TỪ
“XUÂN THU NHÃ TẬP” NGHĨ VỀ THƠ, VỀ NGƯỜI ĐỌC
Xuân Thu Nhã Tập là một hiện tượng độc đáo của
văn học Việt Nam hiện đại. Họ không chỉ là các chủ thể sáng tạo, mà còn là những
nhà “lập thuyết”. Qua tuyên ngôn “Thơ” của Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn
Xuân Sanh, chúng ta nhận thấy phần nào bóng dáng của lí luận văn học. Đề đặt những
quan niểm (dẫu có tính chất siêu hình theo quan niệm của một số người) nhưng
trong bối cảnh đó, thật sự mới mẻ và mang tính tiên phong đáng quý. Ở đây,
trong bài viết này, chúng tôi có dụng ý liên hệ các phương pháp phổ biến trong
nghiên cứu văn học đã được tiếp cận (thực chứng lịch sử, thực chứng ngữ nghĩa, phân tâm học, mỹ học tiếp nhận...)
để tìm hiểu vài khía cạnh ở hiện tượng Xuân Thu.
1.
Quan niệm về thơ
“Người ta đã thử và chưa từng
giải nghĩa được thơ”. Tìm hiểu Xuân Thu, chính xác hơn là tìm hiểu cách hiểu của
họ về nghệ thuật (hội họa, âm nhạc, thơ ca). Trong đó, thơ ca là mũi tàu Xuân
Thu. Trong tự nhiên có nước và lửa, trong các loại hình nghệ thuật, có lẽ chỉ
có thơ và nhạc là gần với đạo nhất. Cũng chắc thế mà thơ và nhạc chưa bao giờ
hoàn toàn-thật sự tách biệt nhau. Không nơi nào nhạc bay qua lại thiếu cái ý tứ
mơ màng rất thơ ấy. Nói đến nhạc là nói đến chất thơ, tính thơ. Và hễ nhắc đến
thơ là nghe được tiếng nhạc. Thế nhạc và thơ gần với đạo ra sao ?
“"Thơ" là Đạo, cái đệ nhất tiên đề, sẽ sáng tạo được vạn vật, khi đã
chia âm dương”[1]. Trong
thơ đã có vạn vật, không cái gì hữu hạn mà vô hạn như thơ. Không cái gì chưa có mà
lại có tràn đầy như thế. Và âm nhạc: không có nhưng lấp đầy không gian, vô hình
nhi hữu hình, không cầm được-sờ được nhưng chiếm lĩnh hoàn toàn thể phách ta. Vậy
thì đạt được thơ-nhạc (sự hội ngộ ngàn năm một thuở) đã là về đạo rồi. Từ đạo đến
âm dương – con đường xa mờ vạn lí – vó câu rong ruổi vạn nẻo sơn khê – đời cứ
thế dàn trải – đã là cuộc ra đi của đạo – đạo đến với như là đã vạn vật vạn thể
- nhưng hễ một khi phản tư ý thức (ý niệm) – là sẽ có rung động và sáng tạo –
khoảnh khắc ấy không phân biệt được – hễ rung động là sáng tạo và sáng tạo
chính là rung động ấy – và ta ùa vào thơ để bay với nhạc trong miền vô minh vô
giới của Cõi Vô Cùng – là ta đã về đạo rồi, trở về buổi hồng hoang chân trời,
thơ ngây như trẻ nhỏ, nhẹ dạ và tin tưởng vào hết thảy. Trở về Một – chỉ Một. Thơ
là Một – Duy nhất – Thứ nhất. Thơ là cái Đạo vô danh Lão – Trang, là
Chân Không của Phật, là Thần-Lý ở Trình – Chu. May thay, đã có Xuân Thu khơi lại
được nguồn cội Đông phương u uẩn, bí hoặc, siêu hình và nguyên ủy. Thơ với Xuân
Thu đại để mang ý nghĩa như thế.
Thơ không đơn thuần là một
bài thơ, tồn tại bằng ngôn ngữ cụ thể. Thanh Tâm Tuyền từng nói, thơ chả cần
ngôn ngữ làm gì, cũng chẳng cần viết ra bằng từ bằng ngữ chi hết. “Làm thơ
không cần viết. Không cần viết nghĩa là không cần tờ giấy, không cần cây bút,
hơn thế không cần cả chữ”[2].
Mà
kì thực ngôn ngữ lại hại thơ, ngôn ngữ là những cái móc khóa trói buộc thơ với
tư duy thường nghiệm – với lý trí. Mà thế thì không về đạo được – vì
không có được “giọt sương mới tinh khôi ban mai”. Thơ hơn thế là một trạng thái
tồn tại, và nó có ở khắp nơi. “Thơ có thể có trong âm nhạc, trong hội họa,
trong kiến trúc, nói rộng ra ở khắp ngành nghệ thuật và cả trong đạo lý, trong
hành động”. Thơ là siêu việt tính của bản thể, là niết bàn nghệ thuật.
Thơ thuộc về “tính chất hàm
súc, tiềm thức thuần túy”[3].
Ở điểm này, chúng ta thấy Xuân Thu lại khá gần với Freud-Jung. Nhưng phải lẽ,
chúng ta nên hiểu việc ám chỉ thơ khởi
đi từ vô thức – tiềm thức, hoặc cứ cho là sâu xa hơn trong vô thức tập thể, thì
đấy
chính là từ bản thể - rễ cội sinh sôi, nơi cái động năng sống nguyên ủy phái
sinh nên toàn bộ hoạt động sống thực tiễn, vượt xa khỏi phạm vi của động cơ
tính dục . Nhà thơ trước khi làm thơ - trước khi là thơ rồi, phải là
người thấu hiểu được vẻ đất – lí trời – tính người, rồi phải quên mình đi, gột
rửa cho tâm trai tịnh, nghĩa là bỏ mình đi – quên mình đi – quên cái thường
tình của mình – trở về hư vô, có thế mới lẩn lút-hòa nhập với thơ được. Đào sâu
vào từng vỉa địa tầng tâm thức, khai thác vô thức, khơi dòng mộng tưởng, đấy là
tìm về bản thể, tìm cho ra cốt khí chân chất nhất trong chính mình. Sống
với thơ là phải sống chân thật – không có dối trá nào ở với thơ được.
