CHỐI BỎ HỆ GIÁ TRỊ VÀ Ý HƯỚNG TÍNH LẬP THÀNH SỰ HIỆN HỮU THẾ TÍNH TRONG TIỂU THUYẾT “MÙ KHƠI” CỦA THANH TÂM TUYỀN
CHỐI BỎ HỆ GIÁ TRỊ VÀ Ý HƯỚNG TÍNH LẬP THÀNH SỰ HIỆN HỮU THẾ TÍNH TRONG TIỂU THUYẾT “MÙ KHƠI” CỦA THANH TÂM TUYỀN
(Võ Quốc Việt)
http://journal.hcmue.edu.vn/index.php/hcmuejos/article/view/2775
Mở
đầu
Vì sao chúng tôi
chọn Thanh Tâm Tuyền và tác phẩm Mù khơi ? Người ta vẫn quen hình dung
Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ với những đóng góp đáng kể mà ông mang lại cho
thơ ca Việt Nam giai đoạn 1954-1975 bằng việc dấn thân vào thơ tự do một cách
toàn diện từ hình thức cho đến cội rễ tư tưởng, “tự do” từ trong cốt tủy của chủ
thể sáng tạo. Nhưng kì thực, Thanh Tâm Tuyền vẫn còn một khuôn mặt khác đáng kể
không kém. Mà ở đây, trong phạm vi hạn hẹp mà chúng tôi khảo sát được, e rằng vẫn
chưa thật sự khai thác hết di sản từ những tác phẩm văn xuôi mà ông để lại. Quả
thực, số lượng đầu sách (chỉ tính riêng các tác phẩm văn xuôi) với tính chất
tiên phong thì ông đã có đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1954-1975 ở đô thị miền Nam. Đây là xuất phát điểm khiến chúng tôi muốn định vị
Thanh Tâm Tuyền với tư cách một nhà văn tạo lập “kinh nghiệm thế giới” bằng chữ
nghĩa thông qua tiểu thuyết Mù khơi.
Mù khơi ra
đời năm 1970. Có thể nói đây là giai đoạn chính mùi cho văn xuôi Thanh Tâm Tuyền.
Nhà văn đến với văn xuôi trước tiên, ngay khi còn ở trên ghế nhà trường với
truyện ngắn “Viên đạn cuối cùng” đạt
giải nhất cuộc thi của báo Thần Chung.
Tuy nhiên, từ khi di cư vào Nam và hoạt động trong nhóm Sáng tạo, sức viết của ông thiên về thơ. Giai đoạn từ những năm 1950
đến đầu những năm 1960, ông có hai tập thơ đáng kể nếu không nói là có đóng góp
lớn cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Đến giai đoạn sau đó, khi cuộc chiến leo
thang, chiến tranh không phải là đối tượng thường xuyên xuất hiện trong sáng
tác Thanh Tâm Tuyền, nếu không nói là rất hạn chế, nhưng chiến tranh tạo ra cái
không khí phù hợp cho sự xuất hiện của những câu hỏi cơ bản mang đầy tính bức
bách, thách thức và sống còn. Chính điều đó, ý thức sáng tạo của nhà văn đi vào
địa hạt văn xuôi để khai thác cảm thức về hiện hữu. Và Thanh Tâm Tuyền chọn văn
xuôi (cụ thể là tiểu thuyết, truyện ngắn) để xây dựng cái không khí (tạm gọi hiện
sinh) cho những suy tư bản chất của nhân vật và của chính người viết. Hẳn
nhiên, người ta không thể quy trục những nhân vật của Thanh Tâm Tuyền là chính
nhà văn, nhưng đâu đó dáng hình ông vẫn hiển hiện trong các nhân vật của chính
mình.
Ở giai đoạn nửa
sau thập niên 1960 trở đi, ông thiên về văn xuôi. Nhiều tác phẩm đáng kể ra đời
ở giai đoạn này. Các tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền (Bếp lửa, Cát lầy, Mù
khơi, Tiếng động, Một chủ nhật khác, Ung thư[1]) có thể rất khác nhau về bối
cảnh, đề tài nhưng cơ bản vẫn có chung cái trăn trở thao thức của một cá nhân ý
thức rõ ràng về tồn hữu và tha thiết truy tìm tồn hữu. Trong số đó, Mù khơi
là tác phẩm đạt đến độ chín muồi về nghệ thuật và tư tưởng. Chính vì điều đó,
chúng tôi chọn tiểu thuyết Mù khơi để khảo sát kinh nghiệm thế giới và sự
tạo tác thế giới nghệ thuật trong tư tưởng Thanh Tâm Tuyền giai đoạn trước 1975.
1.
Kinh
nghiệm thế giới – sự truy vấn về bản chất tồn hữu của thế giới.
Trước
hết, chúng tôi muốn nói về vấn đề “kinh nghiệm thế giới”. “Theo nghĩa ấy, hiện tượng học là một môn học mô tả, chứ không phải lập
luận”(Husserl, 2016, tr.65-66). Và truy tìm kinh nghiệm thế giới tức là
chúng ta cần phải mô tả cuộc gặp gỡ giữa nhận thức và những gì chưa phải hoặc
chưa thuộc về nhận thức. Kinh nghiệm thế giới đơn thuần là những hiện tượng cho
thấy sự chuyển động của nhận thức trong cuộc va chạm với cái đã tạo ra nhận thức.
Trong phạm vi tác phẩm văn xuôi, việc mô tả kinh nghiệm thế giới mà chúng ta nhận
thấy qua một loạt các hiện tượng được bày ra qua con chữ là cách mà chúng ta có
thể đi đến sự quy giản về nhân vật, cốt truyện, ngôn từ, tình tiết, hình tượng,
v..v… về tất cả, để chỉ còn lại cuối cùng cái ý hướng nền tảng làm khuấy động cả
chân trời nhận thức của kẻ đã thoát thai ra chính cái nhận thức đó.
Nhận
thức hay ý thức có tính ý hướng. Ý thức được mang lại, ý thức là sự xáo động
khi một chất điểm tồn hữu linh động trong thế giới. Với ý hướng đó, khi nó chộp
lấy được thế giới thông qua các trực quan thu nhận. Thông qua các hiện tượng, ý
hướng trở nên hoàn bị và trở thành “ý thể” (sự ý thức về thể tính hay siêu việt
tính của nhận thức phổ quát).
Từ
đó, “ý thể” sẽ trở thành “siêu ý thể” khi chính bản thân nó vượt lên trên chính
nó xuôi về một nhận thức thuần túy bản chất của tồn hữu bản chất trong tất cả. Với
văn bản văn học, cụ thể là một tác phẩm văn xuôi, chúng ta truy ngược từ muôn
vàn “hiện tượng” bày ra, từ đó quy lược kinh nghiệm thế giới trở về uyên nguyên
của ý hướng ở cái nhận thức ban đầu lúc ý thức đó chỉ đơn thuần là “một sự ngạc
nhiên” về thế giới. Đây chính là cái ta đang tìm, cái mà chúng ta cần truy vấn
và đào sâu. Muốn đạt được mục tiêu, chúng ta phải bắt tay từ chỗ nắm bắt muôn
vàn kinh nghiệm thế giới. Nắm bắt để làm gì, để cắt bỏ, để xua đi đám mây mù
sương khói hỗn loạn ngõ hầu tìm thấy cõi thinh lặng gốc rễ của nhận thức. Mà từ
đó, nhận thức thoát thai.
Tại
sao chúng tôi lại đến với vấn đề này khi tiếp nhận tiểu thuyết Mù khơi của
Thanh Tâm Tuyền ? Hay nói khác đi, chúng tôi thử đặt ra giả định về việc kinh
nghiệm cái kinh nghiệm thế giới mà Thanh Tâm Tuyền đã “lập thức” qua Mù khơi.
Nghĩa là nối dài kinh nghiệm thế giới đó bằng hoạt động tiếp nhận. Lúc đó, ý thể
trở thành siêu ý thể để siêu ý thể trở thành cái gì nữa ? Đặt ra câu hỏi này là
tạo sự kết nối của chính ý thức “tôi”. Việc “tôi” nhận thức và trải nghiệm cái
kinh nghiệm về nhận thức hay nói khác đi là cuộc va chạm nhận thức giữa “tôi”
và văn bản của Thanh Tâm Tuyền là cái kinh nghiệm thế giới của “tôi” mà chúng
ta vẫn quen gọi là phê bình hay việc tiếp nhận một văn bản. Vậy công việc này
là như thế nào ? Thực chất công việc phê bình hay đọc một văn bản văn học là
như thế nào ?
