Skip to main content

Về hướng PHẢN TIỂU THUYẾT trong cách thế của MỌI ĐEN


Về hướng PHẢN TIỂU THUYẾT trong cách thế của MỌI ĐEN


[Võ Quốc Việt]

(Cha nội Michel Butor vô rừng ko biết làm gì !)
Về Tính bất định và Tính hỗn loạn; Chúng ta đã nhìn thấy “siêu nhân” càng quét các thần tượng ung nhọt trong triết lý Tây phương mấy ngàn năm; chúng ta cũng nghe thấy Zarathustra đã tuyên xưng dưới đôi cánh đại bàng bay chất ngất thượng phương tuyệt đích, hay bò theo dấu vết con rắn thấu tri để lại trên mặt đất và chúng ta trở về Nam Việt để bắt gặp TTT. Bằng đôi cánh đại bàng và nọc rắn, chúng ta đi vào văn xuôi TTT. Và ở đó, tiểu thuyết của TTT chính là giây phút mà trật tự vốn có của con người bị sụp đổ. Tiểu thuyết của TTT từ gốc rễ căn cơ khởi phát cho đến hiển lộ, luôn là cuộc đảo hoán và truy vấn về/và hữu thể. Truy vấn không ngừng nghỉ, trên con đường thiên lý, kẻ lữ khách phân thân từ Zarathustra đã lững thững bước đi một mình giữa chập choạng sương tối mù khơi. Người lập thành căn cơ Đen và trở thành MỌI. Con MỌI Việt Nam. Đối với Mọi, “Nghệ thuật trước hết là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu bằng sự chia lìa cần thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự nhận thức cao thấp là tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt. Hằng ngày người ta sinh sống trong một thế giới nhân loại được xếp đặt quy định trong một trật tự được tự nhiên hoá không nghi ngờ không dò hỏi, người ta sống yên ổn thoải mái với những thói quen, tiếp nhận hạnh phúc cũng như sự phiền muộn như những trái cây ngon ngọt hay đắng chát của Tạo Hoá ban cho, nhưng rồi một cơ hội nào đó trật tự kia bị xô lệch bởi những người khác, người ta có thể ngạc nhiên rồi quên đi khi trật tự vãn hồi, người ta có thể hoảng kinh vì không quên được trước cái trật tự giả tạo. Người ta cảm thấy từ đấy sự chia lìa giữa mình với đời sống xung quanh, giữa mình với mình, người ta tự hỏi, người ta cố gắng tìm cách trả lời, người ta hoài nghi. Như một cơn địa chấn – nói theo Nietzsche – con người lúc bấy giờ thấy mặt đất điên đảo dưới chân mình, một mình mình gánh nặng cả đời sống trên hai vai”[1]. (Liên hệ đảo hoán của Nietzsche và truy vấn của Heidegger). Nietzsche đã gieo cấy một cơn bão nơi mảnh đất Nam Việt và cơn bão ấy cộng hưởng với tính thể nhân vị buộc lòng phải đối diện của một lứa người Nam Việt không thể chối chạy khỏi chính mình. Tự con người Nam Việt ấy là có sẵn một cơn áp thấp mà gió giông cường hãn đã bồi thêm vào cuộc đảo hoán toàn diện hay có thể nói là thời của bất định và hỗn loạn.

(Cha nội A.R.Grillet)