Thơ với Xuân Thu là đại lượng siêu hình, là ánh sáng từ bỏ trần gian quay về mặt
trời. “người ta thấy một cái gì siêu thoát, ra ngoài ước lệ, ở trên lí trí, nó
rung động ta theo nhịp điệu vũ trụ, hồn nhiên, nó hóa hợp Ta trong cái đẹp và ấp
ta nằm trong sự thật”[4].
Trong – đẹp – thật có lẽ nên đổi lại là Nguyên – Đẹp – Thật.
Thơ chỉ có thể đến khi trực
giác anh minh, tuệ giác khai mở. Bergson từng đề cập đến cái “đà sống” (élan
vital) bất tận – miễn viễn tồn tại trong thời gian trực cảm, chỉ có thể nhận biết
bằng trực giác. Với Xuân Thu, thơ là vị thần tại ngôi giữa chính điện. Đấy là
những phút thần linh “như có thần trợ”. Thơ là cái lấp đầy những kẻ hở trong tồn tại
ý thức của con người. “Nó chiếm đoạt ta tất nhiên, hoàn toàn, tức khắc”.
Vậy là thơ vốn thuộc về siêu hình, là sự nối dài của bản thể (vũ trụ, tôn giáo,
nghệ thuật). Ta không cưỡng lại được thơ. Chúng ta chẳng khác gì cánh đồng nứt
nẻ trần gian chịu ơn mưa.
Thơ không dung thứ cho sự
bày biện. Thơ là sự trở về bản thể. Bất cứ sự triển khai nào cũng giết chết
thơ. Làm thơ, đúng là thơ, thì từ muôn vạn trở về một. Còn từ một đến trần gian
muôn vàn lại đánh mất thơ. Vì thơ đã “dụng” rồi. Con chữ khi ấy cứ đi xã mãi,
và ngày càng xa cách với bản thể. “Nghĩa xuôi câu thơ, cảnh tả, chuyện thật,
hay tình kể lể trong ấy, cái gì giãi bày, thứ tự, rõ rệt đều không phải cốt
thơ, vì không thuần túy, không vượt trên cách thông dụng vụ lợi của trí não”[5].
Do đấy, thơ là cõi huyền diệu của trí tuệ, nơi mà ý thức và lí trí không còn uy
quyền nữa. Chỉ có tuệ giác khai mở thoát nhiên – như một cơn mặc khải tức khắc
và chắc chắn. “Thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh, biểu hiện
theo những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng để khơi nguồn lưu thông cái run rẩy
huyền diệu của Thơ”[6].
Thơ là cái tuyệt đối, thơ
được đưa đến độ bản thể. Nó chỉ hình dung cái “thuần túy”, và nắm bắt cái thuần
túy trong sự tịch nhiên thư thái, có tất cả khi thơ cứ cho đi, cho nên nó vô tận.
Thơ là sự trở về đạo của tác giả, của độc giả, của nhịp điệu vạn vật. “Thơ chỉ
hình dung cái bản ngã thuần túy, cái bản ngã cuối cùng của thi sĩ hay sự vật.
Thơ chỉ là một sự nhớ lại, một cuộc trở về của thi sĩ trong cái tôi của mình nằm
trong sự vật.” Từ chỗ không có, yên bình tĩnh lặng, từ chỗ bất giác vô minh,
toàn thể ấy đã xao động – rung động. Vậy là đạo ra đi, từ cái xôn xao tỉnh thức
ấy, đạo ra đi, đi mãi. Thế là trần gian bày biện chân trời, dựng xây trục giác,
tạo tác cao thấp – dài rộng – nông sâu, vạn vật thành hình. Đó là ra đi – là tiểu
thuyết, là truyện tính – là truyện. Thơ thành hình do yếu lý ngược lại. Dù trên
cùng một quá trình của đạo, dù vẫn chung gầm trời ấy, nhưng thơ và truyện là
hai trạng thái ngược hướng – kẻ nhân tình phân cực cách vời. Thơ và truyện như
hai kẻ yêu nhau đi đày mãi mãi, như nhật-nguyệt. Trong lúc truyện ra đi, thơ lại
trở về, mãi mãi quay lưng với nhau. Thơ không mang ý trình bày mọi thứ, không
hành động như kẻ dựng xây mà là kẻ hủy diệt, tiêu ma, thu dọn, vun vén mọi thứ,
để cảm giác gây ra và chân trời mang lại là một cái tổng thể. Thơ
là hướng phản tư[7]
về đạo, trở về MỘT.
