Skip to main content

BIỂU TƯỢNG NHƯ MỘT THỂ CÁCH LẬP THỨC


BIỂU TƯỢNG NHƯ MỘT THỂ CÁCH LẬP THỨC
(Trích Biểu tượng thẩm mỹ trong thơ TTT - kỳ 1)
Võ Quốc Việt

Trước hết, chúng tôi xin trình bày qua về nguồn gốc thuật ngữ. Biểu tượng trong nguồn gốc Hy Lạp là symbolon (συμβoλον); - Latin: symbolus/symbolum; - Pháp:  symbole[1]. Theo Từ điển Latin của Charlton T. Lewis: symbolus là kí hiệu hoặc phù hiệu mà nó mang lại một cái khác, nhằm để hiểu thấu bất cứ gì đằng sau nó[2]. Theo Henry G. Liddell và Robert Scott[3]: “συμβoλονcó nghĩa là: 1- là một kí hiệu hoặc dấu hiệu mà từ nó cho biết hoặc suy ra/ hàm ý một thứ khác; 2- Vật tượng trưng hoặc phù hiệu; 3 – là dấu hiệu bên ngoài của ý thức hoặc cảm giác; 4 - ở Athens, còn có nghĩa là vé, ngân phiếu, bàn tính. Có thể nói thêm rằng, biểu tượng trong nguồn gốc Hy Lạp có nghĩa đen là dẫn đến, so sánh với một thứ khác. Hay “cái biểu hiện, vật làm tin, dấu hiệu mà từ nó có thể suy luận/suy ra/gợi ý/ hàm ý thứ gì đó”[4]. Nó bắt chúng ta đặt giả thuyết ngay từ đầu về một nội dung nào đó phía sau, những ý nghĩa được mang vào cho nó. Nghĩa là biểu tượng cho phép và tạo điều kiện cho chúng ta bắt được mối liên kết với những gì đứng phía sau nó.
Cùng chung ý kiến trên, George J. Hagar: biểu tượng “vật tượng trưng hoặc dấu hiệu đại diện cho một thứ gì khác; một biểu hiện hoặc đặc trưng dùng như sự tóm lược vào….”[5] Những điều phía sau nó được triển khai thông qua sự tóm lược ấy. Ý kiến này phần nào làm rõ quá trình hình thành biểu tượng. Đó là quá trình thâu tóm nghĩa vào bản thân vật đại diện. Tại sao quá trình ấy lại xuất hiện trong tư duy người ? Nhu cầu tư duy nhanh gọn và chính xác, cũng như việc tri nhận tổng hợp thúc đẩy chúng ta có những “vật làm tin”, vật đại diện cho hơn một thông tin. Điều này giúp cho việc trao đổi, truyền đạt thông tin hiệu quả hơn. Quá trình ấy là sự tóm lược những đặc trưng mà sau đó trở thành nghĩa của biểu tượng. Nó sẽ chỉ là “cái vỏ ốc” trống không nếu không có những đặc trưng được tóm lược vào. Nhìn chung, ý kiến này trình bày được những nét cơ bản nhất trong việc hiểu về biểu tượng.
Vậy những gì sẽ được tóm lược vào ? Theo Webster’s New World Dictionary of the American Language, biểu tượng: 1- là thứ đại diện hoặc tượng trưng cho một thứ gì khác; đặc biệt, có thể là một đối tượng/vật thể đại diện cho thứ gì đó mang tính trừu tượng; 2 – một nhãn hiệu, kí tự, sự ước lược được viết hoặc in ra nhằm đại diện cho một đối tượng, phẩm tính, quá trình hay phẩm lượng…; 3 – trong phân tâm học, đó là một hành động hay một đối tượng tượng trưng cho những khát vọng từ trong vô thức. Quan niệm này hầu như trình bày cụ thể và cơ bản về những thông tin được thâu tóm vào bản thân biểu tượng. Đó rất có thể là những ý niệm trừu tượng: lượng tính, phẩm tính, quá trình... và các hình dung tràn từ cõi vô thức.