Từ chỗ hỗn loạn chúng ta ngó lại thì bỗng nhận ra những nếp gấp trong cách thế văn xuôi chữ nghĩa, ta ngó lại các nếp gấp trên não bộ của kẻ lữ hành thiên lý Thanh Tâm Tuyền giữa mù khơi miên viễn. Sự hỗn loạn và lặp lại của Phản tiểu thuyết có thể được nhìn thấy dưới tròng mắt Alain Robbe-Grillet tới khóe mi Tâm Thanh để ngời ra vẻ Tuyền ròng nguyên khôi. Điều này làm chúng ta có thể nhớ tới lời (Liên hệ tính hỗn loạn và sự lặp lại trong Phản tiểu thuyết:) nhận định của Nguyễn Thị Từ Huy về kẻ trào thoát khỏi đời sống về miền Nam nước Pháp. “Bằng các tác phẩm của mình, Robbe-Grillet tạo ra sự tái diễn chứ không phải tái lặp, ông tin là như vậy. Sự khác biệt giữa chúng là sự khác biệt giữa quá khứ và tương lai, giữa bất động và chuyển động, giữa giống và khác, giữa bắt chước và sáng tạo (…). Một cách nghịch lý, với sức mạnh hạn chế của nó, tái diễn là một quyền năng giúp nhà văn đạt tới tự do trọn vẹn. Ý chí tái diễn của nhà văn cho thấy ông “đã chín muồi trong sự nghiêm túc”, như Kierkegaard đã nói”[2]. Sự tái lặp để tái diễn của cái gì? Theo Alain Robbe Grillet chính là diễn trình tái hiện của các tưởng tượng. Tại sao ? “Bởi vì đời sống tư tưởng mới là đời sống thật sự của người. Điều khiến cho con người khác với con vật, chính vì người luôn luôn tưởng tượng được đời sống của nó. Hãy lấy ví dụ trong lãnh vực sanh lý. Cô có tin rằng tình yêu chỉ là việc làm tình với nhau và sinh con đẻ cái ? Nó còn đầy rẫy những khuôn mẫu định sẵn như những quần áo lót màu đen, hay những biểu trưng khác có vẻ ngây ngô. Tưởng tượng là tinh túy của con người?”[3]. Đối với Thanh Tâm Tuyền, đó là những nếp gấp của truy vấn. Nếu chúng ta một lần có về lại vùng thôn dã Đức quốc hẳn sẽ thấy lối mòn cỏ truy vấn vô chừng của Heidegger. Những lối cỏ âm thầm nối liền các triền đồi tâm tưởng. Và những lối cỏ ấy đã móc rễ căn cơ nơi miền đất Nam Việt xa xôi, chồi ra những búi gai nhức nhối trong văn xuôi Thanh Tâm Tuyền. Những truy vấn không bờ bến, lập thành cương giới văn bản để mà chẳng có bất cứ cương giới nào nữa cả ?
(Mọi Tuyền)
Từ các nếp gấp triền não hay triền đồi tâm tưởng, Tâm Thanh sẽ Tuyền trong cách thế nhìn. Nhìn nghĩa là có một chiều hướng (nhìn về, nhìn tới, hay nhìn thấy nghĩa là đã phóng ra ý thức chộp bắt đối tượng/tha thể, nghĩa là bất khả vô chiều hướng). Chung quy là vấn đề cái nhìn. Nghệ thuật đen là sự trở về của cái nhìn. Mọi trở về với cái nhìn, ở đây có nghĩa là nguyên khai, trở lại giây phút căn cơ phát xuất cái nhìn. Làm nghệ thuật theo cách thế của Mọi là trở về hay trả về sự tinh khiết thuần nhất của ánh mắt. Hay nói khác đi cũng chính là trả lại sự chân xác của thế giới cụ tượng như nó vốn dĩ. Mà lối triết lý của những bậc thức giả thượng thừa thường thâu tóm trong những định đề luận lý uyên thâm. Nhưng Mọi và Nghệ thuật đen không ham cái thói nết bệnh hoạn đó. Bọn Mọi nhìn như thể nhìn lần đầu tiên. Mà Tuyền gọi là cái nhìn trực giác/trực hiện theo ngôn ngữ thông thường. Tức là ngôn ngữ ca dao. Thứ ngôn ngữ chất phác tinh ròng đẹp ban mai nhất nhất. Cho nên chẳng lạ gì Tuyền tự nhận mình là thi sĩ ca dao. Vì Tuyền đã nhìn và lập thức bằng cái nhìn của Mọi, cũng như Mọi đã nhìn thế giới bằng con mắt của thế giới. “Sự khác biệt giữa lối nhận thức nghệ thuật và lối nhận thức triết lý là: lối nhận thức thứ nhất thiên về cụ tượng, cố gắng thâu tóm lấy sự toàn thể của thực tế lúc xuất hiện trong một ý thức khởi nguyên thông suốt – một thứ trực giác, theo ngôn ngữ thông thường -; lối nhận thức thứ hai thiên về quan niệm, cố gắng vượt từ những kinh nghiệm riêng tư đạt tới những ý tưởng chân xác phổ biến nhờ sự can thiệp của lý tính trong ý thức bằng sự sử dụng luận lý. Lối nhận thức của nghệ thuật, so với lối nhận thức triết lý, tất nhiên là mơ hồ hẹp hòi, nhưng lại giữ được tính cách cụ thể mạnh mẽ xúc động, tránh xa sự trừu tượng, cuộc phiêu lưu tách rời khỏi thực tế của một ý thức mãi đuổi theo sự tuyệt đối mà ra khỏi thế giới nhân loại lúc nào không biết”[4]. Vấn đề cái nhìn về thế giới là một vấn đề hết sức căn bản khiến người ta khép Phản tiểu thuyết thành ra là phản tiểu thuyết hay trường phái cái nhìn. Nhưng cũng chính ở vấn đề cái nhìn mà Mọi hay Phản tiểu thuyết xác lập một thế giới quan, một nhận thức luận gồm cả ý nghĩa về một phương pháp nhận thức (lập thức).