2. Xuân Thu và người đọc
a. Người đọc và tác giả
Người đọc phải bắt được cái tần số của tác giả để hiểu được
tác phẩm[8]. Nghĩa là, phải có một
“tầm đón” vừa khít hoặc cơ tầng tiền giả đỉnh phù hợp với vũ trụ ý thức của tác
giả. Điều này có thể hiểu như sự đồng điệu tồn tại lâu đời trong tư duy tiếp nhận
Á Đông (Bá Nha-Tử Kỳ). Thêm nữa, người thơ và tình nhân – kẻ yêu thơ – phải
cùng nhau bay vào cõi tuyệt đối. Vậy là ở đây Xuân Thu cho rằng người
đọc tiếp cận với thơ Tuyệt đối phải từ bỏ dứt khoát chính mình đi. “Vậy
người đọc muốn biết cái rung động ấy, cái đầy đủ trác tuyệt do một bài thơ dội
vào tâm hồn, cái thỏa mãn thần bí của sự giao hợp sắp hoàn thành (phút giây
vĩnh viễn), ít ra cũng phải được lên dây cùng cung bậc với cây đàn, với thi sĩ,
với tình nhân. Người đọc cũng phải có chất thơ, có cốt đàn, có nòi tình”. Đó là
con đường từ cái tôi đến “siêu tự ngã”[9]. Người đọc và tác giả
hòa nhau làm một. Đây là điều kiện quan trọng cho việc đến với đạo. Vì thơ trở
về đạo. Muốn về với đạo, người ta cần có niềm tin chắc chắn và vô điều kiện. Ở
điểm này trẻ con gần với đạo hơn Decartes, vì nó còn lưu giữ tốt nhất ký ức về
nguyên thể bào thai ở lòng mẹ trước đó không lâu. Đến với thơ, tác giả trước và
người đọc sau, cùng tan chảy mình ra, biến chuyển hòa quyện mình đến nỗi không
còn phân biệt đâu là người thơ, đâu là tình nhân của hắn nữa. Thơ là bản thể
mênh mang tràn lấn, lấp đầy, không thấy đâu nhưng tất cả là thơ rồi, là chính
thơ rồi, người thơ và tình nhân cũng đã là thơ rồi, là phút giây đạt được “siêu
tự ngã”. Người đọc và tác giả là một phần của thơ, là chính thơ rồi. Người đọc
lý tưởng của Xuân Thu là vậy.
Tiếp theo, “"Thi sĩ" làm xong bài thơ có thể
nói: Bản đẹp chưa thành. Vì nó còn chờ tác giả thứ hai: người đọc. Cảm xúc chuyển
từ người thơ sang độc giả, hòa hợp hai lẽ siêu hình, con sông thơ lộng một trời
mới. Người đọc phải là "thi nhân", tái tạo vũ trụ bài thơ tạo ra”[10]. Nói người đọc là đồng
tác giả, chuyện này không có gì mới. Nhưng với ý tưởng: tái tạo một vũ trụ thơ
mới, đây là điểm đáng chú ý trong quan niệm của Xuân Thu. Nghĩa là người đọc
không tiếp nhận một cách thụ động mà có sự “tái tạo”, gây ra bởi độ chênh lệch
trong cơ tầng tồn tại của tác giả và độc giả hay tình huống “hiện tượng” của độc
giả. Có thể anh đọc Kiều khi say và hận tình, hay đọc Kiều lúc bóng xê ủ ê bể
dâu, chắc hẳn bóng Kiều sẽ khác nhau lắm lắm.
“Lẵng xuân
bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa nhịp hải hà” ( Buồn xưa – Nguyễn Xuân Sanh)
Những vần thơ vừa rồi khiến không ít người tốn hao giấy mực.
Sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng phải chăng cái mà Xuân Thu mang lại là
nhịp điệu xoay chuyển của vũ trụ, giúp chúng ta hình dung được những bước chân
thầm kín và tinh tế của vạn vật, hơn là mô tả vạn vật ấy như thế nào. Chúng ta
cơ hồ cảm nhận được một chút chao nghiêng khẽ khàng của chiếc lá. Ai lại đi
quan tâm xem lá của cây gì !
Vậy mỗi người có quyền có cho mình một vũ trụ. Không chắc
là “nó” như thế nào một cách phổ quát. Chỉ biết rằng nó phổ quát. Ai đem xét
đoán, phân tách nó, tìm hiểu mổ xẻ nó, xem ruột gan nó thế nào, phèo phổi ra
sao, ấy là phản bội thơ rồi, là giết thơ không thương tiếc. Và khi bạn phân
tách nó, bạn đứng đâu ? Bạn đặt nó trên thớt, đứng cao hơn nó, phán đoán về nó,
nắm thóp “đuôi chuột nó”, hay bạn không còn biết mình như thế nào nữa. Vậy những
ai đánh mất những nỗi lao lung bộn bề khi về với thơ, ai đọc xong ngẩng đầu thở
hắt ra bầu không rồi mặc cho ý tưởng bay biến, chỉ còn có nỗi không cùng dàn trải
hiển hiện, hãy giơ tay ! Khi bạn đọc, bạn yên tịch cởi mở chào đón thơ đến với
mình. Tinh anh trở lại với đại thể. Cả người đọc và tác giả không ai thoat khỏi
cái hố đen ấy.
Tiếp ý phần trên, sự tái tạo trong ý nghĩa sai khác với
những ý nghĩa mà tác giả đã tạo ra còn bắt nguồn ở chỗ kết cấu truyền chuyển mà
tác giả cài đặt. Chính bởi cái kết cấu truyền chuyển và phương thức tri nhận
cùng thói quen và quán tính tiếp nhận trong từng trường hợp cụ thể chẳng khi
nào có mối tương giao nhất nhất. Vậy là với những rường cột chính mà tác giả
mang đến, người đọc phát triển cái rung động thần tình của thơ về cõi Siêu hình
theo chiều hướng của chính hắn, mang dấu ấn của hắn. Siêu hình tựu trung dường
như cũng chỉ là ý hướng trong mối quan hệ mang tính chất của thế giới phi vật chất mà người đọc và người
viết đã thiết lập. Đã là một ý hướng, nó không thể từ bỏ nguồn gốc, cũng như chẳng
thể khước từ máu thịt của sinh thể đã tái tạo nó, cho nó cuộc sống và hiển
linh. Trước là tác phẩm sau là Tác giả đã chịu ơn người đọc để tái sinh, nhưng
cái sinh thể được tái tạo ấy sống lại với một kí ức mới bên cạnh miền vô thức
hiển linh có được từ đạo, từ người viết.