Khởi
đi từ việc nhận thức của người viết (kinh nghiệm thế giới của người viết), khi
người viết hoài thai một ý tưởng, chính cái ý tưởng đó nhảy xộc ra ngoài và chiếm
lĩnh thế giới. Thế giới hiện ra cho người viết. Thế giới của văn bản được định
hình trong nhận thức của người viết. Kẻ ấy làm thế giới xuất hiện và ngược lại
thế giới mang lại nhận thức cho hắn. Khi đó khả thể của nhận thức hay ý hướng
tiền giả định của người viết được đưa vào tiến trình thực lưu tồn hoạt. Khi đó
ý hướng nội tại thuần túy trở thành ý thể. Chính ở đây, “tôi” bắt được kinh
nghiệm thế giới Thanh Tâm Tuyền, tôi giao hòa với thế giới đã xuất hiện vì/và
cho Thanh Tâm Tuyền. Sau đó, “tôi” biến cái kinh nghiệm đó, biến cái thế giới của
người viết trở thành cõi giới bội sinh cho chính “tôi”. Khi đó, ý thể đã được
Thanh Tâm Tuyền ươm mầm nảy nở trong lòng “tôi”, nghĩa là tạo ra cái kinh nghiệm
của riêng “tôi”, gây nên một xáo trộn về mặt tinh thần – nhận thức. Đó là cuộc
gặp gỡ giữa “tôi” và văn bản Thanh Tâm Tuyền. Đó là kinh nghiệm thế giới của
tôi khi va chạm với kinh nghiệm thế giới của kẻ viết.
Về
phía tôi, bằng cách nào tôi quay về với nhận thức ban đầu của Thanh Tâm Tuyền với
thế giới mà ông gặp gỡ và ngạc nhiên để từ đó hoài thai nên tác phẩm Mù khơi.
Để tìm được thể tính (tế bào gốc) của nó, tôi phải trải qua con đường như sau:
(1)
Xuôi dòng: ý hướng thuần túy à
ý thể (văn bản) à siêu ý thể (liên ý thức hay từ văn bản đến
tác phẩm);
(2)
Ngược dòng: Mô tả (kết hợp biến thể và quy
giản hiện tượng – các kinh nghiệm thế giới) à quay về ý thể
(văn bản dưới dạng tồn hữu cốt lõi) à ý hướng của tác
giả à
tiền giả định của ý hướng à ranh giới giữa khoảng lặng im của ý thức
và giây phút ban sơ của xáo trộn tinh thần.
Khó khăn của vấn đề
nằm ở khoảnh khắc xáo trộn đó. Cần phải truy cho ra cái khoảnh khắc đó là gì.
“Trong sự trực quan cái hiện tượng thuần túy thì đối tượng không nằm bên ngoài
nhận thức, không nằm bên ngoài “ý thức”, trái lại, được mang lại theo nghĩa lý của
sự tự-được-mang-lại tuyệt đối của một cái gì được trực quan một cách thuần túy”(Husserl,
2016, tr.74.). Nói đến ý thức, chúng ta đang nói đến sự tồn hoạt của ý hướng
tính khi ý hướng tính đã thực hiện hành động nhảy vọt, chuyển từ tiền giả định
ý thức sang hình thức tồn tại kết thông cùng thế giới. Vấn đề là, nếu ý hướng
tính thuộc về tinh thần người, còn đối tượng của nó, nghĩa là thế giới lúc chưa
xuất hiện cho chính nó, vẫn hãy còn cách biệt bởi một hố thẳm khôn cùng của tha
thể. Vậy lí do gì, khả năng gì mà ý hướng có khả năng vượt ra ngoài, hoặc thế
giới thâm nhập vào trong để thế giới trở thành thế giới của ý hướng và ý hướng
là ý hướng về thế giới ? Nếu không làm rõ chỗ cách biệt ấy, không lấp đầy hố thẳm
mênh mông ấy, sẽ không thấy ý thức, cũng như không có gì xuất hiện cho ý thức;
nghĩa là sẽ chẳng có gì để bàn ở đây.
Như quan điểm của Husserl
vừa trích dẫn, đối tượng không nằm ngoài nhận thức. Nhưng cái gì làm cho đối tượng
nằm bên trong nhận thức, hoặc thuộc về nhận thức. Khi cái dự hướng, cái tiền giả
định của ý hướng vận động trong dòng chảy tồn hoạt; nó buộc lòng lao về phía
giông bão tồn lưu, nó cọ xát, va chạm, giao thoa, hòa quyện, lồng vào, thẩm thấu,
xoay vầng cùng với những cái không phải nó. Hố ngăn cách biệt giữa những cái “là
ta” và những cái không phải “là ta”, buộc chúng ta phải biến những cái “ta” và “phi
ta” trở lại thành thống nhất. Chính cuộc vận hành đại thể thống nhất ấy đẩy những
cái cách biệt, là tha thể lẫn nhau, đụng mặt nhau. Khi đó, ý hướng và đối tượng
của nó không còn khác biệt nữa. Ý hướng của ý thức chỉ có thể có khi có cái
không phải nó. Những cái không phải ý hướng cũng chỉ có khi có những cái ý hướng
như trên vồ lấy. Lúc đó, chúng xuất hiện cho nhau, đồng thời, đồng lưu, đồng hiện.
Vậy thì không còn ở
trong hay ở ngoài, không còn trên hay dưới, không còn hố ngăn, hố thẳm không
còn nó hay phi nó, không còn chủ thể hay khách thể. Đơn giản là nó, là thế đấy,
là vậy đấy, là thế thôi. Lúc đó, ý hướng tính, ý thể, hay siêu ý thể; đối tượng hay nhận thức chỉ còn là những hiện
tượng. Và cuộc gặp gỡ “long trời lở đất” giữa cái ý hướng và những cái thuộc về
ý hướng, chúng ta có thể gọi là kinh nghiệm của chúng, hay kinh nghiệm thế giới
(kinh nghiệm về thế giới, kinh nghiệm có được thế giới, kinh nghiệm từ thế giới,
kinh nghiệm thuộc về thế giới, kinh nghiệm mang tính chất thế giới, kinh nghiệm
làm xuất hiện thế giới, kinh nghiệm được mang lại từ cuộc va chạm giữa các bộ
phận rời rạc của thế giới, chính nhờ đó thế giới xuất hiện). Từ điều này, chúng
ta có thể nhận thấy ngay rằng, kinh nghiệm về thế giới là những hiện tượng muôn
vàn, vì mỗi lần tồn hoạt, chủ thể-khách thể lại “giao hoan”/gặp gỡ/hòa hợp theo
cách thế khác nhau và thế giới lại xuất hiện ra theo cách thế khác nhau. Tuy
nhiên, từ muôn vàn kinh nghiệm thế giới, chúng ta sẽ truy tầm, quy lược về cái
yếu tính cốt lõi và phát hiện mẫu số chung của tồn hữu. Chính ở khía cạnh này,
con đường truy tầm kinh nghiệm thế giới có ích cho việc khai thác và khám phá
thế giới văn chương (cụ thể hơn là ở thể loại tiểu thuyết). Hơn bất cứ thể loại
nào, tiểu thuyết là kết quả của sự “giao hoan” long trời lở đất giữa chủ thể
sáng tạo và những cái phi chủ thể sáng tạo. Tiểu thuyết cơ hồ là kết quả cuộc một
vụ nổ “khai thiên” mà sau vụ nổ đó dư chấn đã bày ra thiên hình vạn trạng các
hiện tượng. Thế nên, nhiệm vụ của người đọc là quay về nguồn gốc vũ trụ, quay lại
buổi hồng hoang sáng thế kia, tìm lấy chất điểm nguyên thủy mà ở đó tất cả mọi
thứ khởi đầu. Như thế, người đọc đã tiếp nối kinh nghiệm thế giới, đẩy cái vũ
trụ kia đến một chân trời mới, một miền tồn hữu mới. Đó là liên nhận thức, bội
sinh nhận thức, bội sinh ý thể thành ra siêu ý thể.
Vậy cái được nói đến
ở đây là một dạng thức tồn hữu như thế nào hay các đặc thù ngoại hiện của nó ?