Tương tự, dẫn theo Gedion Juba G. Mncube, ý kiến J.M. Hawkins về biểu tượng như sau: “thông thường nó được xem như cái điển mẫu, cái đại diện hoặc vật triệu hồi đến thứ gì đó, đặc biệt là một ý niệm hay một phẩm tính nào đấy”[6]. Và Mncube nói thêm rằng “Biểu tượng điển hình cho thứ gì khác bởi lẽ nó có thể là đồng dạng về đặc tính hoặc hình thức”[7], và nó chỉ có thể là vật ám chỉ hay triệu hồi khi nó đã gây được sự tri nhận ở đối tượng tiếp nhận trước khi một lần nữa anh ta gặp lại nó để có thể thông qua đó hiểu được nghĩa mà biểu tượng hàm chứa hay mang lại. Không chỉ là vật đại diện hoặc bị quy ước, biểu tượng và nội dung mà nó tóm lược vào luôn tồn tại mối liên hệ nhất định. Sự gần gũi giữa nó và nội dung cho phép sự tóm lược vào được triển khai. Và cái đáng ghi nhận ở Mncube là đã chú ý đến việc tiếp nhận biểu tượng. Từ chỗ quan tâm khả năng triệu hồi mà biểu tượng gây ra trong hoạt động tri nhận, Mncube cho thấy biểu tượng chỉ có thể thể hiện phạm vi ảnh hưởng sau khi đã tác động vào đối tượng và có một lượng nghĩa hiển ngôn xác định. Chúng ta gặp gỡ một biểu tượng, điều đó có nghĩa là chúng ta đã gặp gỡ nó trước đấy rồi và lần trước chúng ta biết nó với một ý nghĩa khác. Nhưng bây giờ chúng ta gặp lại nó như một đối tượng có sự sống và chuyển động. Hoàn cảnh mới khiến nó có thêm lượng nghĩa mới. Hoàn cảnh mới ở đây vừa là hoàn cảnh của văn bản, vừa là hoàn cảnh của người đọc. Đây lại là một vấn đề rộng lớn hơn. Ở khía cạnh này, biểu tượng gần như cuộc hội ngộ với nhân tình cũ hơn là cái mặt nạ đơn thuần. Và người tình ấy ngoài những chuyện đá vàng quá khứ còn có nhiều nếp nhăn mới ở hiện tại.
Cũng là những ý kiến gần đây, theo Dictionary of Symbols của C. G. Liungman thì “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa, là đại diện cho chính bản thân nó”[8]. Và Symbology được hiểu là Biểu tượng học. Với định nghĩa này chúng ta dường như nhận thấy một bất cập ngay lập tức. Theo như Ju.M. Lotman, “biểu tượng vừa ở bình diện biểu hiện, vừa ở bình diện nội dung bao giờ cũng là một văn bản, tức là có một ý nghĩa thống nhất đóng kín ở bên trong nó, và có một ranh giới biểu hiện rõ ràng cho phép tách biệt nó khỏi ngữ cảnh kí hiệu xung quanh. Điều này là đặc biệt quan trọng để có thể “trở thành biểu tượng””[9]. Biểu tượng nói chung gần với kí hiệu vì nó cần bảng mã quy chiếu, hệ quy chiếu cho việc xác lập nghĩa của nó bên cạnh một biểu tượng khác nhưng biểu tượng trong nghệ thuật lại là một ngoại lệ, một electron trật khỏi quỹ đạo. Chính điều đó làm cho biểu tượng trong nghệ thuật trở nên độc đáo và khác biệt, tách bạch khỏi kí hiệu. Biểu tượng trong nghệ thuật có thể không cần một nhóm người đồng ý sử dụng. Nó khước từ bảng mã mang tính xã hội tự xác lập mối ràng buộc nghĩa với những yếu tố khác trong chính bản thân nó. Vậy là biểu tượng trở là một hành tinh vận chuyển theo quy luật nội tại về ý nghĩa của tác phẩm hơn là quy luật của ý nghĩa về mặt xã hội. Đồng thời, lại có những vệ tinh khác quay quanh nó, cố định, cô kết nghĩa cho nó (đó là những hình ảnh hệ lụy). Chính cơ chế vận hành kép ấy định vị biểu tượng, định vị về mặt nghĩa cho nó. Nó không cần đến những ràng buộc nghĩa từ cộng đồng nào đó, hay như một khế ước của xã hội ( thậm chí điều đó còn có hại).
Biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật có giá trị tự thân, độc lập tương đối. Vì trước hết nó là một hình ảnh, tồn tại trong văn bản như một kí hiệu đặc biệt. Tóm lại, với hệ thống, biểu tượng có được một bảng mã tự định vị ý nghĩa của nó. Ví dụ một nhà thơ luôn có những luật lệ riêng. Và nhà thơ nói chung có thể có những biểu tượng mang ý nghĩa không hoàn toàn được chấp nhận bởi số đông. Nhưng với tính hệ thống, khả năng xác định chính bản thân nó trong bảng mã hình ảnh liên quan giữa miền tưởng tượng đã không ngừng xây dựng ý nghĩa cho nó. Biểu tượng không cần ai thừa nhận, vì nó đã hoàn toàn có nghĩa với chính thế giới của nó. Đây cũng chính là luật lệ giấc mơ biểu tượng thm mỹ mà chúng ta sẽ bàn ở phần sau.
Và cũng từ ý kiến Ju. M. Lotman, có thể khẳng định hơn nữa việc thiết lập vũ trụ nghĩa nội tại bên trong biểu tượng. Trong quá trình hình thành, biểu tượng đã tách khỏi kí hiệu, từ bỏ tính võ đoán. Khiến cho cái được biểu đạt của kí hiệu trở nên năng sản, đa tầng nghĩa và thiết lập lại việc tạo nghĩa cho chính nó. Vén màn bước vào vũ trụ nghĩa nội tại của biểu tượng, đó là hệ thống đa cấp về ý nghĩa trong mối liên hệ giữa chúng.

“Tách biệt nó khỏi ngữ cảnh kí hiệu xung quanh”, làm thế nào mà biểu tượng có được sự định vị của mình....Nó – BIỂU TƯỢNG - buộc lòng phải có môi trường của nó (đặc biệt biểu tượng thm mỹ chỉ hình thành trong điều kiện nhất định). Đó là văn bản với khả năng truyền chuyển thông tin một cách đa dạng, đa tầng. Trong đó, ngữ cảnh triển khai truyền và nhận thông tin giúp định vị biểu tượng là quá trình “phân giải” mà mỗi mắc xích trên chặng đường ấy lại là một biểu tượng hệ lụy chung quanh một biểu tượng lớn hơn, sâu kín hơn. Có thể nói, quan niệm này đặc biệt đáng lưu tâm không chỉ ở chỗ giúp khu biệt kí hiệu và biểu tượng mà còn đề đặt vấn đề tồn tại của biểu tượng song song với quá trình phân giải văn bản.