Nghệ thuật đen nằm trên con đường đi từ Hiện sinh luận có tính cách Hiện tượng luận đi về phía Cái nhìn của Phản tiểu thuyết. Tại sao chúng ta dám cả gan nói đến vấn đề này ? Tất nhiên không thể đồng nhất hai vấn đề lập thức và lập thức sự lập thức với nhau, cũng như không thể ép uổng Thanh Tâm Tuyền vào chung nhóm Phản tiểu thuyết của văn chương Pháp. Chúng ta không có quyền lếu láo và cà chớn cà chua như vậy ! Cái đáng quan tâm là sự diễn hoạt và biến chuyển của cái ý thức siêu hình về đời sống. Hay chí ít, đó là cách thế Phản tiểu thuyết của Mọi. “Nghệ thuật đen chính là cái ý thức siêu hình trước những cảnh ngộ trong đời sống hôm nay, là biểu thị sự tự do của những con người bằng xương thịt trong những tình thế có thực của kiếp người, là lời kêu gọi cất lên cùng mọi người trong cuộc hành trình lịch sử phải sống”[5]. Chỗ giao nhau – ý thức siêu hình về đời sống – Mọi không nói về đời sống trong cách thế luận lý Apollo, Mọi sợ hãi lối luận lý đó, cầm bằng như Grillet cho rằng những gì ông suy ngẫm và nói ra viết nên không có tính cách “trí thức” như Sartre hay Camus[6]. Mọi ly khai thông qua việc xác lập cái ý thức siêu hình đó. Cái ý tức siêu hình lập thức không theo cách lập thức Apollo. Cách lập thức Apollo đối với Mọi là một cách lập thức què, một cách lập thức mà sau nữa sẽ trở thành nấm mồ chôn chết thức nhận, cũng có nghĩa là không thể lập thức, bất khả lập thức. Sự lập thức chân thực và vươn đạt đến chỗ siêu hình về đời sống. Có lẽ sẽ còn có thể nói thêm nữa về chỗ giao thoa này giữa Mọi và lối lập luận trắc nết hết biết của những kẻ Phản đồ tiểu thuyết. Nhưng cái thói trắc nết đó lại rất được Tuyền ưa chuộng, vì rằng nó phù hợp với thói nghịch ngợm rất ư là Mọi của Tuyền vậy.
Thế rồi từ sự kết hợp giữa lối quan sát hiện tượng học và cái nhìn của Phản tiểu thuyết, Mọi đạp đổ tính chất phổ quát luận lý của chính thống thể. Cũng như sự triển hạn vô bờ của bọn Phản tiểu thuyết. Khi mà một cái hắt xì hơi cũng có thể viết thành một quyển tiểu thuyết thì một nghiệm số bất kỳ cũng có thể lập thành một phương trình diễn hoạt. Vậy thì chúng ta sẽ có thể lập thành cái phương trình diễn hoạt như thế nào, chúng ta có thể cơi mở ra hệ trục tọa độ nào, chúng ta có thể tiếp chạm với các trục số như thế nào và bao nhiêu trục số. Lập thức được vấn đề này rồi, chúng ta có thể nhận thấy sự quan tâm đối với các vấn đề đó không còn nghĩa lý nữa. Bởi vì vấn đề là chúng ta đang bám vào nghiệm số nào, nghiệm số như thế nào ! Vậy ra, cái chung quy là chúng ta phải tìm thấy Mọi, phải biết Mọi/cái nghiệm số đó như thế nào ! Một con Mọi độc đáo tự nó sẽ căng trải ra cái thế giới trong cách thế của nó. Vì rằng “không có ý thức nói trống không bay lượn trong không không, nói ý thức là nói ý thức của một người, người bằng xương bằng thịt với những điều kiện sinh hoạt trong xã hội trong lịch sử và trong cảnh ngộ. Ý thức phát động để cấu thành nhận thức tiếp xúc ngoại vật không độc nhất bằng đường lối tư duy; bởi ý thức của một người chính là người ấy với mắt mũi chân tay đầu tóc cho nên một người có thể ý thức và nhận thức, một cách mù tối nhưng cụ thể nguyên vẹn hơn, bằng da thịt bằng cảm xúc giác quan. Nghệ thuật đen chuộng sự cụ thể, trong phép thể hiện của nó thường dùng lối nhận thức thô sơ này bởi ở đấy ngoại vật còn giữ được nguyên hình thể, tính chất của nó. Do đó trong nghệ thuật đen dẫy đầy những xúc cảm đứng lại ở giác quan còn thô kệch xù xì khó chịu, ý thức “thuần tuý” băng hoại bám vào mở rộng ngoài da thịt thành một thứ dục tình suồng sã”[7]. Như vậy các chất điểm mà ý thức Mọi bám lấy có vẻ mang đầy tính nghịch phản với hệ giá trị của chính thống thể Apollo, đâu đâu cũng là bọn phiến loạn. Thành ra, chúng ta không thể bám lấy các chất điểm tri kiến/nghiệm số/ý thức Mọi để mà lần mò khai mở một thế giới nào rốt. Duy chỉ có các chất điểm ấy tự ràng rít, kết liên thành ra một “hệ sinh thái” của chính nó. Vậy nên, nếu như lối tư niệm Apollo chỉ vò võ quanh đi quẩn lại trong cương vực thế giới vốn có và được bầy đàn thừa nhận thì lối tư niệm của Mọi đã nối dài thêm sinh giới bằng cách lật đổ các bờ bọng giới hạn. Nói khác đi, sự diễn hoạt của nó triển hạn trong một tập hợp bất xác định. Nghĩa là một cõi giới mãi mãi mới mẻ và bất khả lượng ước. Vậy nếu, cõi giới bất khả lượng ước thì chúng ta có thể giải thích nó hay không ?