Nó hay các liên chủ thể-khách thể, liên nhận thức hay sự hình thành xuất lộ của
thế giới có thể nắm bắt được trong các dạng thức như thế nào ? Câu hỏi này làm
chúng ta quay về với các biểu hiện của ngôn từ trong địa hạt văn bản văn học.
Và hơn bất cứ thể loại nào, tiểu thuyết chính là một phiên bản nối dài cho sự
xuất lộ của thế giới. “Sự cấu thành của
thế giới (weltkonstitution) được biểu lộ ở đây như hoàn toàn dựa trên các dữ kiện
thuộc giác quan, cảm giác vận động, những vẻ bên ngoài có thể cảm nhận, như thể
chúng được hình thành ở một cấp độ chỉ có ở động vật”(Trần Đức Thảo, 2017,
tr.246). Có thể nói, sự nắm bắt và xây dựng cái ảnh tượng về thế giới dường như
xuất phát từ góc độ động vật. Nghĩa là, trong việc nắm bắt thế giới văn bản văn
học, chúng ta không chỉ đứng trên góc độ hiện sinh mà còn khởi đi từ điểm nhìn
đồ vật, động vật. Dựa trên các cứ liệu có vẻ như thuộc về một bộ môn hiện tượng
học về “sự vật” (Ding). Thành ra “xét cho
cùng, là nguồn gốc của tất cả các hiện thực khác, chúng ta tìm thấy cái hiện thực
tự nhiên, và vì thế hiện tượng học về tự nhiên vật chất, không còn nghi ngờ gì
nữa, chiếm một vị trí ưu tiên” (Trần Đức Thảo, 2017, tr.247). Điều này dường
như dẫn độ ta về cõi trần. Nghĩa là chúng ta bị E. Husserl và Trần Đức Thảo “đạp”
ta ngã nhào xuống hạ giới. Nơi các phạm trù luận lý lung lay tính chất phổ quát
của nó. Và các ông ấy, làm chúng ta chợt phát hiện ra rằng cần phải xuất phát từ
những “bụi đường” chi tiết thuộc về tính vật chất (không phải chủ nghĩa đồ vật),
thuộc về tính cảm nhận bởi các quan năng – hay nói khác đi là tiếp xúc trực diện
các khía cạnh muôn vàn của thế giới. Vậy nên, dấn thân vào tiểu thuyết mà cụ thể
là tiểu thuyết Mù khơi được nói đến ở đây, chúng tôi cho là cơ hội cọ
xát và sống như các vận hội cuộc sống thị hiện trong văn bản. Nghiên cứu tiểu
thuyết hay văn bản văn học ở khía cạnh này không còn đơn thuần là phương pháp
tiếp cận mà là việc phóng chiếc “phi thuyền” tự ngã của người tiếp nhận vào
chân trời của văn bản. Thế thì liệu ta có bị nuốt chửng và choáng ngợp giữa
vòng vây thạch trận các bộ phận cơ cấu từ kết quả của giác năng và thế giới sự
vật ?
Như vậy, câu hỏi đặt
ra là chúng ta sẽ mô tả và sẽ liệt kê tất cả; chúng ta ngốn ngáo, nuốt trọn mọi
hiện tượng vồ được từ thế giới của văn bản chăng ? Liệu chúng ta có cần cấu xé
tác phẩm (hiện thực thế giới) đến mức như thế không ? Husserl đã hơn một lần trả
lời cho chúng ta câu hỏi này. “Hiện tượng nhận thức đơn lẻ, cá biệt, đến rồi
đi trong dòng chảy của ý thức, không phải là đối tượng của bộ môn hiện tượng học.
Hiện tượng học nhắm đến “những cội nguồn của việc nhận thức”, đến những nguồn gốc
phổ biến vốn có thể nhìn thấy được, đến những cái phổ biến được mang lại một
cách tuyệt đối, thể hiện những tiêu chuẩn chung làm thước đo cho ý nghĩa và rồi
cả cho sự đúng đắn của tư duy hỗn độn, và nhờ đó, mọi câu đố mà tư duy đặt ra về
tính khách quan sẽ được giải quyết rốt ráo” (Husserl, 2016, tr.99).Vậy thì,
chúng ta sẽ bớt lo lắng với dung lượng vô cùng của những hiện tượng/kinh nghiệm
thế giới được bày ra. Vì nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc mô tả, công việc sẽ
chẳng có ý nghĩa gì. Trường hợp thứ hai, chúng ta vơ đũa cả nắm, cào hốt, ăn sống
nuốt tươi toàn bộ những gì phô ra và sắp sửa phô ra của kinh nghiệm thế giới,
chúng ta sẽ mắc nghẹn, nghĩa là công việc mà chúng ta mang lại chỉ là một mớ hỗn
độn. Thế nên, chúng ta chỉ lựa chọn những manh mối, những kinh nghiệm – hay những
sợi chỉ đỏ - dẫn đạo chúng ta tìm về thể tính của nhận thức.
Vậy thì, làm sao
chúng ta biết những kinh nghiệm nào sẽ được chọn, những hiện tượng nào phù hợp
để chọn ? Đây là một phép thử. Vừa là thử độ phù hợp đúng đắn của hiện tượng vừa
là bước thu thập, gạn lọc đầu tiên cho con đường quy về yếu tính. Thử như thế
nào ? Hãy gắn kết những mảnh vụn hiện tượng ấy với nhau. Như thể công việc của
một nhà khảo cổ học, đào bới đống tàn tích của toà lâu đài đã sụp đổ dưới sức nặng
của thời gian và thế giới. Thử hàn gắn những mảnh vụn (hiện tượng ấy) và hẳn
nhiên cuối cùng chỉ lấy ra những mảnh ghép cần thiết để phác họa một chân dung
đúng đắn nhất có thể về cái yếu tính của tòa lâu đài kia. Cái mà nhà khảo cổ
tìm không phải là tòa lâu đài như một khối vật chất mà là sự hiện hữu lưu hoạt
của tòa lâu đài như một khối vật chất sống (ít nhất là đã sống), cũng như thế,
người đọc tìm ở văn bản, không phải để phục dựng lại toàn vẹn văn bản trong nhận
thức của mình mà là tìm cái nền tảng cốt lõi để ở trên đó, văn bản vận hành tồn
hữu của nó.
Đến đây chúng tôi
sẽ bàn đến phương pháp thao tác với những dữ liệu kinh nghiệm thế giới thu thập
được. Chúng tôi muốn nói đến kĩ thuật biến thể hay lối trực quan bản chất. Đây
cũng là một trong những vấn đề cốt lõi của quy giản hiện tượng học. Và sợi dây
xuyên suốt, may ra, có thể dẫn ta về giây phút “hồng hoang” của nhận thức – “sự
đốn ngộ” hay phương pháp trực quan bản chất và kĩ thuật biến thể theo cách dùng
từ của Husserl. Về trực quan bản chất (Wesensschau, Wesenserchauung/
l’intuition des essences / eidetic insight): “Husserl cho rằng bên cạnh việc
nhìn những sự vật và sự kiện cá biệt trong tri giác cảm tính, ta còn có thể
nhìn ra những bản chất thông qua trực quan phi-cảm tính có cơ sở trong tri giác
cảm tính và đồng dạng với nó (ý thể
hóa/Idéation). Trực quan bản chất là một dạng của trực quan phạm trù, dùng sự trừu tượng ý thể hóa thoát li khỏi cái
cá biệt để tập trung vào cái phổ quát và tất yếu”(Benoist J. và Espagne M.,
2016, tr.440). Đây thực sự là một cuộc cách mạng. Đòi hỏi này thực tế là một sự
bứt phá. Nghĩa là vượt rào cản của “giấc mơ con, đè nát cuộc đời con”. Hay nói
ra một cách thần đạo như Xuân Thu là vượt hẳn – ngã hẳn vào cõi trời, đẩy tri
nhận từ bình diện cảm tính vào bình diện ý thể tinh ròng, biến nó thành siêu ý
thể, vượt ra khỏi tính chất cụ thể của thực hữu. Ta dấn thân vào địa hạt của
văn bản như kẻ mộng du đi vào đất đai của chúa thượng. Ta buộc lòng tuân thủ
các luật lệ của chúa thượng để nhập gia. Và ta vầy võ, ngoạy nguậy, nhầy nhụa
giữa các thực hữu cảm tính trong dạng thức cảm giác của quan năng với sự buộc
ràng của đồ vật, ta trì ngự, án ngữ ở đó. Ta dự trù năng lượng bằng cách quên
đi tính chủ thể của kẻ tiếp nhận, để ta nhập đồng, gắn với tính liên chủ thể
tàng ẩn của văn bản. Để rồi sau nữa, ta đi vào căn kiếp của ý thể ban đầu tạo
tác văn bản. Rồi ta cộng sinh với ý thể nó, đẩy nó về siêu ý thể. Nhưng bằng
cách nào, từ chỗ liên chủ thể hóa với tàng ẩn của văn bản. Từ đó, ta có thể đẩy
liên ý thể ấy về bình diện siêu ý thể ? Bằng cách nào ?