Trong tiếng Việt, biểu tượng là một từ gốc Hán được dùng lẫn lộn với hình tượng và kí hiệu. Biểu tượng có 2 nghĩa: 1-hình ảnh tượng trưng; 2- hình ảnh của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt[10]. Và theo Cung Kim Tiến trong Từ điển Triết học: “biểu tượng là hình ảnh trực quan cảm tính, khái quát về sự vật hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo trong ý thức và không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật hiện tượng đến giác quan”[11]. Chúng ta chú ý đến những điểm sau: là hình thức phản ánh cảm tính, được giữa lại và tái tạo. Vậy là biểu tượng như hạt mầm không ngừng nảy nở, xác lập, tái tạo lại nó để bản thân nó có thể chứa đựng một lượng nghĩa năng động. Điều này cho phép biểu tượng chuyển động không ngừng trong môi trường tư duy cũng như môi trường người tiếp nhận thông tin. Ngoài ra, “mặc dù biểu tượng là hình thức phản ánh cảm tính của cá nhân, nhưng ở con người, nó có mối liên hệ mật thiết với những nghĩa do xã hội tạo ra, đã được tạo ra một cách gián tiếp qua ngôn ngữ, mang đầy nội dung xã hội và bao giờ cũng lĩnh hội được, nhận thức được”[12]. Điều này khẳng định biểu tượng không thể từ bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nhưng có vẻ đây chỉ là một trong những khía cạnh của biểu tượng. Tất nhiên biểu tượng vẫn chịu sự ràng buộc ít nhiều với quy phạm xã hội. Đó là một quãng sinh hoạt tinh thần rộng rãi, từ ý thức đến vô thức tập thể. Có thể nói, nhờ vào ý nghĩa xã hội mà biểu tượng định vị được nó, bắt được sóng truyền đạt, tạo được kênh truyền đạt cho thông tin. Tuy nhiên, phần nhiều biểu tượng trở nên độc đáo do sự vượt thoát khỏi mối ràng buộc với quy phạm xã hội. Với nghệ thuật, biểu tượng hoàn toàn tự do và không ngừng nảy nở trong môi trường cá nhân như đã trình bày ở phần trên. Nguồn gốc xã hội của biểu tượng khi nảy mầm một cách “cá nhân” đã rũ bỏ ít nhiều ý nghĩa xã hội của nó, dần dần phát sinh thêm những ý nghĩa mới nhờ kết nối được với những yếu tố bên trong tác phẩm. Nói khác đi, biểu tượng bị cá thể hóa, rơi vào quỹ đạo cái tôi, dần xa ý thức xã hội “tập quán bầy đàn” sẽ phát triển với ít nhiều phẩm tính thẩm mỹ. Nó gắn liền với khát khao và những ám ảnh cá nhân nhiều hơn (Phần này sẽ được trình bày ở phần tiếp theo).

Thêm một ý kiến nữa, chúng ta hình dung cụ thể hơn nguồn gốc hình thành biểu tượng (xuất phát từ thực tiễn đời sống). Theo Đoàn Tiến Lực:
“Khởi nguyên, biểu tượng là một vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ, hay kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần (có thể là chủ và khách, người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp chia tay nhau lâu dài…Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối thân tình xưa hoặc món nợ cũ, tình bạn ngày trước. Biểu tượng chia ra và lại kết lại với nhau như vậy nên nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Điều ngày cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ, vừa là nối kết những phần của nó”[13].
Rõ ràng biểu tượng tạo nên bởi hai phần, khi nào có đủ hai phần mới có sự kết nối, nghĩa là sự hoàn thiện để trở thành biểu tượng. Ở đây, người viết đặt ra vấn đề về mối liên hệ song phương giữa biểu tượng. Cả hai là cần thiết. Mất một trong hai điều nguy hại cho sự tồn tại biểu tượng. Nó phải có cái cho nó ý nghĩa. Nó cho lại sự hình dung và đối tượng thao tác của tư duy. Ý kiến của người viết trong trường hợp này, đáng nói, ở chỗ khẳng định mối liên hệ biện chứng giữa biểu tượng và cái song hành cùng biểu tượng tạo nên khả năng tồn tại của chính nó.
