Skip to main content

Biểu tượng của ám ảnh và tội lỗi trong thơ Thanh Tâm Tuyền


Thể xác – Biểu tượng của ám ảnh và tội lỗi


Con người đã lầm tưởng văn minh vật chất với sự phát triển thần kỳ của khoa học tự nhiên sẽ thúc đẩy con người vươn đến tầm cao mới nhưng thực tế chứng minh điều ngược lại. Nửa cuối thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản thay đổi bản chất và mở rộng phạm vi khai thác thì ngay trong bản thân nó đã nảy nở mầm mống đầu tiên của những vấn đề về con người. Cứ thế, con người ngày càng buồn hơn, cô độc hơn. Từ Kierkegaard, Nietzsche và sau này là Jaspers, Marcel, Sartre và Heidegger, Âu Châu quan tâm sâu sắc đến thân phận con người trong đời sống tư sản. Và hai cuộc đại chiến chết chóc, mất mát, khủng hoảng, bấn loạn, tất cả hình thành một không khí “hiện sinh”, buộc mọi người phải suy nghĩ về chính mình, về mọi người xung quanh, về con người với tất cả việc thực hiện cuộc sống đang có. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trong hoàn cảnh ấy. “Hiện sinh” ám vào từng ngóc ngách đời sống, không một ai có thể phớt lờ. Triết học Hiện sinh trở thành một hiện tượng.
Đời sống ở những đô thị Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 cũng chìm trong bất ổn. Hơn hai mươi năm người dân chung sống với chiến tranh. Đời sống bấy giờ cũng tràn ngập không khí “hiện sinh”. Đó là điều kiện phù hợp cho sự du nhập của triết thuyết này vào không gian đô thị Miền Nam Việt Nam thời ấy. Theo Thụy Khuê trong bài tưởng niệm Trần Thái Đỉnh, quyển “Triết học Hiện sinh” lúc ấy đã trở thành best-seller. Đó thực sự là hiện tượng lạ đối với một tác phẩm biên khảo triết học. Điều này cũng chứng tỏ con người quan tâm đến “hiện sinh”, ý thức được cuộc “hiện sinh”, ý thức được những vấn nạn trong bản chất cuộc làm người của chính mình và đồng loại. Và khuynh hướng hiện sinh ấy không đâu rõ nét hơn văn chương. Có thể nói, đâu đâu trong sáng tác của những nhà văn bấy giờ cũng tìm thấy đôi nét hiện sinh, vài chi tiết băn khoăn về thân phận. Nổi cuộm là hiện tượng những nhà văn nữ thời kỳ này: Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Nhã Ca, Trùng Dương .....với thật nhiều ám ảnh dục tình. Ở địa hạt khác, các nhà thơ lại có cách thể hiện khuynh hướng hiện sinh riêng biệt. Đó là Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Bùi Giáng....Với Thanh Tâm Tuyền, chúng tôi nhìn thấy những biểu tượng “hiện sinh”, thể hiện nỗi “ưu tư” của tác giả trước những vấn đề bản chất của việc làm người.
Thể hiện qua những hình ảnh về thân thể con người đi đến sự hình thành biểu tượng thể xác, và thông qua đó, Thanh Tâm Tuyền cho thấy những ám ảnh trong tâm hồn và lương tri. Đồng thời, biểu tượng thể xác còn đại diện cho tội lỗi, nỗi buồn và mặc cảm về tội lỗi của chính mình, của mọi người xung quanh và đồng loại. Với biểu tượng thể xác, nhà thơ gần như thể hiện được hai phạm trù cơ bản của thuyết hiện sinh là Phi lý và Buồn nôn.
Con người trong thơ Thanh Tâm Tuyền dường như đương úp mặt vào hai tay, với tư thế đớn đau, cuồng loạn. Đó là con người trên bước đường thực hiện cuộc hiện sinh của mình. Con người trong giai đoạn quá độ - nhảy vọt hiện sinh (theo Lê Thành Trị). Đó là những kẻ rơi vào vòng xoáy ưu tư (souci) – chính ưu tư nối kết các đặc trưng Dasein. Thế là kẻ ấy bắt đầu ý thức về cuộc sống, về tồn tại của chính mình. Kẻ ấy thoát khỏi tính đồ vật, thoát khỏi hàng “động vật bậc thấp”. Tại sao Thanh Tâm Tuyền miêu tả nhiều về giai đoạn ấy trên con đường hiện sinh, và gắn liền với nó là mùa giông bão của thể xác ? Biểu tượng thể xác truyền dẫn đến nội dung hiện sinh rõ nét nhất. Bởi chính ngay giai đoạn quá độ ấy, cuộc hiện sinh hiện lên rõ ràng nhất, dữ dội nhất, khóc liệt và dứt khoát nhất. Ưu tư là bước nhảy cho cuộc thay đổi toàn diện về “chất”, để chúng ta không còn là chú “linh trưởng” hạnh phúc của đám đông (khối người – masse).