Lại nói, Tuyền không ưa lý luận, cách luận lý kiểu Apollo, Tuyền không ưa lập thức theo kiểu đó. Sự lập thức trực quan mang tính bản chất của Tuyền hay của Nghệ thuật đen không nhằm giải thích thế giới: “Sở dĩ nghệ thuật đen không đưa lại một lời giải đáp thì chỉ có tính cách cá nhân của tác giả, là một trong rất nhiều lời giải đáp khác nhau, không thể tìm tính cách chung bởi như thế phản nghệ thuật”[8]. Liên hệ với tính vô trách nhiệm của người viết trong lối Phản tiểu thuyết. Thế giới không phải để giải thích. Ai lại đi phanh thây xẻ thịt thế giới. Những tên đồ tể luận lý mang tính trí thức ấy đã phân hủy thế giới trong não bộ khép kín và chặt chẽ của cái nư khoa học thực chứng ngông cuồng ấu trĩ và hạ đẳng. Tuyền chỉ ngã vào lòng thế giới. Người viết có thể hoàn toàn là một kẻ vô trách nhiệm. Tại sao người viết phải chịu một trách nhiệm nào đó trong khi cái ý thể tác thành trong mối quan hệ cộng sinh giữa người viết và kẻ đọc (∞n) lại đổ hết lên vai người viết. Không thể có một lối lý luận nào ép uổng người viết vào trong lồng rọ của tính chất trách nhiệm. Và theo đó, người viết không phải chịu trách nhiệm về việc lý giải thế giới. Người viết theo lối nghệ thuật đen chẳng phải đã từ khước lối viết đó rồi hay sao. Cho nên, ngay cả kẻ đọc cũng không việc gì phải ôm vào mình cái trách nhiệm lý giải thế giới.
Vậy Mọi đến với thế giới trong cách thế như nào ? Xuất phát điểm của Mọi khi đến với thế giới và lập thành Nghệ thuật đen: “Người làm nghệ thuật hôm nay rất khiêm nhượng không muốn khoác cái bộ dạng lố bịch của một người thầy đời bằng những câu giải đáp nông cạn lý tưởng vô ích và hào nhoáng chỉ lòe được đám học sinh hay bọn trí thức một dúm; hắn biết rõ hắn chỉ là một cá nhân hèn mọn, cái kiến thức chuyên môn về các địa hạt tinh thần khác, nếu có, chỉ là một mớ kiến thức phổ thông sở đẳng so với những bậc thức giả mỗi ngành, trước mắt các bậc ấy những câu giải đáp của hắn chỉ là một trò múa rối của kẻ tự kiêu ngu ngốc, hắn tự định rõ vị trí của hắn trong hoạt động tinh thần nhân loại là tận dụng hết năng khiếu thực tế của mình để biểu diễn cái đời sống tầm thường hiện thực hằng ngày nơi ấy vẫn ẩn nấp trong mỗi thời khắc những vấn đề siêu hình (vẫn hiểu theo nghĩa rộng) mà ngày nay ảnh hưởng tới từng khía cạnh vụn vặt nhất của cuộc sinh hoạt”[9]. Xin trao hết phi thường và thượng thừa cho các bậc vương giả Apollo, Mọi chỉ xin giữ lấy phần hẹn mọn của đời. Có thể trần truồng thô kệch nhưng đó là sự chân thực. Và Mọi cũng như Tuyền xin trả lại tấm áo tri kiến, xin gửi lớp áo mũ rộng thùng thình thêu dệt đủ loại rồng phượng hoa mỹ mà thượng tôn trí thức chủ cả đã ban tặng. Mọi trở lại trần truồng dã thú, trở lại xác thịt nóng thổi, trở lại trong hơi thở xộc xệch của kẻ lang thang trên sa mạc. Như vậy, mọi đã gửi đến những thức giả khoa học hàn lâm ban bệ lẫy lừng những tâm tư chán ngán. Và những ai thức giả hàn lâm khoa học cũng đừng lấy hệ giá trị bầy đàn của khoa học thực chứng và lối tri kiến hời hợt của ngữ ngôn và lý trí để áp chế con Mọi (con Mọi đen Việt Nam Thanh Tâm Tuyền) vào trong guồng quay ngu xuẩn và nông nỗi của tư niệm thượng tôn trí thức. Vậy nên, giả bằng không thể dung thứ, con Mọi đen đã thẳng thừng đoạn tuyệt (cũng có thể hiểu là tạo phản) với tất cả tính cách chính thống thượng quyền của lý trí thực chứng và cái nhìn tập quán bầy đàn quen thuộc vốn dĩ đã khô chết như lá cây rụng đày dưới gót chân mùa đông. Hoặc chúng ta cũng có thể hiểu, đây là sự giẫy giụa và tiếng than van chính thống thể hãy buông tha con Mọi – lũ mọi Đen Việt Nam như là Thanh Tâm Tuyền.
(VQV - 6/2020)
(Hãy chấp nhận Đen để cảm nghiệm vẻ đẹp của Mọi Đen)