Qua phần trên, chúng tôi đã phác họa phần nào những quan niệm chính về biểu tượng. Tiếp theo, chúng tôi trình bày quan niệm của phân tâm học. Chính ở đây, nghiên cứu biểu tượng có được nhiều thành tựu đáng kể và sâu sắc. Như S. Freud: “Chúng ta gọi những mối liên hệ bất biến giữa môi trường giấc mơ và sự chú giải của nó là “symbolic”. Những yếu tố trong mơ tự nó đã là biểu tượng của suy tưởng mộng mơ thuộc về vô thức”[14]. Với suy nghĩ này, có vẻ Freud đánh đồng toàn bộ hình ảnh xuất hiện trong mơ với biểu tượng. Tất nhiên, ông vẫn có cái lí của mình. Ông cho rằng bất kì một chi tiết nào nảy nở trong giấc mơ đều là sự giải phóng hay vụt thoát của bản ngã (id) trước tình trạng lõng lo của tay kị sĩ tự ngã (ego). Giấc mơ do đó là lúc bản ngã mang tính chất của một “tiểu quỷ” thể hiện rõ rệt và mạnh mẽ nhất. Thế nên, bất kì một chi tiết nào của giấc mơ cũng là những chiêu trò của “tiểu quỷ”. Nó luôn mang một hàm ý nào đó, chứa đựng trong nó một dung lượng nghĩa nhất định. Ý kiến của Erich Kahler nói rõ thêm quan điểm của Freud:
“Trương độ của phương thức hình ảnh, “những tưởng tượng hư cấu” có nguồn cội sâu xa hơn trong tâm lý người, hoặc giả xa hơn nữa là trong tâm thức thú hoang. Trong tiềm thức của nó, cơ chế hoạt động tự phát trong giấc mơ đã trở thành tâm điểm chú ý của nhà tâm lý học từng sử dụng thuật ngữ “symbolize” (biểu tượng hóa) về sự chuyển đổi vô thức của cá nhân hoặc một ý nghĩ mơ mộng thuộc về cổ mẫu (archétype) trong những hình ảnh mơ mộng riêng lẽ (theo như cách dùng từ của Freud) và đó gọi là những hình ảnh kết quả hay biểu tượng”[15].
Và giữa “biểu tượng” với nội dung phía sau nó có một mối liên hệ vừa gần gũi vừa tượng trưng. Chẳng hạn, dẫn theo Phương Lựu[16], Freud cho rằng chi tiết leo cầu thang trong mơ là biểu tượng cho ước ao dục tình, là cơn bộc phát của những người đói khát tình dục. Và hình ảnh leo cầu thang do đó đã là biểu tượng cho hàm ý về hoạt động tính dục ở con người. Kì thực, cách hiểu về biểu tượng của Freud còn dừng lại ở những trường hợp bệnh lý và mang nặng màu sắc tính dục. Điều này gần như ai cũng dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc kí thác nghĩa cho một hình ảnh để trở thành biểu tượng thì giữa kí hiệu, phù hiệu và biểu tượng cơ hồ chẳng còn ranh giới nữa. Trong khi, biểu tượng không chỉ là một kí hiệu. (Về sự phân định ranh giới giữa biểu tượng và kí hiệu xin gác lại phần sau sẽ trình bày cụ thể hơn). Riêng ở đây, phải ghi nhận, sự khẳng định nguồn cội tâm lí của biểu tượng mà Freud có lẽ là người đầu tiên đề đặt một cách vững chắc và có lập luận hoàn thiện đã là nền tảng cho những khám phá tiếp theo ở C. Jung.