Ta cần một phép biến
hóa “thần thông”. Thần thông ở chỗ có thể làm cho cái muôn vàn trở thành một và
khai diễn một trở thành muôn vàn. Để sau nữa, ta triệt tiêu phép thần thông ấy.
Sử dụng phép biến hóa thần thông ấy đến mức không còn có thể thần thông thêm được
nữa. Liệu ta có thể làm được điều ấy chăng, ta có thể. Bởi ý thức ta không có
những biên giới và luật lề nhất định, khiến cho sự dao động của nó là khôn lường.
Hay ta có thể gọi nó là “Kĩ thuật biến thể (variation, còn gọi là freie
Variation / biến thể tự do hay Phantasievariation/ biến thể tưởng tượng)….từ những
dữ kiện cảm tính về những thuộc tính của sự vật, ta có thể tha hồ biến đổi
chúng cho đến khi đạt được những gì bất biến và thường tồn trong sự vật, mà nếu
không có chúng, sẽ không còn là sự vật ấy nữa”(Benoist J. và Espagne M., 2016,
tr.440). Chúng ta thực hiện và theo dõi quá trình biến thể muôn vàn này, ta thấy
mơ hồ dòng luân chuyển “duyên khởi” chảy vào thân mình. Đọc Mù khơi để
ta trôi về cõi sương khói mù khơi tít tắp biến chuyển, dõi theo các hệ lụy và
các liên hệ chằng chịt. Và tìm về chỗ mà từ đó tất cả khởi sinh.
Tất nhiên, phương
pháp này chỉ hữu hiệu và ích dụng trong giới hạn một phạm vi xác định. Còn nếu
đặt nó vào bình diện thực hữu phổ quát của vũ trụ thì không thể tìm được cái hằng
số bất biến mà Husserl nói đến. Nghĩa là, công việc mà Husserl thực hiện, luôn
luôn đặt trong dấu ngoặc và ông thực hiện công việc của một nhà khoa học mang đời
sống khu biệt trong phòng “thí nghiệm” để phân tích và định lượng. Vậy nên, cái
môi trường tác phẩm (tiểu thuyết Mù khơi) với các hạn định tự thân của
nó, có thể cho ta có cơ hội ứng dụng kĩ thuật biến thể vào nó để truy nguyên
các hằng số tồn hữu.
2.
Thế
giới trong cách thế kinh nghiệm chối bỏ hệ giá trị hay cõi thế sụp đổ bình địa
Trước
tiên, ở góc nhìn hẹp, chúng tôi sẽ thao tác với các hiện tượng/kinh nghiệm thế
giới ở góc độ nhân vật mà cụ thể là nhân vật Trường/Phúc. Vũ trụ xoay quanh một
nhân vật. Ở một nhân vật là cả một thế giới. Nhân vật và thế giới mà nhân vật tồn
hoạt không tách rời nhau. Vạn bất đắc dĩ mới phải tách nhân vật ra khỏi thế giới
của nó để nghiên cứu. Nghĩa là vạn bất đắc dĩ phải bỏ nhân vật và cái hệ lụy
(thế giới theo đó) vào trong ngoặc kép, vạn bất đắc dĩ mới phải cắt đứt dòng
tương tục không thôi của ý hướng lập thành thế giới. Mặc dù, ở đây không hẳn là
chúng tôi tách/cắt lìa nhân vật ra khỏi thế giới, chỉ đơn giản là một góc nhìn
hẹp, từ nhân vật phóng chiếu ra thế giới. Ở phần sau, chúng tôi sẽ thực hiện
thao tác ở một góc nhìn bao quát hơn.
Ở
đây, Phúc chối bỏ ông Nguyễn – ông nguyễn đại diện cho quá khứ thất bại lẩn quẩn
trong kẹt hẻm, lảm nhảm với những chiến
lược, chiến thuật. Phúc chối bỏ ông, là chối đi sự vận động của hiện hữu. Vì
khi hắn cắt đứt quá khứ, dù là quá khứ của ai thì cũng là chối bỏ hoạt tính của
hiện thể. Thế nên, tại thế thể của Phúc là sự tại thế lấp lửng, bấp bênh, bồng
bềnh. Phúc trôi đi, Phúc không sống. Phúc đi về phía hư vô hóa. Bằng sự chối bỏ,
nhân vật trở nên cô độc. Vì chối bỏ, không chỉ chối bỏ ông Nguyễn, Phúc còn chối
bỏ đám bạn bè của Khả, một đám người dở hơi nói toàn chuyện không đâu, suốt đời
chỉ nhí nhố chuyện trò về những gì không có thực giữa một ổ đời lở loét – đô
thành Saigon. Và chính ở sự chối bỏ đó, tính thể của sự tại thế của Phúc hay của
Trường đã xuất lộ trong dáng dấp cô độc. Và sự cô độc ở đây là sự cô độc bản chất.
Hay có thể gọi là chân không của sự lập thức. Sự lập thức cần có cô độc để sinh
thành và khai triển.
Cô
độc không đơn thuần là bị bỏ rơi, hoặc biệt lập với phần còn lại – phi ngã; cô
độc vì bị biệt lập và xa lạ với cuộc đời của chính mình. Sự cô độc bản chất, đến
mức ngay cả sự biệt lập với cái phi ngã cũng không còn. Sự hiện hữu cũng không
còn hiện hữu nữa. Sự hiện hữu đến mức không còn hiện hữu nữa đến lượt nó lại là
sự hiện hữu ở một dạng khác. Hiện hữu tồn hoạt với trạng thái nín lặng tuyệt đối.
Biểu hiện của điều đó là sự phủ nhận toàn thẩy. Các nhận vật chối bỏ, phủ nhận
lời của nhau. Phúc/Trường với Hồng, Phúc/Trường với Châu, Phúc/Trường với Khả.
Các nhận vật là những tinh cầu cô độc không tìm thấy liên kết. Ngay cả Phúc/Trường
với Hồng – người đàn bà bị đồn đoán có một cuộc tình vĩ đại với ông Nguyễn, hai
con người thậm chí đã bị lùa về phía nhau đến mức chung chạ xác thịt nhưng rồi
cuối cùng vẫn tuyệt đối cô độc. Có chăng là vài phút yếu lòng, tựa nương vào
nhau tìm chút hơi ấm sẻ chia gắn bó lúc tấm lòng đã vụn vỡ tan hoang. Kì cùng,
sau những tan nát ấy, giữa các nhân vật vẫn không hề có sự kết nối nào. Yếu
tính của nhân vật ở đây, ngoài cô độc ra, chắc chỉ còn hư vô. Đó là những bóng
hình đi lang thang, chịu đọa đày trong chính những bế tắc của việc sống mà mỗi
người họ chỉ có thể tra hỏi mà không sao trả lời. Sống là kéo lê đời để hỏi mà
chẳng thể trả lời cho một câu hỏi mãi mãi bắt đầu mà không bao giờ hoàn thành.