Nói về ưu tư hay lo âu trong thuyết hiện sinh, chúng ta có rất nhiều cách hiểu. Ở luận văn này, chúng tôi không có ý định xác lập lại quan niệm về các phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh. Mỗi ý kiến sẽ có đóng góp riêng.
Theo Sartre, “con người bị kết án tự do”. Và hắn muốn làm thượng đế thế nên đời hắn là cả chuỗi “đam mê vô ích”. Với bản án nghiệt ngã ấy, con người hoặc ngoảnh đi, hoặc rơi vào vòng xoáy ưu tư nặng nề mang tính chất siêu hình. Dựa vào đó, Nguyễn Đắc Vĩnh cho rằng lo âu hay ưu tư bắt nguồn từ tự do (“Từ sự tự do lựa chọn nhất định dẫn dến cảm tính lo âu. Lo âu là lo về cái gì đó xa xăm, mơ hồ, không rõ rệt, không trực tiếp uy hiếp cuộc sống của Hiện sinh thể, nó mờ mờ ảo ảo, bâng khuâng nhưng day dứt, bồn chồn, làm cho tâm hồn ở trạng thái căng thẳng, vò xé và không có nguyên nhân gì rõ rệt. Cơ sở của lo âu bắt nguồn từ lựa chọn”[23]). Tự do có đầy rẫy trong thơ ThanhTâm Tuyền, không khó để tìm thấy một loạt đắn đo về vấn đề tự do trong thơ ông (“Người ta chỉ yêu khi tự do”). Như Bùi Giáng, có tự do lựa chọn trước “con đường ngã ba ngã bảy của tư tưởng” nên con người trong thơ Thanh Tâm Tuyền mới bị đẩy đến bước đường ưu tư. Đã có ưu tư là đã có vươn lên (“Con người phóng thể không ưu tư, vì họ sống như một sự vật của gia đình và xã hội: họ không ưu tư vì họ cứ việc sống thừa ra, sống như mọi người. Trái lại con người đã tỉnh ngộ không thể không ưu tư. Ưu tư là bắt đầu vươn lên..Ưu tư không giống sợ hãi...ưu tư chỉ là xao xuyến, băn khoăn về tương lai chưa rõ rệt....Để người khác hoặc đoàn thể quyết định thay, tức là thoái vị làm người tự chủ và tự do”.[3tr.47]). Vươn lên từ đâu, từ đêm trường Phóng thể (từ dùng theo cách hiểu của Trần Thái Đỉnh), từ chỗ thấp hèn khước từ tự do, khước từ đặc ân khẳng định nhân vị của mình, chối bỏ cơ hội được trở thành “Người hùng”, thấp hèn vì tin vịn vào những lời “cổ nhân”, và còn hèn vì cứ cho là đủ với những khuôn mẫu có sẵn ù lì thật đáng nôn mửa. Vì hắn lựa chọn, hắn không thể theo một khuôn mẫu nào sẵn có. Nếu có khuôn mẫu, hắn không đắn đo gì, hắn cứ tự động hành động như một cái máy được lập trình. Cuộc đời thú vị vì chúng ta có cơ hội hình thành bản chất của mình. Con người là dự phóng. Nhưng đó cũng là điều đáng sợ nhất. Đứng trước tự do, hẳn có rất nhiều kẻ hoảng sợ. Tự do không hẳn là món quà tuyệt vời với những cỗ máy sống, hay những bóng ma nhợt nhạt của đám đông. Thể xác người trong thơ Thanh Tâm Tuyền đang diễn ra cuộc vật lộn như thế. Cuộc vật lộn giữa “có” như đồ vật, và “có” như chủ thể trải nghiệm cuộc hiện sinh của mình, như hữu tại thế. Biểu tượng “Thể xác” khắp mọi ngõ ngách trong thơ Thanh Tâm Tuyền rên xiết và lên tiếng về những biến động thánh thần trong cuộc đời mình. Biểu tượng này gắn liền với mối lo âu, “sự ưu tư”. “Anh đốt dần xác thịt như cành mọn / Giữa chiều mùa đông ở đây trong cốt tuỷ / Tuyệt vọng trần truồng”  (Sầu khúc 4Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