Với tác giả, “tự giác nhi giác tha”, Xuân Thu là cái trí
chi hệ của thánh nhân. Người làm thơ đóng kín cửa phòng, nhắm nghiền mắt, nhưng
lại thụ nhận vào cõi lòng mình hết cả trời đất. Cái trước tiên đi vào lòng nhà
thơ là nhịp điệu. Nhịp điệu của trời, của người, của đất, của vạn vật. Đó rồi
hiểu được tạo hóa xoay vần, từ đạo đến Âm-Dương, đến sáng tạo, thấm được nhịp
là có rung động và đã ngã vào thơ mất rồi. Thơ tự nó mặc khải với Tuyệt Đối. Vậy là con đường mà người đọc trải qua, như
một người đọc lý tưởng, cũng khởi đi từ nhịp. Đọc thơ Xuân Thu, đừng gồng
mình cứng gọng lên, phải thả lỏng trí năng, tuệ năng, để cho cõi mênh mang vô định
trong tư tưởng trỗi dậy, vậy là cửa trời mở. Sau nữa, bạn để thơ chảy vào lòng,
từng chữ biến hóa tan vào từng thớ thịt. Người đọc chạm vào thơ đầu tiên, như người
viết đã trải qua, đó là nhịp điệu. Nhịp điệu “hải hà” Tuyệt đối. Ở đây, người
viết như một trạm chuyển (để bắt được điệu khúc của trời đất ắt phải bẩm thụ được
tính trời đất), chuyển cái nhịp tạo hóa vĩnh hằng, vô biên, bất tận, xa cách mà
gần gũi vô cùng đến với mọi nơi, kết nối những ý thể khác. Đấy cũng là lối về của
đạo. Viết là mở ra những ngã đường nguồn
cội. Đọc là siêu thoát. Người làm
thơ, cụ thể hơn, là kẻ mang cái bản thể tuyệt đích của ý hướng san sẻ và đong đầy
trong từng cõi nhân tính. Người đọc là chân trời hiển linh của Đạo, của bản thể
tuyệt đối. Trong mối quan hệ này, người
viết và kẻ đọc chỉ là hai khía cạnh của tồn tại Tuyệt đối, liên can với nhau
trong mối quan hệ ra đi-trở về.
b. Người đọc và văn bản
- thơ
Văn bản và tác phẩm cùng tồn tại song song trên cùng một
vật chất ngôn ngữ. Như con đò và ánh trăng cùng xuôi dòng ! Đấy như hai chặng
đường chiếm lĩnh và dâng hiến cho tuyệt đối. Người đọc bị văn bản chiếm lĩnh,
thuộc về nó, nhưng cái vỏ mầm – văn bản ấy - lập tức bị người đọc bỏ rơi, đến với
tác phẩm[11]. Vậy nói ! Chỉ khi nào
người đọc xuất hiện và lạc vào văn bản thì tác phẩm mới hình thành. Thế thì,
trước khi người đọc đến, tác phẩm ở đâu ! Chắc hẳn không ở “đầu gối” của tác giả.
Văn bản và tác phẩm vốn dĩ không hề tách rời. Bởi người đọc xuất hiện chỉ là kẻ
khơi dòng cho tác phẩm phát tiết. Trước khi người đọc đến, tác phẩm ẩn tàng như
một dạng siêu hình sống nhờ vào cây - cỏ - đất - nước – lửa - trời của văn bản[12]. Nó vẫn ở đấy, bởi nó
là phần nối dài của tác giả - kẻ tạo ra nó. Đó là tiền bản thể !
Người đọc chỉ là nạn nhân của thơ. Người đọc bị kéo tuột
vào hố đen thơ. Trước khi lý trí truy xét
thực trạng gì đang xảy ra lúc chúng ta tiếp xúc thơ thì chúng ta đã quay cuồng
trong quỹ đạo của nó rồi. Như đứng trước giai nhân, chúng ta cứ ngớ ra, như
tất cả đã chân thật và đầy đủ chỉ với một ánh mắt. Người đọc và văn bản đã thuộc
về nhau dù chỉ là khoảng lặng yên vô cùng bao quanh họ. Để rồi sau nữa, người đọc
bàng hoàng tự hỏi, cái gì khiến thơ đẹp, cố công đi cắt nghĩa sự đẹp ấy, và hắn
thất bại. Bởi vì “ta đã chịu sức quyến rũ của mùi thơm, sự lan tràn của ý thích, ta đã cảm
thấy đẹp, đạt được thật, đầm trong thơ, nát bàn nghệ thuật”[13]. Ta không thấy thơ đâu
xa ngoài chính tấm lòng mình. Thơ miên viễn, xa tận chân trời mà gần ngay trước
mắt. Người đọc tắm trong thơ với ngọn lửa xanh vĩnh hằng. Thơ nhờ người đọc mà
hiển linh. Văn bản hóa ra chỉ là một cái
lốp, một cái cớ. Vậy thì ai bám riết văn bản mà tìm thơ e rằng không tìm thấy.
Như ngón tay trỏ về ánh trăng, chỉ khi nào rời được ngón tay ấy, kẻ phàm nhân mới
đến được Bến Trăng. Như con đò rước khách sang sông cập nẻo đạo, chúng ta cũng
không thể phủ nhận vai trò dung chứa Tuyệt đối của văn bản và có được mối liên
hệ máu huyết, nhưng người đọc phải rũ bỏ cho được vỏ mầm văn bản mới thật sự đến
với siêu linh niết bàn. Có thế, ý thể trong hắn mới sinh sôi toàn vẹn. Khi văn
bản-thơ và người đọc hợp nhất, ý thể trở thành siêu ý thể. Ví ý thể đã tác động
và làm biến đổi “tầm đón đợi 1” của người đọc A1; người đọc A1 trở thành người
đọc A2 với “tầm đón đợi 2”. Cứ thế, ý hướng mà tác giả đã gieo mầm không ngừng
phóng thẳng vào tồn tại thông qua các “hữu thể của chủ thể đương khi tồn lưu”[14].