Đoạn
tác giả nói đến giấc mơ của nhân vật “Tôi” (tiếng tôi như một phán quyết, một định
đề và cũng là định mệnh nữa), “Lúc ấy mưa đổ bên ngoài, vọng sâu trong giấc thiếp,
chuyển trong vòm nhịp phủ kín những mơ màng lặng lẽ. Tôi nghe như bầy lá dài khua
động miên man, lả tả trên sân vắng của ngôi nhà cũ một thời đầy hoang lạnh mà
tôi thấy mình trở về đi lại nơi đó. Tôi trở về nhìn cảnh tượng khác xưa biết
bao nhiêu, hiện trong nắng quái bàng hoàng. / Dường như tôi vừa trải qua cuộc
hành trình, tôi mệt nhọc buồn bã. Tôi bước theo lối mòn ra đồng, ở đó lỗ huyệt
đang lấp. Đứng vây quanh nấm mộ, những người lạ chưa từng gặp. Tôi đứng bên gốc
tre ngắm cảnh tượng, không nghe một tiếng khóc. Ông ta chết im lìm như tiếng tù
và khuất tắt trong buổi chiều nhạc phếch, mênh mông”(Thanh Tâm Tuyền, 1970,
tr.98-99). Giấc mơ là một cái cớ tuyệt vời cho chuyến phiêu lưu thế giới tính để
hình thành và phơi mở ra chân trời tại thế thuần túy và chân thực của việc làm
người. Bản chất của giấc mơ là không thực. Thực ở đây là cách hiểu của một thái
độ duy nhiên. Thực ở đây có thể hiểu dưới góc độ hóa sinh và thuần vật lý. Thực
theo sự hiểu của khoa học tự nhiên mang tính máy móc. Nhưng giấc mơ vượt lên
trên cái thực đó. Chúng ta rút gọn giấc mơ, rút gọn phân số giấc mơ, vượt qua
những tiểu tiết mà đôi khi vài người sẽ hiểu dưới góc độ phân tâm; tuy nhiên,
chúng ta đang tìm hằng số của giấc mơ. Giấc mơ trước tiên là sự vượt thoát –
theo cách hiểu một sự siêu việt của nhận thức. Nhận thức vượt lên trên nhận thức
để chính nhận thức tự cởi trói. Thế nên, giấc mơ là một cuộc vượt ngục. Nhân vật
tôi nằm mơ, ngồi mơ hoặc đi mơ cũng chính là đi hoang, lang thang rời bỏ. Chưa
biết, Tôi sẽ phiêu bạt đến đâu nhưng khi bắt đầu mơ là bắt đầu ly khai. Tất
nhiên, ly khai không hẳn là xa lìa hiện thực. Mà thực tế, lại di chuyển tiệm cận
về phía hiện thực theo cách hiểu là sự kết dệt của mối quan hệ tương liên giữa
nhân vật và phi nhân vật trong môi trường tác phẩm. Không có gì chân thực hơn
những kẻ mơ mộng. Giấc mơ của nhân vật Tôi mang ý nghĩa hiện thực là vì thế. Giấc
mơ là bằng cớ chân xác và đáng tin cậy hơn những dữ kiện của đời sống vì giấc
mơ vén màng, cởi bỏ lớp mây mù sương lạnh của tồn hữu. Giấc mơ là bằng chứng, dấu
vết của ý hướng tính. Qua giấc mơ, chúng ta tìm thấy căn nguyên của ý thức. Ở
đó, ý thức bị lột truồng một cách đau đớn.
Chung
quy, nói một cách khác, giấc mơ lại là một khía cạnh của trực quan bản chất/ trực
quan phổ quát (Wesensschau hay Wesenserchauung / l’intuition des essences/
eidetic insight). Đó là việc cảm nghiệm thế giới trong sự ngạc nhiên nguyên thủy
để cho thế giới, toàn thẩy in hằn và lồng vào nhân tính rồi trở thành nhân tính
– một phương thức lưu hoạt của hiện thể. Thế giới hiện lên qua giấc mơ và kẻ mơ
nương vịn vào nhau. Kẻ thực hiện giấc mơ cũng thực hiện sự xuất hiện của thế giới.
Ngược lại, thế giới cho thấy phương thức hiện hữu của kẻ mơ – tại thế thể
(Dasein). Những cảnh những hình hay sự chia lìa, sự kết thúc của nấm mộ, của lỗ
huyệt không hay những người đưa đám không tiếng khóc là kết quả của tâm thức cô
độc hoàn toàn.
Sống
là cô độc. Cuộc đời cần cô độc như nền tảng, như một thứ rễ cọc của cây đời. Vì
sao vậy ? Vì ý thức từ lúc khởi sinh đã là sự cô độc. Không thể có ý thức không
cô độc sao ? Không thể có ý thức không cô độc. Vì kinh nghiệm thế giới hay các
hiện tượng tương liên tác hiện đôi bên giữa ý thức và thế giới chính vì sự cô đặc
vật chất “cô độc” đến cùng cực mà hình thành. Chính vì cô độc mà có “thức”. Con
người bỗng thấy mình ngồi trơ ra giữa trời đất, chính là khi cô độc đẩy con người
“thức” được rằng con người không thể nhập hòa với thế giới, chính là khi chia
cách đôi bờ bất khả hợp nhất. Cho nên nói, con người buộc phải ràng rịt kết
liên với thế giới nhưng lại mãi mãi không thể kết liên với thế giới. Bản chất
cô độc của kinh nghiệm thế giới đã tạo thành đặc thù “tan rã” của ý thức.
Nhưng vì tan rã nên mới vận động, nên mới có “thức” là vậy. Các nhân vật như
Phúc, Hồng, Khả cần đến cô độc nhưng cá cần nước. Nhưng đó là những con cá chết
đuối trong lòng nước.
Vì
sao vậy ? Vì tất cả những gì mà nhân vật “Tôi” đã làm trong câu chuyện là CHỐI
BỎ. Anh ta chối bỏ Hằng, chối bỏ người đàn ông đã chết, chối bỏ những kẻ hợm
hĩnh bàn tán các vấn đề to tát trống rỗng trong ngôi nhà sặc mùi giả dối trên
cao nguyên và anh ta bỏ đi ra khỏi đám đông. Sự tách lìa khỏi đồng loại và thói
suy nghĩ bầy đàn, anh ta cũng chối bỏ chính sinh quyển của mình. Hệ giá trí của
cuộc sống chung quanh hiện lên trong cách thế ý hướng mà anh ta thực hiện đã hiện
lên trong trạng thái rúng động. Sự rúng động chực chờ sụp đổ.
Kỳ
thực nền tảng của hệ giá trị trong ý hướng của “tôi” đã không còn nữa. Nên
trong tâm khảm “tôi” chỉ có sự khinh bỉ và nực cười. Với ý hướng đó, “tôi” đã
kinh nghiệm thế giới. Và thế giới theo đó hiện lên như cõi bình địa hoang tàn của
buổi hoàng hôn. Hay “buổi hoàng hôn của những thần tượng”. Cõi thế đã trở nên lố
bịch và trống rỗng. Lố bịch vì trống rỗng và chính vì trống rỗng nhưng lại tỏ
ra vẻ đầy nghĩa lý nên thành ra càng lố bịch hơn.
Hẳn
nhiên, với ý hướng chối bỏ hệ giá trị căn cơ, nhân vật “tôi” cũng như các nhân
vật khác chẳng thể tái thiết một hệ giá trị tồn hữu khác. Rõ thấy niềm tin con
người đã cạn kiệt, dễ thấy trái tim con người đầy rẫy chán chường; nhưng đằng
sau đó vẫn còn có khao khát. Vì có dũng khí chối bỏ và đập nát hệ giá trị cũ kỹ
trống rỗng nghĩa là lòng khao khát một hệ giá trị khác đã đủ lớn để ly khai. Vấn
đề lập thành hệ giá trị khác không phải là điểm đến của chuyến du tưởng (một
chuyến đi không biết trước điểm dừng), hệ giá trị không thể là điểm đến, một hướng
đích tìm về. Mà hệ giá trị của sinh hiện chỉ có thể lập thành trên chính cuộc
du tưởng đó. Đi không phải để đến, đi chỉ để mà đi. Sống không phải để cầu đạt
đến một lý tưởng nào đó. Sống chỉ để nghiệm trải và lăn tràn ra giữa cuộc va chạm
mỗi ngày mãi hoài thường xuyên. Nghĩa lý của thế giới mở ra trên từng bước
“tôi” đi. Nhưng đồng thời, mỗi bước “tôi” bước tới đã đạp nát cõi thế thành ra
bình địa. Mâu thuẫn trong kinh nghiệm thế giới của “tôi” chính là ở chỗ đó và
biện chứng lập thành kinh nghiệm thế giới của “tôi” cũng ngay ở chỗ đó mà có được.
3.