“Thể xác” ở đây đã tỉnh ngộ. Thanh Tâm Tuyền ác độc như một “người hùng”. Cuộc đảo hoán giá trị (transvaluation) trong thơ ông gây ra những xáo trộn vĩ đại ở tư duy thơ. Từng xăn-ti-mét sinh thể con người rục rịch thức tỉnh, và chúng đã tỉnh hẳn. Để, chúng ý thức nghiệt ngã về mớ bừa bộn đã có, đang có, và e rằng khó mà cải biến trong sắp tới. Và Thể xác xuất hiện trong vai diễn của một kẻ bấn loạn, đớn đau và cô độc. “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ/ Thanh Tâm Tuyền” (Phục sinhTôi không còn cô độc, 1956). Hay: “Hắn bước ra giữa sân khấu dìu theo một / bóng hình tưởng tượng. Không, một bóng / hình trong suốt. Hắn gục đầu vào vai người / ấy mà khóc, không nước mắt, chỉ thấy hai / luồng khói đục thở ra theo lỗ mũi mờ mịt / cả gian phòng làm sặc sụa khán giả” (Sầu khúc 5 – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
a. Thể xác trước những ám ảnh mòn ruỗng - phân hủy
“...Tôi còn nghe dưới lưng tôi cỏ hoang
bứt rứt, côn trùng nỉ non, thân xác phá hoại.”
(Hơi thở - Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
Vậy tại sao biểu tượng thể xác lại hiện lên với trạng thái phá hủy – tự hủy. Điều này có ý nghĩa gì ? “Mưa xuống bên ngoài, ngoài cửa sổ. Những bàn tay níu lấy vòng sắt lạnh / Mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau, không quen nhau / Thân mật ngó lên mái tóc rối màn trời khuya / Ngó vào mắt hoang xa dòng sông không bờ / Sau một ngày làm việc em mơ về khói ấm khuôn mặt riêng / Tôi nghĩ về cuộc đời thầm thầm hằng ngày” (Một chỗ trên ô tô buýt – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
Đoạn thơ trên hẳn đã hé lộ tâm sự của lũ thể xác “rệu rã” trong thơ Thanh Tâm Tuyền. Như cuộc đời, những hành vi – con người đồ vật. Nỗi ám ảnh mà cũng là sự khinh khi, lại pha vào chút thương hại. Đối với những kẻ “sinh vật”, Nietzsche cho đó là mớ vật liệu cho con người siêu nhân. Sau này, Sartre thâu tóm loại người ấy vào khái niệm rất đặc tả: “Buồn nôn” (Nausée). “Buồn nôn là gì ? Là trạng thái sinh hoạt lầm lì của thường nhật”.[3;tr42]. Buồn nôn là tình trạng sống vô vị, thừa ra, sống như người ta, trở thành người ta chung chung, chứ không trở thành mình. Không ý thức được hoặc khước từ quyền định đoạt, tự quyết và lựa chon hình thành bản chất con người mình. Buồn nôn hầu như liên đới với tất cả những khái niệm chính của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là bọn người đám đông, là người không tự sống cuộc đời mình. Bọn người họ có đấy, nhưng chẳng có họ một lúc nào. Bọn họ sống mà đã và đang chết, vì họ chưa tồn tại, như bà chủ nọ hay cô gái kia đăm đăm kiếm tiền, ăn ngủ và thỏa mãn sinh lí. Cái tình trạng hiện vật ấy, chưa biết – chưa thấy – chưa tin hay lẩn tránh thừa nhận việc làm mình, họ đã quên khả năng có ý nghĩa hoặc sợ mình có ý nghĩa. Những anh, những em, những bằng hữu, cố tri như thế trong thơ Thanh Tâm Tuyền không thiếu. Thế nên họ đang có nhưng họ đang chết dần, chết mòn, mục ruỗng ra hết thẩy. Cuộc sống sền sệt trôi đi. Con người cũng “thầm thầm” như cuộc sống. Một mảng lớn trong thơ Thanh Tâm Tuyền chỉ là những thể xác ủ ê, mệt mỏi, bị cuộc đời sinh vật bào mòn, quẩn quanh trong vài chuyện tẻ nhạt. “Anh ôm ghì sự bất lực đói khát, mũi dao nhọn giữa lòng tin / Thân thể này không của anh cũng không của em”(Đêm  - Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964).