Người ta quay cuồng trong quỹ đạo văn bản à thơ. Vậy cánh tay nào đẩy hắn té xuống vực. Đó là giây
phút cửa trời khai mở. Trực giác đẩy người đọc đến với thơ tức khắc và nhận được
TRONG - ĐẸP - THẬT cùng hòa vào nhạc. “Ngoài cái nghĩa xuôi câu ấy, và trước
khi nghĩ đến nó, ta đã được cảm một cái đẹp trong trẻo gợi nên bởi âm thanh,
cách điệu….nó mê hoặc ta ngay và đặt ta vào giữa cõi thơ như có thần trợ”. Xuân
Thu không đề cao, không xem trọng, thậm chí phớt lờ “cái nghĩa xuôi câu”. Bởi
vì nó phá hoại phút giây thần trợ tuyệt đối của kẻ lạc lối lỡ đường dấn bước đến
chốn thơ. Đặt nặng các vấn đề lý trí, thơ dần mất “tính lý”[15]. Trong mối quan hệ này, người đọc trước tiên là kẻ bị nắm bắt. Nhưng
trong cõi tuyệt đối của văn bản-thơ, người đọc không ngừng xoay trở. Cứ bước
thêm một bước, hắn để lại dấu chân trên cát và mùi áo quần trong không khí. Cho
đến khi hắn thật sự không còn ký ức trần gian nữa.
Như đã nói, người đọc
không thể giải nghĩa, không thể biết gì về thơ, chỉ có thể cảm nó, chờ nó thấu
suốt. Là tại thân cho cái siêu việt tính của ý tính lan tỏa từ
ngoại thể thấm nhuần vào lòng. Đứng trước văn bản- thơ, người đọc chỉ nên là
anh nhân tình cường tráng hơn là bậc thông thái già nua thận trọng. Người đọc
càng thận trọng càng lạc bước. Các nàng thơ xa lánh người đọc liền trong tức khắc.
Thơ bắt được mùi vụ lợi từ kẻ đang tiếp cận nó; và như Xuân Thu, vụ ích lợi giết chết các nàng thơ. Do đấy,
người đọc lúc đó phải tẩy trai nhuần nhị trước khi đến với thơ. Người đọc khi ấy
vô tư, hồn nhiên, hoàn toàn cởi mở và nhẹ dạ. Chỉ thế, tuệ giác mới được khai mở,
mới hòa vào tổng thể, vào một, vào thơ. Thơ và người hòa nhập vào nhau, lẩn lút
trong nhau, tan biến vào nhau, chỉ còn một mà thôi. Khi đó, cuộc du hành đến vô
cùng mới toàn vẹn. Rõ ràng, nếu chúng ta không tan chảy vào đại thể - toàn thể
thì chúng ta ( người đọc) chỉ là cái hạn định nỉ non mãi mãi ngồi vò vẽ ở đáy
khe. Thật là đáng thương thay ! Chung quy, người đọc phải đi từ “thần” đến
“thành”, nhưng lại phải từ “dụng” về “thể”.
Lại nói về cái bất lợi của
người đọc khi tiếp xúc với văn bản thơ, theo Xuân Thu, là do ngôn ngữ. Tại vì trong bản chất,
ngôn ngữ đã mang tính vụ lợi, đã là sự triển khai, khai triển các mầm chồi ý thức
trên mảnh đất liên tưởng và suy tưởng. Thế nên, người đọc cần tiến hành hóa hợp
ngôn ngữ, khiến cho việc sử dụng ngôn ngữ trở nên hợp nhất. Những ý tưởng cô kết
lại trong ngôn ngữ duy nhất. Khi đó, việc tiếp nhận văn bản thơ, là sự tổng
hòa, ồ vào lòng văn bản. Ngược lại văn bản đến với chúng ta một cách toàn vẹn,
không lí giải. Ấy là “lý” nguyên hợp, là tác phẩm như một tiên đề không chứng
minh. Người đọc không nên tiếp nhận những dữ liệu của thơ. Từng bộ phận của
giai nhân không làm nên cái đẹp, chỉ có giai nhân như chính giai nhân mới đẹp
thôi. Người đọc tiếp nhận cái chỉnh thể chuyển động chứ không tiếp nhận cái bộ
phận, dù là bộ phận trong hệ thống.
Bàn thêm:
Điểm trắng ở độc giả.
Chúng ta biết về lập luận của W. Iser về thực trạng văn bản
chứa đầy điểm trắng. Tại sao lại có sự xuất hiện của điểm trắng ? Rất có thể
tác giả không nói hết toàn bộ ý tưởng của mình khi trình bày – tạo tác văn bản.
Điều này gần như là một xu hướng của những ngòi bút hiện đại. Tác giả để cho độc
giả viết thay mình, viết tiếp, hay viết cho đầy đủ diện mạo cần có cho việc hiểu
văn bản. Đợi đã, những điểm trắng còn có thể là những điểm không xác định. Nó nằm
ngoài tập xác định của độc giả. Vậy là nó vượt ra ngoài tầm đón đợi, ra ngoài
nhu cầu của độc giả. Hay nói khác đi, các điểm trắng xuất hiện do sự chênh lệnh
giữa kênh truyền chuyển và kênh tiếp nhận trong quá trình lưu thông và tồn tại
của văn bản – phải chăng chính khoảng cách thẫm mỹ làm xuất hiện những điểm mờ,
điểm trắng yêu cầu hoặc kích thích độc giả đáp ứng.
Tuy nhiên, dù lí do gì đi chăng nữa. Tác giả để độc gia
chung tay viết nên tác phẩm hay do độ chênh lệch về kênh truyền chuyển và tiếp
nhận thì những điểm trắng phải đồng thời xuất hiện từ cả hai phía. Vì độc giả
cũng phải có những điểm trắng để khi đọc văn bản và lấp đầy nó, chính anh ta
cũng lấp đầy mình. Chính điểm trắng ấy thúc đẩy anh ta hình thành nên nhu cầu
tiếp nhận. Khi đồng sáng tác với tác giả, anh ta chỉ viết những gì anh ta muốn.