Thế
giới Mù khơi hay các ý hướng lập thành sinh giới
Sau khi đã nắm bắt
kinh nghiệm thế giới từ góc độ nhân vật. Chúng tôi muốn làm công việc ngược lại.
Sau khi đã nghiên cứu nghiền ngẫm cõi thế xuất hiện ra như thế nào, chúng tôi
muốn từ đó quay về căn cơ ý hướng lập thành cõi thế đó. Việc tác giả cố ý sắp xếp
hai khung cảnh đối lập, việc xây dựng khung cảnh như thế, dựa trên tính chất đối
lập của hai cảnh nền, chúng ta có thể phát hiện ra ý hướng mà từ đó tác giả xây
dựng. Hay nói khác đi, chúng tôi muốn nắm bắt hai mảng lớn dễ thấy trước hết của
cõi thế thị hiện ra trong tác phẩm để từ đó lần ra manh mối ý hướng tác thành.
Cụ thể, cõi giới tại thế theo lối quy nạp có thể gồm thâu điển hình bởi hai
khung cảnh mà tác phẩm dường như đã cố tình đặt cạnh nhau. Cụ thể:
- Gia đình anh
thủy binh |
- Phúc/Trường và
chị Hồng |
- Tiếng vợ cằn
nhằn |
- Bầu không khí
lặng lẽ, xám xịt |
- Tiếng trẻ con
khóc |
- Cảm giác bẽ
bàng, đau đớn, mưng mủ, ngượng ngập trong tâm hồn |
- Anh thủy binh
hát vu vơ |
- Tiếng trò chuyện
đứt quãng, đôi khi nghẹn ngào đôi khi lặng vào không gian mơ hồ |
- Bữa cơm chiều
tối |
- Căn phòng kín
bưng, chật ních, e ép, thắt chặt hai nhân vật |
- Tiếng máy hát |
- Bóng chiều dần
tắt và không gian dần được lấp đầy bởi bóng tối |
- Cả nhà xuống
phố dạo mát |
- Tiếng khóc và
khói thuốc lá |
- Căn phòng trống không |
- Hai con người
vừa gần nhưng lại xa nhau, vừa phanh phui vạch trần lòng nhau vừa nâng đỡ
chia sẻ và bám víu lấy nhau. Họ vừa cần nhau vừa muốn xa rời nhau. |
Một đằng vẫn sống và trải ra cõi thế của
tập quán bầy đàn. Như cuộc sống thường ngày vẫn thế, không có gì khác hơn, nhân
vật tôi cảm thấy không thể chấp nhận nổi. Hắn ly khai bằng bức tường bê tông.
Nhưng phía bên này bức tường, nơi hắn đang vùi mình vào đó, cũng không thể chấp
nhận nổi. Cả hai bên bức tường đều là những khoảng trống nhức nhối. Chỉ khác
nhau là một bên không nhìn ra hoặc nhìn ra theo một cách thế khác trước những
nhức nhối. Và một bên, hắn nhìn thấy trực diện và không thể lờ đi niềm nhức nhối
của cõi thế đã sụp đổ.
Mù khơi hầu
như không có cốt truyện, không có mâu thuẫn[2] giữa các nhân vật. (Mâu
thuẫn hiểu theo lối tiểu thuyết tiền chiến mà ở đó mâu thuẫn đóng vai trò thúc
đẩy sự diễn tiến của câu chuyện). Ở đây, không có những mâu thuẫn như vậy mà chỉ
là các ý hướng khác nhau và chính vì sự khác nhau nên các ý hướng va đập tạo ra
các tiếng nổ âm vang. Câu chuyện được kết dệt bằng các giao điểm ý hướng. Câu
chuyện không nhằm diễn tả và trình bày trong cách thế như một dòng chảy các sự
kiện lập thành cốt truyện. Thậm chí có thể nói, câu chuyện trôi theo các suy
nghĩ và gặp gỡ. Nhân vật cũng không còn quan trọng nữa, chỉ có những suy nghĩ
và gặp gỡ làm nảy nở suy nghĩ mới là điều đáng nói và thực sự quan trọng trong
việc tạo thành tác phẩm. Còn các sự kiện hoặc dòng diễn tiến hầu như kết nối lỏng
lẻo hoặc không ăn nhập với nhau. Sự chuyển dịch từ địa điểm này sang địa điểm khác,
từ bối cảnh nọ sang bối cảnh kia, hay giữa mỗi frame (Giannetti, 2014,
pp.47-60) là những khoảng trắng chông chênh. Tác giả chỉ đơn giản phóng cái ý
hướng của mình ra khi có cuộc va chạm với tồn hữu phi ngã. Tác giả viết như thể
là một người trong cuộc đời và viết nghĩa là đang sống. Tác giả không viết như
thể một toàn năng thấu suốt, có sự sắp xếp và bố cục hẳn hoi, chỉnh tề, thống
nhất. Và nhà văn Thanh Tâm Tuyền chính ở điểm này đã xây dựng được một thế giới
xuất lộ trong tình trạng bát nháo, đổ vỡ và bừa bộn (mỹ học Dionysos). Cuộc đời
vốn dĩ cứ thừa mứa ra, nó là thế đấy, là vậy đấy, không có lí do, rời rạc và
mênh mông bởi những vết nứt sâu hoắm giữa các chất điểm tại thế. Địa cầu có những
vết nứt nơi tiếp giao hoặc gãy vỡ của nền lục địa thì thế giới mà Thanh Tâm Tuyền
xây dựng cũng có những vết nứt sâu thẳm không gì có thể lấp đầy – vết nứt đổ vỡ
và tan rã của thế giới nhân tính. Dàn trải toàn tác phẩm là những cuộc trò chuyện
chẳng đi đến đâu, những cuộc gặp gỡ mờ nhạt, những mảng màu “ễnh ra” gây nhức
nhối người đọc. Mỗi cảnh lặng đi còn nhân vật như thể một vật rơi, chìm xuống
đáy biển. Hầu như các cuộc trò chuyện của nhân vật đều đi vào chỗ hư không.
Chúng kết thúc như người ta ném viên sỏi vào lòng nước.
Bắt đầu bằng im lặng
và kết thúc bằng lặng im, Mù khơi là câu chuyện thuộc về cõi chết. Cái chết
thực sự có một ý nghĩa đối với hiện hữu hơn là sự sống. Ý thức về sự giải
phóng. Ý thức về sự cởi trói khỏi vòng cương tỏa của kinh nghiệm thế giới. Kinh
nghiệm về “người đàn ông ấy” là một bản án tù ngục của sinh hiện.
Sau cái chết, nhà
văn nói đến các “chất điểm” sinh hiện. Mà ở đó, các chất điểm chối bỏ nhau. Sự
tan rã bắt đầu vì từng phần kinh nghiệm thế giới bị đập tan. Người đàn bà giữa
“tôi” và “ông ấy” đã không còn nữa hay như tác giả gọi là “chứng tích”. Minh chứng
của kinh nghiệm thế giới đã biến mất. Và kinh nghiệm thế giới về mối liên hệ của
chủ thể “tôi” ở đây cũng biến mất theo. Nhưng trên đống phế tích, hắn đâm chồi
ra một kinh nghiệm thế giới khác. Thế giới tan vỡ có thể được nhắc đến với tên
“ngôi nhà trái tim tan vỡ”. Bằng cách thu nhặt các mảnh vụn. Mảnh vụn ở đây hiểu
theo nghĩa là các kết liên. Vì khi các kết liên không còn thì chất điểm sinh hiện
cũng biến động và cuốn trôi. Đống phế tích của cuộc sống chỉ còn lại là mảnh vỡ
của kết liên. Bằng cách nhặt nhạnh và phục dựng kết liên, chúng tôi muốn trưng
ra cái kinh nghiệm thế giới sụp đổ. Đời người là cả sự sụp đổ toàn diện, phá sản
triệt để.
Dễ thấy trước hết,
đó là các đối thoại rời rạc. Thanh Tâm Tuyền đã sử dụng phép “thần thông”
Dionysos (Nietzsche, 1910) để cấu thức văn bản. Nghĩa là không cấu thức gì cả.