Cơn phóng thể tràn ngập đời sống. Những kẻ bị thôi miên, mê mệt trong giấc mộng ban ngày. “Tôi là người là một người khác / Những người chết còn mở mắt đây” (Đừng bắt tôi từ biệt – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy,1964). Những kẻ đi lại với sinh mạng rỗng tuếch. Người đã chết. Bọn họ đã chết và đang chết như thế nào ? Lũ thể xác đứ đừ mưu toan sống như hàng sinh vật, Thanh Tâm Tuyền nhìn đến họ bằng ánh mắt mệt nhọc, tuyệt vọng nhưng cũng lắm khi nóng nảy muốn xốc họ dậy, muốn giật tóc, tát thẳng vào mặt cho cơn mê man bỏ chạy đi. Thơ Thanh Tâm Tuyền vì thế lắm khi hiện hình như con tàu đầy xác sống trôi bồng bềnh giữa vùng biển chết, im lặng- tịch mịch – nặng nề; lắm khi là khu rừng của những kẻ tự sát, để tuổi thanh xuân phân hủy dưới gốc cây. “Những hồn ma hoang đầu ngọn cây / Xác chết rữa nát / Trong kẹt rừng khô / Ðêm thức dậy mở mắt mắt đã mù  / Hai con sâu nằm trên chân mày đang khoét lỗ / Con quạ hôi hám mở lồng ngực bay lên / Mỏ ngậm quả tim đựng hình ảnh đời người  / Ðời người thản nhiên như tên gọi” (Đêm – Liên- đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
Có những anh hùng chết hiên ngang “tạc vào thế kỷ” nhưng Thanh Tâm Tuyền đã mang vào thơ lũ kí sinh cuộc đời. Và ngay cả cái chết cũng không thoát khỏi hàng sinh vật. Thậm chí, thông qua cái chết, lũ thể xác trong thơ Tâm Tuyền càng ghi dấu dáng vẻ đồ vật lầm lì của chúng. Ôi con người cũng chết như giun dế, con người bi đát và rẻ rúng. Sống trong môi trường bất ổn Nam Việt bấy giờ, thể xác con người thường khi đã trở thành mớ vật chất vô nghĩa, không đáng một xu. Thậm chí chính bản thân lũ thể xác ấy cũng không còn băn khoăn về việc sống để xác lập các giá trị độc đáo. Chúng cứ sống, dự phần thôi, và chen chân vào mảnh đất đầy rẫy “zombie”. Đời người cũng chỉ là cái để gọi và hầu như không có nghĩa lí gì. Có thể sáu mươi năm trôi qua nhưng họ không tìm nổi một lí do thuyết phục cuộc đời ghi nhớ tên mình.
Thơ Thanh Tâm Tuyền đầy rẫy thể xác biết đi, trong trạng thái mệt mỏi, rệu rã. Hay những thể xác hao mòn từng phút giây, đờ đễnh chờ cuộc đời trôi đi vô nghĩa (chúng ta sẽ liên hệ điều này như cái chết hàng ngày của nước). Thanh Tâm Tuyền đã nhìn thấy điều đó, nghĩa là đã bước vào địa hạt hiện sinh. Thấy được kẻ phóng thể, nghĩa là đã tự cắt mình khỏi liên hệ với bầy người ấy. Đôi khi, biểu tượng thể xác – những thân tàn hoang dại – còn biểu lộ một Tâm Tuyền cuồng nộ thánh thần, muốn trở thành Hoàng đế, thành Người hùng. Nhưng chắc chắn đó là vị Hoàng đế cô độc. Cảm nhận về đời người nhếch nhác trôi đi trong các đô thị Nam Việt bấy giờ ghi dấu ấn mạnh mẽ vào khuynh hướng hiện sinh kiểu Sartre ở Thanh Tâm Tuyền. Biểu tượng thể xác do đó có thể nói là sự phản ứng lại trạng thái sống phóng thể của con người, những gì mà Thanh Tâm Tuyền vừa hốt hoảng - vừa tuyệt vọng - vừa thịnh nộ nhận ra nơi đồng loại của mình. Qua những thể xác mòn ruỗng hằng ngày đã cho thấy một nỗi buồn thường trực, đầy rẫy, đè nặng lên toàn bộ cuộc sống. Thể xác gói gém những suy nghĩ hiện sinh bước đầu của nhà thơ.