Vậy là tác giả tạo điều kiện cho độc giả viết tiếp, hay nói khác đi tạo điều kiện
cho độc giả lấp đầy những khoảng mờ, khoảng trắng hoặc hoàn toàn mới mẻ trong
chính bản thân người đọc. Rõ ràng ở độc giả có những điểm trắng. Vì có thế, khi
anh ta đọc, được lấp đầy chính mình, anh ta cảm thấy thỏa mãn, hoặc giả có phản
cảm, thì chính cái tầm đón của anh ta đã thay đổi. Nghĩa là có cái gì đó vừa trở
nên rõ hơn, vừa lộ ra, vừa mới được đổ đầy vào. Anh ta – người đọc – đã bị biến
đổi. Một phần bản thân anh ta vừa mới xuất hiện, vừa mới tạo thành, vừa mới hiển
hiện ra. Những khoảng đất chưa xuất hiện trong thế giới tinh thần của độc giả
nhờ có cuộc tiếp xúc với văn bản đã được xác định trên bản đồ. Giữa người đọc
và văn bản – thơ, rõ ràng là sự trao đổi hai chiều tích cực. Người đọc được văn
bản xúi giục lấn bước đến những vùng đất bỏ hoang hoặc chưa có chủ quyền mà anh
ta không ngờ tới. Ngược lại người đọc lấp đầy cho văn bản, nối dài thêm sự sáng
tạo ở tác giả. Trong lúc đó, người đọc cũng đồng thời lấp đầy chính mình, trao
dồi thêm chính mình, điền vào những chỗ còn trống trong chính mình. Và năng lượng
cho hoạt động đó từ văn bản mà có, từ văn bản kích ứng mà thành. Trong người đọc,
do đó, cũng tồn tại những điểm trắng đợi. Tuy nhiên, phải nói rằng, đọc giúp
cho việc lấp đầy các khoảng trống trong tồn tại ý thức của người đọc nhưng song
song đó, cũng chính hành động đọc tạo ra điểm trắng mới mà độc giả phải sắp xếp
lại và hình thành nhu cầu đọc tiếp theo.
Đối với những điểm trắng hình thành do sự chênh lệch giữa
truyền chuyển và tiếp nhận, chúng ta có thể dễ dàng chứng minh sự tồn tại của
những điểm trắng ở người đọc. Với những nét đặc trưng ở văn bản nằm ngoài tập
xác địch của độc giả, để tiếp nhận, độc giả cần thiết tạo dựng cho mình những
nguồn thông tin khác nhằm lấp đầy những
điểm trắng ở văn bản. Chính ở chỗ tìm cách lấp đầy văn bản bằng khả năng liên
văn bản, chúng ta nhận thấy ở người đọc có những điểm trắng chờ đợi lấp đầy mà
văn bản không thể đáp ứng hết, do đó, người đọc tìm đến những văn bản khác cùng
trong mối liên hệ với văn bản đang trực tiếp tiếp nhận. Trong quá trình tiệm cận
hoàn thành văn bản, chúng ta cũng nhận thấy ở người đọc có nhu cầu tiếp nhận. Vậy
là anh ta tìm cách thỏa mãn những nhu cầu đó, tìm cách lấp đầy những khoảng trắng
đặt ra. Thế thì trước khi tiếp nhận, người đọc có nhu cầu tiếp nhận cái gì đó.
Vậy là đã có những mảnh giấy trắng chờ đợi được viết lên. Trong khi nói về khái
niệm Katharsis (Thanh lọc), Jauss có trình bày năm mô thức quan hệ giữa người đọc
và văn bản: liên tưởng, ngưỡng mộ, thanh lọc, đồng tình, phản cảm. Chúng ta chú
ý ở mối liên hệ liên tưởng. Sự chênh lệch ở kênh truyền chuyển và tiếp nhận,
hay khoảng cách thẫm mỹ, làm nảy nở ở độc giả những trường liên tưởng. Vậy là sẽ
có những thông tin vượt ra ngoài văn bản trong mối liên hệ với vản bản ấy. Thế
thì phạm vi tiếp nhận được mở rộng ra nhiều hơn ( có khi là vô tận – sẽ là cả
tràng giang đại hải nghĩa...). Thậm chí độc giả cũng không ngờ được những khoảng
trắng trong lòng mình. Độc giả, có lẽ ít ai, chú ý để điểm trắng của chính
mình. Và chúng, những điểm trắng ấy, vô tình được lấp đầy trong quá trình đọc
văn bản. Chung quy, ở văn bản có vô vàn khung trời trống trải cho độc giả thỏa
thê sống với nó. Còn ở độc giả, văn bản bù đắp cho những gì còn trống, còn thiếu,
hoặc chưa ngờ. Ở độc giả vẫn có những điểm trắng chờ đợi hoàn thành. Sau khi đọc, cả
văn bản và người đọc đều trở thành tác phẩm.
Người đọc thơ Xuân Thu
(Phần này vì chưa có nhiều thời gian và điều kiện nên chúng tôi chưa giải quyết
vấn đề một cách triệt để; chỉ xin nêu ra vấn đề và rất mong quý vị hướng dẫn
nhiều hơn).
Với quan niệm thơ như đã trình bày, chúng tôi có điều kiện
trình bày những nét nổi bật tạo nên kênh truyền chuyển cho văn bản – thơ Xuân
Thu. Người đọc thơ Xuân Thu sẽ gặp phải điều gì trên con đường đến với Toàn Thể
trong thơ. Và những khó khăn ấy tác động và quy định thế nào đến sự tiếp nhận
thơ Xuân Thu.