Đó là phép biện chứng của hỗn loạn. Thời của “phi cấu trúc”. Sự cấu trúc văn bản
bắt đầu từ chỗ văn bản tự chối bỏ nó. Cũng có thể nói là cấu trúc bằng cách phi
cấu trúc. Phải chăng ở đây chúng tôi muốn nói đến giải cấu trúc (Poststructuralism/Deconstruction),
hay chúng tôi đang kéo Thanh Tâm Tuyền về phía phi trung tâm của thời “Hậu hiện
đại”. Kỳ thực, chúng tôi nhận thấy và buộc lòng nhận thấy cái ý hướng đổ vỡ của
tác giả, thấy từ thời “Nỗi buồn trong thơ hôm nay” cho đến Ung thư,
nhìn thấy ngay trong tiểu thuyết Mù khơi. Thanh Tâm Tuyền, kẻ nhân tình
luôn tìm cách giết chết người tình. Nhà văn thậm chí cố tình bày ra trong cách
thế hỗn loạn các sinh hiện/hiện tượng phi lý[3] trong văn bản. Từ nhịp ăn ở,
nghĩ tưởng, nói năng; từ sự tương tác hoạt động giữa các chất điểm hiện tượng
cho đến hậu cảnh chung quanh, tất cả đều rời rạc. Nếu không nói là ngổn ngang.
Câu chuyện với dì phước và dòng nghĩ tưởng về người đàn ông vừa mới chết hầu
như không ăn nhập. Nhưng kỳ thực chúng có đấy. Cuộc sống trở thành dòng kênh nổi
bập bềnh các rác thải nghĩ tưởng. Sở dĩ là rác nghĩ tưởng vì các hiện tượng hầu
như xuất hiện vô nghĩa. Chúng không nhằm đẩy đến một hiện tượng khác. Nếu phép
biện chứng của Aristote hay Bacon, thậm chí đệ tam cấu thức luận của Ouspensky (cấu
thức luận n-chiều) (Ouspensky, 1922) đều nhắm đến thiết lập kết liên trong ý thức;
thì phép biện chứng Dionysos từ Nietzsche đến Thanh Tâm Tuyền là cách biện chứng
đập vỡ kết liên ý thức. Trong cái vỡ lỡ của liên hệ người (trong Mù khơi),
nhà văn đã biện giải cho sinh hiện sụp đổ căn cơ ở sự có mặt của từng con người
trên mặt đất.
Trong các sụp đổ,
ta có thể thấy sự sụp đổ của ái tình. Tình yêu thậm chí không thể tạo một kết
liên nào khác. Hằng đã tha thiết níu kéo và để rồi trôi đi khỏi “Tôi”. Tình yêu
là trạng huống mà “tôi” có thể thực nghiệm “đảo hoán”. Để tìm kiếm và thiết lập
cho tình yêu một giá trị, “tôi” đã giẫm đạp và xua đuổi tình ái. Và sau rốt, cuộc
truy tìm cho tình yêu một ý nghĩa, “tôi” cảm thấy không thể làm khác được. Vì
tình yêu không được đặt trên bệ phóng của cuộc du hành đi về phía có được một hệ
giá trị độc đáo thì tình yêu không có nền tảng hiển hiện. Thành ra, “tôi” đã du
hành trên con đường “thiên lý” mịt mù tìm kiếm cho tình yêu một nghĩa lý xứng
đáng – một hệ giá trị khác. Chuyến du hành đó là mồ chôn. Vì càng đặt tình yêu
vào vòng xoay của hai ý hướng nghịch chiều[4], tình yêu càng tan tác. Thậm
chí ngay khi ngồi trước mặt Hằng, lồng lên kích động, nhưng không có vẻ “tôi”
đang hiện hữu cùng với Hằng và trò chuyện với Hằng, cùng một mặt bằng sinh hiện
với Hằng. “Tôi” đẩy Hằng ra nhưng lại muốn níu lấy nàng không thôi. Chuyến du
hành đặt tình yêu vào bước đường “phân hạch” đã khiến cho tình yêu trở thành một
hố đen vĩnh cửu mà “tôi” không thể thoát ra được. Mà cũng chính chuyến du hành
đó trong cuộc tình với Hằng, đã khiến tôi thuộc về một cõi giới nào khác[5]. Không thể biết cõi giới
nào, nhưng trước hết không phải cõi giới này. Nghĩa là “bất khả tri” thù thuộc
cõi giới nào. Không có “trú xứ”, “tôi” chỉ là một hố đen xoay tít tận cùng. Cuối
cùng, tình yêu với sự sụt lún của chuyến du hành tái thiết hệ giá trị đã trở
thành nấm mồ của người sống.
Như vậy, phân số
được thiết đặt ở đây: Tử số (người đàn ông chết + Hằng ra đi) / Mẫu số (cô độc).
Vậy nên, từ phân số kinh nghiệm thế giới này, chúng ta có thể thấy dường như ý
hướng tính căn cơ lập thành Mù khơi là cái ý hướng lao về kinh nghiệm
kết thúc. Nghĩa là kinh nghiệm chấm hết, hay ít nhất là kinh nghiệm về nỗi
ám ảnh của sự kết thúc. Thanh Tâm Tuyền, thông qua “tôi” cũng như thông qua các
nhân vật với nhiều hoạt động khác nhau, cứ lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại lời nguyện
chú[6]: “ SẼ CHẤM HẾT”. Lưu ý rằng
“sẽ chấm hết”. Chấm hết là một quá trình tiệm cận với hệ trục tọa độ tinh thần.
Nhân vật cứ liên tục nghĩ tới nghĩ lui về cái chết của ông Nguyễn, về việc Hằng
ra đi, thể như muốn nhấn mạnh vào sự kiện đó. SẼ CHẤM HẾT, có thể nói, là tâm
lõi hố đen, nơi cô đặc cô đơn của ý hướng.
Ý hướng “sẽ chấm hết”
đi kèm theo đó là ý hướng về sự bỏ rơi. Con người có mặt nghĩa là bị bỏ rơi,
nghĩa là vĩnh tuyệt lạc loài. “Lúc này thật tình tôi chẳng muốn nhớ tưởng bất cứ
điều gì. Người đàn ông đã chết. Hằng đã bỏ đi cũng như cơn say khốn nạn đã qua
rồi. Người tài xế hỏi bây giờ tính cách nào, không lẽ cứ ngồi hoài. Châu bối rối
không nghĩ ra cách giải quyết. Tôi chống tay vịn vào lưng ghế trước, nhìn đám
mưa trắng xoá bên ngoài” (Thanh Tâm Tuyền, 1970, tr.44). Tất cả các vận động của
tác phẩm. Từ việc dì phước bước đi, Hằng đi, người đàn ông ấy chết, tất cả chỉ
để chứng minh một điều rằng: toàn bộ kết liên là ảo tưởng và cuộc sống mãi mãi
sụt lún vào hố thẳm. Ý hướng lạc loài hay bị bỏ rơi, Thanh Tâm Tuyền đã
ươm mầm vào từng chữ, để nó mọc ra thành từng bụi gai tối ma quái, lẩn khuất khắp
văn bản khi chiều giăng lưới. Lúc bóng tối, nghĩa là nỗi buồn từ ly bao trùm tất
cả, thì những bụi gai “từ bỏ/bỏ rơi” cứ “lổm nhổm” ẩn hiện khắp các nẻo hướng
văn bản. Ám ảnh về sự bỏ rơi đã hình thành từ thời thơ ấu. Khi mẹ mang “tôi” đến
gặp người đàn ông ấy và ông ta chối bỏ. “"Em và con đến thăm mình".
Tôi nghe người đàn ông gắt: "Ai bảo đến đây, lại còn mang con nữa". Rồi
người đàn ông quay lưng không thèm nhìn người đàn bà và đứa trẻ” (Thanh Tâm Tuyền,
1970, tr.29-30).
Nhưng vì đâu lại
chồm ra hai ý hướng chết và lạc loài ? Cái chết là sự dịch chuyển của sự sống
vào trong tàng khuất. Nhưng điều gì khiến cho sinh hiện dịch chuyển theo chiều
hướng chết ? Vì sao sinh hiện lại bày ra trong dáng hình hư vô ? Chẳng phải là
sự hủy diệt/tàn phá các hệ giá trị hay sao. Thanh Tâm Tuyền dùng một chất giọng
chán nản, nửa khinh nửa đùa, nửa hờn nửa oán, nửa thù nửa tủi để dung dưỡng cái
ý hướng đó - Ý hướng hủy diệt. Đến mức, thế giới không còn gì nữa. Nghĩa
là kinh nghiệm thế giới là chuỗi trải nghiệm phá hủy. Trước hết là phá hủy nền
tảng lập thành sự có mặt của đời sống. Trường/Phúc hầu như khinh bỉ và cười thầm
trước những ưu tư của “người đàn ông ấy” (cha) và Khả (một hiện thân khác của
ông ấy). Và kinh nghiệm của “tôi” là sự không thể chịu đựng nổi. Nhưng cũng
chính “tôi đã khiến nó trở thành ra không thể chịu đựng được. Chẳng phải “tôi”
đã phá hủy nghĩa lý hành động của tất cả những gì không phải “tôi” đó sao ?