Thế xác sợ chết, sợ hư vô. Cái chết chồm ra từ nội tâm cuộc sống thường trực có dáng vẻ chắc chắn. Cuộc đời vì thế trải ra ảm đạm từ mọi ngõ ngách. Ám ảnh về cái chết đơn độc trong thơ Thanh Tâm Tuyền là sự hãi hùng êm dịu. Cái chết nhẹ nhàng lườn theo cuộc sống với những ưu tư siêu hình, vững chãi kiểu như “con người thì phải chết” hay “muốn làm người là điên/ con người thì cô độc/ không phép thuật nhiệm mầu”. Và cái chết là sự kiện dữ dội trong chuỗi tồn tại người. Vậy mà người đối diện với chết như con chuột bị dồn vào chân tường. Người không hề suy niệm hay băn khoăn để quyết cho cái chết một giá trị độc đáo. “Tôi đã hốt hoảng”. Thanh Tâm Tuyền nhận ra điều đó. Thế nên đã bước vào cõi đêm tối hãi hùng một cách cô độc. Và bi kịch ở đây là sự nhận thức rõ ràng và chắc chắn về cái chết, về tận diệt. Chết ở đây là nỗi sợ cái vô nghĩa tràn ngược từ giấc mơ sang đời thực ngày một dày đặc hơn, rõ ràng hơn. “Có những ngôn ngữ của sự vật im lìm kín / tiếng, giọng ấm như tấm chăn đơn đêm trở / lạnh. Anh đã qua những đêm hãi hùng mà / bóng tối trống trơn như lỗ huyệt, hình hài khô / mục như ác mộng và tử thần bỏ mặc một lá / cây già. Bây giờ, và những bây giờ mãi mãi, / màu đêm như lòng đen mắt ấy là con tim cao / vời tử thần về nhịp múa”. (Mặt trời tìm thấy – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
Biểu tượng thể xác mang lại sự hình dung chung về những kẻ ì ra giữa đời sống, hoặc những kẻ bị sức nặng của đời sống đè bẹp. Thể xác nằm rệu rã làm chứng tích cho vũ trụ thơ đau thương trong thời đại u buồn - ảm đạm – thịnh nộ. Biểu tượng thể xác đóng vai trò là những điểm “bấu víu” trước tiên cho những ai muốn nhập lãnh thổ - khoảng trời hiện sinh của Thanh Tâm Tuyền. Tử thần kéo lê vạt áo đen như hố thẳm trên khắp ngõ ngách đời sống. Đó là chất hiện sinh đặc sệt như cuộc đời ù lì tăm tối bị vây quanh bởi những nỗi ám ảnh thường trực.
b. Thể xác trong tâm trạng bấn loạn, tuyệt vọng

Sự bấn loạn là trạng thái vùng vẫy của hữu thể. Vì hắn thấy đêm dài phóng thể đã trải qua và hắn chờ đến bình minh. Khi đã thực hiện cuộc nhảy vọt hiện sinh, con người phải đứng trước dự phóng của mình, phải lên kế hoạch cho việc trở thành mình. Đó là một trạng thái chệch choạng. Đó là giờ phút của những mâu thuẫn rối bời mà Sartre là điển hình. Chính ở Sartre đã biểu hiện những thái cực đối nghịch về cuộc đời. Điều ấy cho thấy cuộc vật lộn với hiện sinh. Sartre không chỉ là một triết gia, mà còn là bằng chứng cho triết thuyết của mình. Trở lại với Thanh Tâm Tuyền, đấy cũng lại là khối mâu thuẫn lớn.