Rào cản ngôn ngữ
Có lẽ ngôn ngữ là cái tuyệt đại cấm kỵ cho kẻ truyền giáo
Xuân Thu. Ngôn ngữ nặng nề như đất đá, bó buộc như xiềng xích. Như cuộc đời và
tôi không dám chia tay nhưng cuộc đời tha hóa mất tôi, không cho tôi về gốc gác
muôn đời. Các thao tác tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ. Và cơ bản, việc tư
duy là một hình thức triển khai các khía cạnh tinh thần. Trong quá trình đó,
các ý nghĩ (ý thức hoặc phi ý thức) hầu như bị phân tán, và điều này không có lợi
cho tuyệt đối, đi ngược lại quá trình trở về tuyệt đối – toàn thể. Chính ở điểm
này Jung đã phát hiện sự yếu đuối, kém phát triển trong trĩ não người ( dù là
người “văn minh” hiện đại). “Không còn phải nghi ngờ gì nữa, trong cái mà ta gọi
là trình độ văn hóa cao thực ra, tâm trí con người cũng chưa đạt được một trình
độ liên tục mỹ mãn. Tâm thần con người vẫn còn bị tổn thương và dễ bị phân đoạn”[16]. Tình trạng này là phổ
biến. Vậy nên khi ta càng lạm dụng ngôn ngữ cho các thao tác tư duy, suy nghĩ của
chúng ta càng trở nên gãy vỡ, rời rạc, rồi chúng ta muốn hàn gắn nó bằng cách
dùng ngôn ngữ (chúng ta chỉ có bấy nhiêu), thì việc đó càng làm cho tư duy đổ vỡ
nhiều hơn. Nhưng nếu mỗi “âm” vang ra từ một âm tiết (trong tiếng Việt chẳng hạn)
đóng vai trò như một nốt nhạc thì sao. Trong tự nhiên có lửa, nước và âm thanh
hay nói khác đi là âm nhạc (mang ý nghĩa là sản phẩm do con người tạo ra),
không một thứ gì khác gần với “đạo” hơn chúng. Ở con người, chúng ta có âm nhạc
– là hiện thân của tuyệt đối. Đó cũng là cách mà Xuân Thu sử dụng để tạo nên
thơ. Thơ cần có ngôn ngữ nên càng xa nẻo đạo. Nay thơ hòa với nhạc, thở trở về
tuyệt đối. Thơ là điệu nhạc muôn đời là ở chỗ đó. Đọc thơ Xuân Thu, phải chăng
chúng ta nên xác nhận từng âm tiết như mỗi nốt nhạc gảy lên từ chính lòng mình[17]. Và âm nhạc không nói
như một nhà lập thuyết, nhạc khơi gợi, thế thôi !
Từ khi sinh ra trên cõi đời, mọi thứ vây lấy tôi – chúng
ta. Trong đó, tôi vẫn không thể nào hòa nhập được mình vào vạn vật. Một trong
những dấu hiệu cho thấy sự cách biệt giữa tôi và vạn vật chính là ngôn ngữ. Với
Xuân Thu, ngôn ngữ vừa là như chiếc thuyền chở lấy đạo những cũng là cái bó buộc
đạo; không rời thuyền sao ta đến được bờ. Đọc thơ Xuân Thu, người đọc nhất thiết
nên chú ý lấy điểm này. Đạt đến chỗ vĩnh viễn – muôn đời trong cái ý cao diệu
Xuân Thu đặt ra, hẳn phải bỏ ngôn ngữ. Đó vừa là ngôn ngữ hữu hình vừa là ngôn
ngữ vô hình làm phương tiện cho tư duy. Vậy nên đọc Xuân Thu , để cho “phương
trình tiếp nhận” tiệm cận hay khoảng cách thẫm mỹ là nhỏ nhất thì chúng ta nên
là trẻ con hoặc “thánh nhân”. Điều này có phần giống với quan niệm về người đọc
tiềm ẩn. Trong ý thức Xuân Thu khi viết, không nhất thiết hướng đến và phục vụ
duy nhất cho một kiểu độc giả nào. Nhưng với chân trời sự kiện như thế, tự nó sẽ
lựa chọn độc giả với tầm đón nhất định, tư thế nhất định, tình huống nhất định.
Rào cản tri giác
Hãy niêm phong mọi đường tri giác, giết chết những quang
năng tinh nhạy và tỉnh táo, mở cửa trực giác, từ nội tại mở ra một thế giới rộng
rãi không bờ bến, khi đó, có thể tức khắc hòa nhập vào dòng chảy của điệu. Đó
là cái trước nhất quan trọng cho việc tiếp nhận thơ Xuân Thu. Sự tỉnh tảo và nhạy
bén của tri giác, tiếp thu những ấn tượng quan năng, tiếp thu những chuyển động
ở bề mặt phẳng của thế giới thực nghiệm sẽ gây hấn với cuộc ào thoát của trực
giác. Bám riết vào từng bộ phận truy hồi được từ ngôn từ sẽ khiến cho các thế lực
siêu hình “bay về trời”.
Rào cản ý thức
Phân tâm học xác định thi ca được sản sinh từ địa hạt phi
ý thức. Chúng ta vẫn đang sống hàng ngày. Cuộc sống tác động vào mọi thứ, không
ngoại trừ con người. Chính điều đó có thể nói khác đi là tương tác giữa các “đối
tượng chủ thể”[18] và đã tạo nên mối liên
hệ. Với con người, không một tác động nào không ghi dấu ấn vào tinh thần chúng
ta, mà phần lớn đã lưu trữ trong địa hạt phi ý thức mà chúng ta không hay biết.
