn thịnh nộ và sự can thiệp của thần thánh. Mạt thế luận
Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng đề cập đến các chu kỳ vũ trụ và tình
trạng suy đồi đạo dức, nhưng chính sự suy đồi ấy là nguyên nhân dẫn đến Hạ
Ngươn. Và do đó, mở ra đời thượng ngươn cũng chính là khả năng trong tầm tay
con người thế tục bằng chính hành động sống thường ngày. Người lãnh đạo tinh thần
chỉ đóng vai trò là “người thầy” chỉ dẫn và nhắc nhở đại chúng trở lại với
“chơn-tâm” khơi rạng ánh sáng đạo đức. Thế nên, người bình dân mới chính là động
lực thúc đẩy hình thành đời Thượng Ngươn, (chứ không phải bởi sự can thiệp của
thánh thần hay kẻ lãnh đạo tinh thần).
Sau một vài so sánh với
lòng mong mỏi làm rõ thêm đặc trưng thuyết mạt thế của Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ
Ân Hiếu Nghĩa trong lòng người Nam bộ, chúng tôi trở lại với nội dung giáo lý
ngõ hầu kết nối các giá trị đạo đức. Bằng mạt thế luận để trở về với đạo đức lối
sống, giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa trình bày thảm trạng nhân
tâm, luân hồi đảo điên cũng bởi do tính người biến dạng trước thúc bách kim tiền.
Các thiết chế đạo đức cơ bản của xã hội con người lần hồi suy bại.
“Khiến
xui vợ lại giết chồng,
Con
mà hại mẹ tình không yêu vì.
Anh
em đồng khí tương li
Quân
thần phản nghịch thế thì Hạ Ngươn”[12]
Tam Ngươn đến hồi mạt
pháp, biểu hiện chính ở đạo đức nhân tâm; và ngược lại chính nhân tâm đạo đức đẩy
Tam Ngươn đến hồi chung cuộc. Quan niệm về Tam Ngươn và Mạt thế của Bửu Sơn Kỳ
Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa không mang nặng màu sắc thần thoại, không xoay quanh
các chuyện siêu nhiên ly kỳ và thánh tích, gần như chỉ bàn luận về đạo đức và mối
quan hệ cảm ứng giữa lòng người và biến đổi thời cuộc. Do đó, mạt thế luận của
người Nam bộ gần với khoa đức lý dân gian hơn là thần thoại
học và lại càng khác biệt với thần học Tây phương. Bên cạnh
việc trị bệnh, khai làng lập ấp, Đức Phật Thầy và Đức Bổn Sư còn chăm lo đời sống
tinh thần, tức là an định cuộc sống trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần.
Và giáo lý phục vụ cho nguyện vọng ấy, không gì bằng chính đạo đức và lối sống
con người miền Nam, lấy đó làm gốc, giữ đức làm trọng, đời người ấm no, lòng
người tin phục, giềng mối an sinh phát triển có nền tảng vững vàng cho việc xây
dựng “kiến trúc thượng tầng” của cộng đồng người nói chung. Những khía cạnh đạo
đức từ mạt thế luận như vậy, rất cần được giữ gìn phát huy.
Dưới ảnh hưởng Phật giáo,
ta có thể thấy mạt thế luận và đạo đức phương Nam là sự kết hợp giữa Từ bi-Hỷ xả
và Tứ đại trọng ân cần phải gìn giữ. Từ đó, Đức Phật Thầy xây dựng lối tu nhơn
học Phật, làm đường hướng phương pháp cho việc tu tập. Từ bi – Hỷ xả, trong
cách hiểu giản đơn của người miền Nam, trước là sự bố thí, sau là lòng thương
người (trắc ẩn). Tứ đại trọng ân, trước hết là đạo hiếu với cha mẹ tổ tiên, đạo
trung với đất nước, đạo kính phụng với Tam bảo, đạo nhơn với đồng bào nhân loại.
Tuy nhiên, giáo lý Phật không đặt năng ở chỗ thâm áo huyền vi, kỳ thực chỉ là nền
tảng lập định lối sống hành vi. Bởi vậy, xét về nghĩa lý, lời sấm truyền chẳng
phải cao siêu; ngược lại rất đời thường thiết thực, ai ai cũng có thể thực hiện
trong cuộc sống hằng ngày. Cho nên nói, tu Phật với tu nhơn chẳng hề sai khác.
“Sanh
tại tiên hiếu song thân,
Một
hậu vi nghĩa ân cần sớm mai.