[1] Thanh Tâm Tuyền (1960). “Nghệ thuật đen”. 
[2] Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe-Grillet – Sự thật và diễn giải, 
[3] Phan Lạc Phúc trình bày và giới thiệu (1965), Alain Robbe Grillet và quan niệm viết tiểu thuyết (phỏng vấn của Jacqueline Piatier và Madeleine Chapsal), 
[4] Thanh Tâm Tuyền (1960). “Nghệ thuật đen”. 
[5] Thanh Tâm Tuyền (1960). “Nghệ thuật đen”. 
[7] Thanh Tâm Tuyền (1960). “Nghệ thuật đen”. 
[8] Thanh Tâm Tuyền (1960). “Nghệ thuật đen”. 
[9] Thanh Tâm Tuyền (1960). “Nghệ thuật đen”. 

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN

  LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN Thuật ngữ “Hậu nhân luận” được sử dụng để chỉ loạt quan điểm lý thuyết đương thời được đưa ra bởi những nhà nghiên cứu có nền tảng học thuật trong lĩnh vực triết học, khoa học và nghiên cứu công nghệ, nghiên cứu văn học, lý thuyết phê bình, xã hội học phê phán và nghiên cứu truyền thông. Trong những lĩnh vực nghiên cứu này, hậu nhân luận nêu ra một loạt các sự phá vỡ giả thiết nền tảng của văn hóa phương Tây hiện đại: đặc biệt, hậu nhân luận đề ra lối nhận thức mới về chủ thể người trong tương liên với thế giới tự nhiên nói chung. Lý thuyết hậu nhân đề xuất nhận thức luận mới không lấy con người làm trung tâm và lẽ đó không đặt trọng tâm ở nhị nguyên luận của Descartes. Nó tìm cách làm xói mòn những ranh giới cố hữu giữa con người, động vật và công nghệ. Lý thuyết gia hậu hiện đại Ihab Hassan đã đặt ra thuật ngữ này và còn nêu ra định nghĩa mang tính khai mở trong bài báo với tiêu đề “Prometheus as Performer: Towards a Posthumanist Culture?” (1977). Liên...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...