Để rồi trở lại một ngày nào đó, giữa cơn mộng du ban ngày, thi nhân trở về với
đạo. Xuân Thu cảm nhận về thế giới, nghĩa là có biết về cái tuyệt đối như thế,
nhưng chính họ, có lẽ, chưa khi nào bàn luận xem tuyệt đối như thế nào ?[19]. Họ chỉ trầm ngâm cho tuệ giác khai mở, cho địa
hạt phi ý thức trở lại cuộc đời, hiển linh và thể hiện quyền uy của nó. Các “biểu
tượng” (bên cạnh còn có nhiều yếu tố khác, đây chỉ là một ví dụ điển hình)
không chung tiếng nói với hoạt động ý thức của chúng ta. Đọc Xuân Thu nếu quá
sa đà vão lãnh địa ý thức, lại tỉnh táo và lý trí thì không thể nào tìm được
Xuân Thu; dù điệu nhạc Xuân Thu quanh quất đâu đây, là tổng thể nhưng cũng là từng
chi li nhỏ bé trong mỗi con người.
KẾT LUẬN
Với chuyên đề này, học viên được tiếp cận những vấn đề vừa
cơ bản vừa thiết thực, và cần thiết cho công việc nghiên cứu khoa học sau này.
Tuy nhiên, vì điều kiện thời gian không cho phép, bài viết hẳn sẽ còn rất nhiều
vấn đề lập luận chưa vững chắc. Nói một cách thành thật, những vấn đề đặt ra
trong bài viết chỉ mới vừa “nảy nở”, còn là những ý tưởng ban đầu chưa được triển
khiên một cách khoa học.
Tạm kết bài viết, chúng tôi xin để lại việc này cho người đọc. Những người đọc Xuân Thu, cũng như những người đọc bài viết này sẽ tự có cho mình luận kết phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Giáng (2006),
Martin Heidegger & Tư tưởng hiện đại, NXB Văn học, Hà Nội
2. Immanuel Kant (2007),
Phê phán năng lực phán đoán, NXB Tri thức, Hà Nội
3. Nhiều tác giả (2004),
Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
4. http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
5.http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2087:chng-t-thanh-tam-tuyn-1&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106
[1]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[2]http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2087:chng-t-thanh-tam-tuyn-1&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106
[3]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[4]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[5]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[6]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[7] Theo I. Kant, năng lực phán
đoán nói chung đi từ cái phổ biến đến cái đặc thù. “Ngược lại nếu [chỉ] cái đặc
thù đã được mang lại và còn phải đi tìm cái phổ biến cho nó, thì bấy giờ, năng
lực phán đoán sẽ đơn thuần [có chức năng] phản tư (reflektierend).....Làm thơ,
trở về thơ ở Xuân Thu chính là con đường này. Mà trong đó, cái “phản tư trước
tiên là trở lại mình, chính cái tôi của mình. Vì “tự giác nhi giác tha”. (Xem
Immanuel Kant (2007), Phê phán năng lực phán đoán, NXB Tri thức, Hà Nội, tr.
23.
[8] Liệu việc này có cần thiết
không, liệu người đọc không bắt được nhịp với tác giả có gây hại gì không, có
thể hiểu đúng tác phẩm không ? Đây lại là một vấn đề khác, rắc rối hơn!
[9] Không phải là cái lý tưởng, hay
cái superego ở S. Freud. Siêu tự ngã có thể hiểu như thánh nhân, khi đã đạt được
đạo, khép cửa ru rú tỏng phòng thôi mà nhìn thấy và thấu hiểu được khắp thiên hạ.
Đó là khi đạt được cái ta phổ biến, bắt được nhịp trời đất...
[10]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[11] Tác phẩm ở đây không phải là một
sự vật cụ thể, hơn thế, nó là một đại lượng siêu hình. Tác phẩm hình thành sau
khi người đọc tiếp xúc với văn bản. Và vì thế văn bản và tác phẩm không hề đồng
nhất với nhau.
[12] Xem Gaston Bachelard La
psychanalyse du feu (The Psychoanalysis of Fire, 1938), L'eau et
les rêves (Water and Dreams, 1942), La terre et les rêveries de la
volonté (Earth and Reveries of Will, 1948).
[13]
http://ngominh.vnweblogs.com/print/2246/51201
[14] Bùi Giáng (2006), Martin
Heidegger & Tư tưởng hiện đại, NXB Văn học, Hà Nội.
[15] Thể tính của hình nhi thượng
[16] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm
học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.113.
[17] Điều này không giống với “tính
văn học” R. Jakobson. Vì ông chỉ quan tâm đến việc thiết kế dòng âm của câu thơ
thuần túy về mặt hình thức. Nhạc ở Xuân Thu
không chỉ có ở câu chữ, âm tiết nữa,mà là thứ nhạc thầm tan chảy vào khắp
chiều không – thời gian.
[18] Trong trạng thái chuyển động
miên viễn của thế giới tồn tại thật, một ý hướng phát ra hẳn phải có điểm xuất
phát và điểm đến, hay chủ thế và đối tượng. Nhưng cả chủ thể và đối tượng đều
mang tính tương đối. Bạn có thể là đối tượng cho một cô nàng nào đó nhưng cùng
lúc có thế chú ý đến một cô gái khác. “Đối tượng chủ thể” dùng với mục đích thể
hiện sự tương đối của xác hữu thể trong tư thế tồn hoạt. Hoặc chúng ta có thể sử
dụng “chất điểm” để thay thế.
[19] Điều này có vẻ là không thể. Đạo
mà có thể giảng đến ngọn ngành không còn là đạo nữa. Vì từ những chút tế vi bé
mọn đến thái sơn trời đất cũng là đạo hết thảy, chúng ta là một phần của cõi
không - thời gian ấy, có đứng ngoài, đứng ra khỏi, dứt mình khỏi đạo được bao
giờ, làm sao có tham vọng cắt nghĩa được đạo. Tiếc thương cho con người bé nhỏ,
yếu nhược,chỉ được cái ngông cuồng. Đó lại là điểm mạnh và đáng quý của chúng
ta – loài người.
Comments
Post a Comment