Trung
quân lòng giữ chẳng sai,
Giồi
câu tiết chánh tỏ bày bia son.
Mình
tu phải dạy cháu con,
Đạo
truyền kế đạo Phật môn lâu dài”[13].
Tính thiết thực trong
giáo lý còn thể hiện ở quan điểm triệt để tiêu trừ dị đoan. Bửu Sơn Kỳ Hương và
Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng như những chi phái nội sinh ở miền sông nước Cửu Long vốn
chỉ là những bài học đạo đức gần gũi và dễ thực hiện. Quyền phép ma thuật nhất
thời có thể qua mắt dăm ba người nhưng về lâu dài, dân gian tính của người Việt
miền Nam sẽ nhận ra được chân đạo. “Dị đoan án nội rõ ràng”, chỉ những gì mang
lại lợi ích thiết thực trong cuộc sống ở giây phút hiện tại cho bá tánh, hẳn
còn sẽ lưu lại trong cõi nhân gian. Nhược bằng sử dụng “đạo pháp” mưu cầu tài lợi,
sớm muộn gì cũng bị nhấn chìm dưới đáy nước Cửu Long. Đến đây, lại thấy, đạo và
đời chẳng hề tách biệt. Cũng như Trần Bảo Định trong nhiều bài viết của tập
sách này đã nói đến, hành đạo là một hình thức dấn thân xã hội. Và có lẽ sau
khi phong trào chống Pháp ở miền Nam tạm lắng, sự ra đời và phát triển của đạo
pháp nơi đây là một hình thức khác của việc canh tân đất nước. Liệu có phải các
ông đạo miền Thất Sơn đã canh cánh mối ưu tư hoài vọng duy tân đất nước trước
những sĩ phu đầu thế kỷ XX chăng !
Sau hết, Mạt thế luận trong
mối liên hệ với đạo đức con người Nam bộ, có thể thu gọn vào “tu nhơn-học Phật”.
Vậy thì đủ rõ, tu nhơn làm trọng, là điều kiện cần, là nền tảng; học Phật là điều
kiện đủ, là bổ sung, kiện toàn, làm rường mối cân định, gia cố thêm niềm tín mộ.
Cho nên:
“Làm
người tự giác tự minh,
Phật
tiên mến tưởng Thiên đình cũng thương.
Tu
tâm tu tánh giữ thường,
Tu
trong kinh giáo Phật Đường truyền ra.
Tu
tánh tu hạnh nết na,
Tu
câu Lục tự Di Đà đừng quên.
Tu
hành hiếu nghĩa đôi bên.
Tu
cang tu kỷ gắng bền hiếu trung.
Tu
nhơn tu đức để lòng,
Tu
trau vóc ngọc lấm bùn đừng mang.
Tu
công bồi đắp miếu đàng,
Tu
tài bố thí việc gian thì đừng.
Tu
cầu thánh thọ thiên xuân,
Dân
khương vật phụ khỏi oan cơ hàn.
Tu
cầu vạn hải thiên san,
Hà
thanh hưng vượng vạn bang thái bình”[14].
Quả thực, giáo lý Phật
đóng ai trò như đối tượng kính ngưỡng hơn là lề lối thực thành tu tập, và có lẽ
chỉ để gia cố thêm niềm tin vào đạo đức hành vi lối sống. Hành vi cụ thể đều dựa
trên quan niệm đạo đức vốn có của con người Nam bộ trong quá trình sinh hoạt,
lao động sản xuất, chiến đấu, giữ gìn cuộc sống ấm no yên lành. Mà cốt lõi là
quan niệm hòa hợp phối ứng với trời đất, cũng tức là Tam Tài.
***
Dấn thân vào cuộc sống của người lao động bình dân, Trần Bảo Định đã góp phần làm sáng tỏ thêm Phật tính trong Dân gian tính Nam bộ. Ở đó, Mạt thế luận (trường hợp Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa) có thể xem như thành tựu cộng hưởng, biểu hiện cho hệ thống giá trị đạo đức kết tinh và trao truyền cho thế hệ mai sau. Đến nay, giá trị đạo đức của thuyết mạt thế, thiết nghĩ, rất cần được chú trọng tái thiết và phát huy. Có lẽ, việc khơi thông các dòng chảy Cửu Long, cũng chính là giữ gìn bền vững sức sống phồn thịnh cho vận mệnh tộc Việt trên vùng đất Tây Nam bộ bây giờ và mai sau.
Saigon, 20/05/2021.
Võ
Quốc Việt
Comments
Post a Comment