Đến với C. Jung: “vì thế một từ hay một hình ảnh là biểu tượng khi nó cung cấp một thứ gì đó hơn cả chính ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp của nó”[17]. Và theo Jung, quá trình hình thành biểu tượng gắn liền với vô thức hay chính xác hơn là vô thức cá nhân. Có thể, đó là một phần của tôn giáo hay có nguồn gốc từ thần thoại và truyền thuyết cổ đại, những niềm tin dân gian, dần dà trở thành mặc định trong cộng đồng hay một nhóm người nào đó. Từ những yếu tố như thế, khi con người thực hiện cuộc sống cá nhân, các tác động trực tiếp và cụ thể của đời người gây ra cuộc va chạm giữa hai vũ trụ riêng và chung, giữa tâm thức giống nòi với nội tâm cá nhân độc đáo tạo ra sự ly khai hoặc ra đời của biểu tượng. Ở điểm này, Jung lí giải sự hình thành biểu tượng dựa trên “những dấu vết cổ xưa” hay từ vô thức tập thể khác với sự luận giải của Freud dựa trên dục năng libido. Sự khác biệt này bắt nguồn từ cách hiểu về libido của Jung thoáng và cởi mở hơn Freud (Freud cho rằng libido là dục năng thúc đẩy các cơ chế hành vi ở người. Nhưng Jung không dừng lại ở đó, ông cho rằng Libido còn hơn thế, là cái động năng sống nói chung, không chỉ có màu sắc tính dục đơn thuần. Và động năng sống ở đây khác với cái đà sống - élan vital - ở Henri Bergson).

Có vẻ suy nghĩ này tích cực và dàn hòa được những ai lên tiếng phản đối màu sắc tính dục ở học thuyết của Freud. Nếu Freud xây dựng quan niệm biểu tượng dựa trên những dồn nén và xu thế bù đắp của vô thức cá nhân thì Jung cũng thừa nhận môi trường tồn tại (vô thức cá nhân) của biểu tượng nhưng đã truy hồi nguồn gốc khởi sinh của nó từ trong tâm thức giống nòi hay vô thức tập thể. Thế nên, biểu tượng của Jung cho thấy cái nhìn toàn diện và triệt để hơn. Nhìn chung, quan niệm của Jung về biểu tượng gắn liền với kí ức của nhân loại và cho thấy mối liên hệ giữa biểu tượng và cổ mẫu. Trước đấy, F. Engels cũng có ý kiến khá gần gũi: “Nếu lịch sử tiến hóa của cái bào thai trong bụng mẹ chỉ là sự tái diễn thu ngắn lại của hàng triệu năm lịch sử tiến hóa về thể chất của loài vật tổ tiên chúng ta, thì sự tiến hóa về trí tuệ của một em bé cũng vậy. Nó chỉ là sự tái diễn thu ngắn lại hơn nữa của sự tiến hóa trí tuệ của tổ tiên ấy, hay ít ra cũng là của những tổ tiên gần đây nhất”[18]. Vậy thì biểu tượng không chỉ là một hình ảnh đơn thuần xuất hiện trong mơ, mang hàm ý tính dục và tuân thủ nguyên tắc thỏa mãn đơn thuần. Mà hơn thế, biểu tượng là sự tái sinh và hiển hiện ở một trương độ khác của những dấu vết trí tuệ tổ tiên hình thành trong suốt chiều dài lịch sử giống nòi. Cơ bản, biểu tượng cũng là những hình ảnh được tái hiện lại trong cảm tính, đặc biệt là trong giấc mơ và khởi đi từ vô thức (vô thức tập thể), rồi được nâng cấp thành kí hiệu nhờ một hàm ý nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình đó, biểu tượng lại tách ra khỏi phạm vi của kí hiệu ở tính chất phi lí tính. Biểu tượng thoát khỏi vòng kiểm soát của lí trí, và luôn luôn trong quá trình tái cơ cấu dung lượng nghĩa (sự đập vỡ - kết nối). Biểu tượng, cụ thể hơn là biểu tượng trong giấc mơ, là kết quả tương tác thường xuyên giữa động năng ý thức di truyền từ tổ tiên với cuộc sống của chính bản thân mỗi con người; là cuộc va chạm giữa hai vũ trụ riêng và chung, giữa vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Do thế, biểu tượng luôn luôn trên hành trình xác định ý nghĩa hay nói khác đi là quá trình ý nghĩa gồm thâu trong một biểu tượng diễn ra vô tận. Mối quan hệ giữa biểu tượng và hệ thống nghĩa của nó không còn mang tính chất võ đoán, quy ước như kí hiệu mà là mối quan hệ thuộc về trường liên tưởng khởi đi từ hai cơ chế dồn nén-hoán vị. Nói thêm rằng, tất nhiên chúng ta không thể phủ nhận vai trò chi phối của siêu ngã (superego) – đại diện là những lý tưởng chung và riêng -  đối với sự hình thành biểu tượng và đặc tính của nó. Tuy nhiên, yếu tố này không là chính yếu, không là chủ đạo, thậm chí rất hạn chế. 