Không chỉ riêng “người đàn ông”, không chỉ riêng Khả, Hoạt, Châu, … tất cả,
“tôi” đã hủy diệt nghĩa lý có mặt và giá trị sinh hiện của họ. Thanh Tâm Tuyền
phóng cái ý hướng hủy diệt đến tất cả các trắc diện của thế giới mà ý thức đụng
chạm tới. Đến nỗi, thế giới trở thành thảm trạng hay vết tích của cái kinh nghiệm
hủy hoại đó. “"Cái chết như sự tự do độc nhất trong đời người được sử dụng
để vẽ cuộc đời theo một ảnh tượng nào đó. Vẽ mình và vẽ người. Tại sao không nhỉ?"
Tôi cười. Tiếng cười của tôi đáp thẳng vào mặt hiện thân của người đàn ông ngồi
cách tôi một người. Tôi muốn lôi cổ hắn dậy” (Thanh Tâm Tuyền, 1970, tr.72).
KẾT LUẬN
Như vậy, tóm lại công
việc mà chúng tôi đã làm ở đây là mô tả, xâu chuỗi một loạt những hiện tượng
hay những kinh nghiệm thế giới trong tiểu thuyết Mù khơi. Chúng tôi phải
gạt đi những phán đoán chủ quan về ý thức chúng tôi dành về phía tác phẩm này, nghĩa
là chúng tôi phải làm một bài toán rút gọn phân số (tử số là mặt chìm của hiện
tượng, mẫu số là kinh nghiệm muôn vàn thế giới, tử số là ước của mẫu số, mẫu số
là bội của tử số, để đến cuối cùng quy về một phân số tối giản). Để làm được
công việc này, chúng tôi phải dùng phương pháp biến thể (kỹ thuật biến thể). Nguyên
vật liệu mà chúng tôi thao tác là kinh nghiệm thế giới (hiện tượng) được bày ra
trong tiểu thuyết Mù khơi của Thanh Tâm Tuyền và phương pháp mà chúng
tôi dùng là kỹ thuật biến thể dựa trên việc xâu chuỗi dữ liệu bằng lối trực
quan bản chất.
Theo đuổi công việc
này, chúng tôi trước hết lần tìm và phác họa bản chất của sinh thế trong kinh
nghiệm thế giới Mù khơi. Đó là cõi thế sụp đổ tan hoang; cõi giới bình địa
trong ý thức con người. Đó là vũ trụ luận và phép biện chứng Dionysos. Theo đó,
Thanh Tâm Tuyền bày ra chân trời bình địa ngổn ngang. Chốn hoang tàn của sinh
thế bởi vì hệ giá trị căn cơ lập thành sinh hiện đã không còn nữa. Trong cách
thế triệt tiêu giá trị, con người cũng triệt tiêu cõi thế mà hắn tham dự vào.
Thành ra, giữa chốn bình địa ấy, con người hiện hữu trong cách thế cô độc bản
chất. Kinh nghiệm thế giới của một kẻ như thế đã tạo thành thế giới hỗn loạn.
Thời của đảo hoán.
Vấn đề tiếp theo
mà chúng tôi đã cố gắng trình bày chính là Ý HƯỚNG CĂN CƠ lập thành sinh hiện của
văn bản. Chúng tôi truy nguyên về “tế bào gốc” mà từ đó thế giới lập thành,
cũng có thể nói từ ý hướng đó mà cách thế kinh nghiệm thế giới này đã bắt đầu.
Dàn trải trong tất cả các trang viết Mù khơi là đêm trường của sự hoại
diệt. Nỗi ám ảnh “sẽ kết thúc” đè nặng như một bản án chúng cuộc. Chính từ đó,
con người phóng ra cái ý hướng chối bỏ. Vì hắn không thể chống chịu niềm nhức
nhối trống không sau khi cuộc đảo hoán đã bắt đầu. Thứ nữa, chính vì hắn không
thể chống chịu được nên bằng cách thế kinh nghiệm thế giới, hắn tàn sát cõi trần
mà hắn tham dự. Hắn phóng ra cái ý hướng hủy diệt. Mù khơi chính vì vậy
đã hiển hiện. Chốn khơi xa mịt mù căng trải trên mỗi bước đường truy vấn về hữu
thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ra nhiều kỳ trên Tạp chí Văn chưa ấn hành.
[2] Mối hiềm khích giữa Phúc và ông Nguyễn, không xuất
phát từ sự thù hằn bị bỏ rơi thuở thơ ấu. Chỉ đơn thuần, nhân vật Phúc không chọn
cách tồn hữu như ông Nguyễn. Với Phúc, ông là một kẻ xa lạ, hắn không ghét ông,
không thù ông, không mâu thuẫn với ông. Hắn chỉ đơn giản là khác ông mà thôi.
Và chỗ khác biệt đó, căn bản, không thể biến mất.
[3] Không hẳn là phi lý kiểu Albert Camus, Thanh Tâm Tuyền
không quá dụng tâm ở việc thể hiện cái phi lý, vì rằng chính cảm thức Dionysos
đã có sẵn các ốc đảo/chất điểm phi lý. Chỉ là từ các phí lý ấy, nhà văn hướng đến
một vấn đề khác.
[4] “Mấy ngày? Tôi không nhớ rõ. Tôi đã nằm lỳ trong
phòng, đợt Hằng đến như mọi khi. Hằng đến khóc lóc vuốt ve, an ủi tôi sau mỗi lần
gây gổ, tôi xua đuổi nàng, tôi lồng lộn, xua đuổi nàng, bắt nàng phải ôm ghì lấy
lấy tôi cắn xé, khóc than cho đến lúc tôi không còn hơi sức hành hạ người đàn
bà nữa mới thôi, tôi đợi Hằng và Hằng không đến, cuối cùng tôi phải nhắn Hằng
hãy gặp nhau lần chót. Hằng hẹn ở đây và sẽ cũng không tới. Nhưng không thể là
lần chót được. Tôi không thể mất Hằng… Không thể … “. (Thanh
Tâm Tuyền, 1970, tr.14)
[5] "Anh là người sống với những bóng ma nào đó, những
bóng ma em không làm sao biết được. Có phải thế không anh? Ngay cả em, em cũng
là một cái bóng. Em nghĩ như thế không biết có đúng không. Em nghĩ thật lâu lắm
rồi, chín lắm rồi… chúng mình chỉ có thể là bạn. Em cảm ơn anh những gì anh đã
dành cho em, em cũng xin lỗi anh về tất cả… Anh luôn bảo với em phải sống thật,
sống đến hết, đừng nửa chừng, có phải không anh? Anh hãy để cho em được sống thật.
Yêu anh lúc nào em cũng có cảm tưởng em sống ở cõi nào khác, không phải trong
cõi này. Em có thể hiểu anh, nhưng hiểu là một chuyện…"(Thanh Tâm Tuyền, 1970,
tr.21-22).
[6] “Tôi lầm bầm trong miệng: "Xong, xong hết"”.
(Thanh Tâm Tuyền, 1970, tr.31) Các từ như : “chết” và những từ ngữ liên quan
hay có ý nghĩa gần với sự dừng lại, kết thúc, chết … xuất hiện với tần suất cao;
Gần 90 tình tiết, trạng huống xuất hiện từ “chết” và liên quan đến sự việc chết.
Có thể là cái chết của ai đó hoặc những ưu tư trước cái chết, về cái chết. Chẳng
hạn như sự lặp lại nhiều lần cái chết của người đàn ông ấy, như một ám ảnh; hay
những ưu tư trước cái chết của Phú. Từ “bỏ đi”, “vứt bỏ”, từ bỏ” hay những từ
có ý nghĩa gần với sự bỏ rơi, ra đi xuất hiện trong hơn 60 tình tiết.
Comments
Post a Comment