Những biểu hiện của thể xác cho thấy một tinh thần vừa hốt hoảng vừa đớn đau vật vã đẩy người đọc vào miền liên tưởng chắc chắn về hiện trạng thối rửa của tâm hồn bằng ngôn từ vừa “triết học” vừa “bình dị”. “Tôi buồn khóc như buồn nôn” (Phục sinh – Tôi không còn cô độc, 1956).  Tình trạng bấn loạn của “thể xác” còn biểu hiện qua trạng thái cô độc tận cùng, gây ra những hỗn loạn, phân mảnh trong nhận thức về chính bản ngã. Đẩy con người và chính nó vào trạng thái tự ngã – tha nhân hoán chuyển. Không còn đâu là người, đâu là mình nữa. Mình cũng đã đánh mất mình, không rõ đâu là mình, như thế nào là mình; mà cũng chẳng rõ người là gì, người là như thế nào, người và ta liệu có phải một không ? người và ta liệu có phải riêng không? Ta đây phải chăng chỉ có một hay đã có nhiều ta cùng một lúc. Sự phân tách hoán chuyển đầu nguồn ý hướng càng đẩy hắn đến chỗ cô độc một cách tuyệt đối. Một trạng thái phóng thể đầy rối loạn và tuyệt vọng. “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ” (Phục sinh – Tôi không còn cô độc, 1956).
Dường như có một dòng chảy xô bồ của những hình ảnh linh động... Thơ Thanh Tâm Tuyền ở điểm này như sóng biển sục sôi – là biển lửa. Những con sóng cao chồm tới rồi hốt hoảng hụt hơi, không giữ được điềm tĩnh. Bị cuốn nhào vào những suy tư bất chợt, bị cuốn đi nhanh chóng với những ác mộng hiện ngay trước mắt.... Thể xác cứ thế quay cuồng, rồi mệt lã. Từng chữ mở ra miền đất dữ mà giông bão thường trực với tâm hồn. “nắm tay tròn cáu giận / má phừng lửa yêu thương / môi bỏng niềm tủi cực / đêm qua ai thét giữa đêm dài”. (Phiên khúc 20 – Tôi không còn cô độc, 1956)
Nhưng Thanh Tâm Tuyền cũng có những buổi chiều âm thầm và cử động thân thể nhẹ nhàng trầm tĩnh. Đó là cử chỉ của một con người khép nép, trầm mặc hay sầu muộn. Thể xác kia đi lại “rất tình” trên từng quãng cuộc đời. “Cỏ của hoa và hoa của cỏ/ những ngón tay những ngón chân những nụ cười / nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín / cho thơm đường hôm nay đến sớm mai / hôn từ những ngày dài tội lỗi / chưa quên”. ( Cỏ - Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
Hai trạng thái đối lập. Hiền đấy nhưng đôi khi nóng nảy, hốt hoảng, điên cuồng trong những lo âu tuyệt vọng. Bên ngoài là hình dáng thâm nghiêm, uyển chuyển; bên trong da thịt sôi dậy đớn đau, rên xiết, quằn quại với những con sâu siêu hình bò ngoậy trong xác thân. Vừa yên đấy vừa loạn đấy. Vừa tĩnh đấy lại vẫn động ở chiều sâu tâm thức. Thế nên, những bạn bè thân thiết nhận xét Thanh Tâm Tuyền là một con người chừng mực, điềm đạm; nhưng rất có thể, bên trong tâm hồn kia là mùa giông bão nhiệt đới song song những biến động của thời đại và số phận con người. Phải nói rằng nhà thơ chưa khi nào hết băn khoăn về số kiếp con người và cuộc hiện sinh, luôn thường trực đắm chìm vào những băn khoăn về cái chết và tình yêu. Đó chắc chắn là những biến động cội rễ gây ra trạng thái hỗn loạn – bất ổn của việc thể hiện dòng hình ảnh hay chính là máu mạch suy tư về cuộc hiện sinh này. “Với hết tự do còn ở ngón tay ngón chân tóc / Với hết hồn thơ nghiến chặt giữa hai răng giữa xương tủy / Như loài rễ cây độc / Anh chọn tình yêu không / Điên như đá”. (Bài hát buồn – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964).