Chung quy, biểu tượng thuộc về tính ngụ ý một cái gì đó lớn hơn, ám chỉ một điều gì đó chưa nói hết”, mang khả năng truyền chuyển đến một hệ thống ý nghĩa trong văn bản cụ thể. Hay biểu tượng là tiêu biểu, đại diện cho một hình dung trừu tượng, một khái niệm còn mơ hồ chẳng hạn hay một nhận thức có nhiều mối quan hệ phức tạp. Bản thân sự hình dung trừu tượng ấy là quá tải trong chính bản thân nó, nên nó cần tiếp chuyển bởi một vật thể hay một ý niệm nào đó. Nó – chính ý niệm trừu tượng ấy - cần đến biểu tượng để có thể biểu hiện nó đầy đủ nhất có thể. Nhưng biểu tượng nhất là biểu tượng trong văn học lại không nhất thiết có những bờ rào vững chắc. Đó là sự hình thành của biểu tượng. Biểu tượng, do đó, chỉ là một sinh thể mở không ngừng trao dồi nghĩa, đồng thời tương tác lẫn nhau trong toàn thể các biểu tượng khác cùng tồn tại trong môi trường của chính nó. Biểu tượng, vì thế, đặc trưng ở khả năng thiết lập đường truyền động.
Võ Quốc Việt (2013)

[1] Hamilton H. R. (1868), An English-Greek Lexicon, ?, London.
Lewis C. T. (2002), A Latin Dictionary, The Clarendon Press, Oxford.
Liddell H. G. and Scott R. (1883), The Greek-English Lexicon, Harper & Brothers, New York.
Webster’s New World Dictionary of the American Language, The World Publishing Company, Cleverland and New York, 1960.
[2] Lewis C. T. (2002), A Latin Dictionary, The Clarendon Press, Oxford
[3] Liddell H. G. and Scott R. (1883), The Greek-English Lexicon, Harper & Brothers, New York
[4] Webster’s New World Dictionary of the American Language, The World Publishing Company, Cleverland and New York, 1960
[5] Hagar G. J. (1922), The New Supreme Webster Dictionary, World Syndicate Company, New York
[6] - Mncube G. J. G. (2006), Weather Symbolism in Dbz Ntuli’s Literature, Submitted in accordence with requirements for the degree of Master of Arts, University of South Africa
- Hawkins J.M.(1991), The Oxford Encyclopedic English Dictionary, Oxford
[7] Mncube G. J. G. (2006), Weather Symbolism in Dbz Ntuli’s Literature, Submitted in accordence with requirements for the degree of Master of Arts, University of South Africa
[8] Liungman C.G. (1991), Dictionary of Symbols, Hardcover, U.S.A.
[9] tapchisonghuong.com.vn
[10] Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
Tham khảo thêm từ nguồn: vanchuongviet.org
[11] Cung Kim Tiến (2002), Từ điển Triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
[12] Cung Kim Tiến (2002), Từ điển Triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
[13] huc.edu.vn
[14] Freud S. (1920), A General Introduction to Psychoanalysis, Boni and Publishers, New York
[15] May R. (1961), Symbolism in Religion and Literature, George Braziller, New York
[16] Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội
[17] Jung C. G. (1968), Man and his Symbols, Dell Publishing, U.S.A.
[18] Trần Đức Thảo (2003), Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức ( Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...