Thơ Thanh Tâm Tuyền là những nỗi buồn chắc chắn, vừa là những cơn điên của một triết gia mang dáng vẻ thâm trầm vừa là kẻ tình nhân u uẩn không thôi. Từng gam màu cảm xúc kết tinh. Những thể xác bị đóng đinh giữa bức hình tuyệt vọng. Buồn chán như chính tuổi trẻ giữa mùa giông bão. Trong cơn bấn loạn những thể xác bị xô về ngõ cụt. Nên thể xác cứ bấu víu lấy nhau. Họ còn trẻ và ưu tư nhiều về đời mình. Tuổi trẻ đứng trước tự do và tự quyết. Họ tuyệt vọng trốn đi cùng nhau.  “Dù một chút, đau thương, từ chối, tổ quốc  / ta chạy dài trên địa ngục, xoè mở hai bàn / tay anh khóc đó - những ngón tay gầy  / trơ xương chọn. Con đường đi buổi chiều / hấp hối, ôi buổi chiều sương mù”. (Nói về dĩ vãng – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964)
c. Thể xác - khát khao giải thoát và phục sinh
Chúng tôi xin phép trích dẫn nguyên văn bài thơ Phục Sinh trong tập Tôi không còn cô độc (1956). Theo dòng mạch tư tưởng của bài thơ, chúng ta nhìn thấy sự phát triển của biểu tượng Thể xác qua từng cấp độ truyền dẫn đồng thời tóm tắt được những đắn đo hiện sinh tương đối rõ nét.
“Tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thuỷ tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu

tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang

tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh

từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh

tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỉ chờ đợi

tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật”
Chúng tôi nhìn thấy một tâm hồn đẹp. Cả bài thơ là dòng chảy phát triển của “thể xác” trong mọi tư thế. Trước tiên là sự thức tỉnh. Rồi nó quay cuồng trong đớn đau tuyệt vọng. Băn khoăn – ưu tư về chính mình, về các giá trị của nó. Rồi nó phát hiện đã sống như thế nào trước kia và xúi giục lòng căm phẫn chính mình. Muốn tự sát – tự hủy, nó muốn giết chết đời người phóng thể ấy. Hơn nữa, nó cũng nhận ra những tội lỗi khó bề gột rửa; vì tội lỗi còn hằn mãi trên dòng thời gian đã mất. Thế nhưng, nó vẫn luôn khát khao được phục sinh. Chúng tôi cho đó là tấm lòng nhân đạo của Thanh Tâm Tuyền. Hơn bao giờ hết, chúng tôi muốn nhấn mạnh khát khao giải thoát con người của nhà thơ cho thấy sự quan tâm đến các giá trị nhân bản; và đó cũng là khao khát của nhà thơ trước những giá trị nhân bản bị đe dọa trong đời sống bấy giờ. Điều này không phải là không có ý nghĩa trong đời sống hiện nay.
Nhìn chung, biểu tượng thể xác trong thơ Thanh Tâm Tuyền sau những giờ khắc khổ đau tuyệt vọng vẫn nhen nhóm một ước ao giải thoát; để có thể phục sinh và tốt đẹp; để có lại và làm lại những giờ phút con người đích thực, sáng tạo những giá trị thực. Qua đó, biểu tượng này không chỉ đơn thuần là cơn bão đen tối trong tâm hồn và khêu gợi đổi thay trong việc làm người mà còn là ánh sáng hy vọng nếu chúng ta đủ bình tâm nhìn nhận.

 VÕ QUỐC VIỆT - 2013



Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN

  LƯỢC BIÊN HẬU NHÂN LUẬN Thuật ngữ “Hậu nhân luận” được sử dụng để chỉ loạt quan điểm lý thuyết đương thời được đưa ra bởi những nhà nghiên cứu có nền tảng học thuật trong lĩnh vực triết học, khoa học và nghiên cứu công nghệ, nghiên cứu văn học, lý thuyết phê bình, xã hội học phê phán và nghiên cứu truyền thông. Trong những lĩnh vực nghiên cứu này, hậu nhân luận nêu ra một loạt các sự phá vỡ giả thiết nền tảng của văn hóa phương Tây hiện đại: đặc biệt, hậu nhân luận đề ra lối nhận thức mới về chủ thể người trong tương liên với thế giới tự nhiên nói chung. Lý thuyết hậu nhân đề xuất nhận thức luận mới không lấy con người làm trung tâm và lẽ đó không đặt trọng tâm ở nhị nguyên luận của Descartes. Nó tìm cách làm xói mòn những ranh giới cố hữu giữa con người, động vật và công nghệ. Lý thuyết gia hậu hiện đại Ihab Hassan đã đặt ra thuật ngữ này và còn nêu ra định nghĩa mang tính khai mở trong bài báo với tiêu đề “Prometheus as Performer: Towards a Posthumanist Culture?” (1977). Liên...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...