TỪ
CƠ CHẾ TÂM THẦN BỘ TRONG QUAN NIỆM CỦA FREUD ĐẾN “NGÀY QUA BÓNG TỐI” CỦA NGUYỄN
THỊ HOÀNG[1]
[Võ Quốc Việt - NVTBH, 2019]
1. Quan
niệm của S. Freud về cơ chế tâm thần bộ
Khởi
đi từ tâm lý học nhưng những nghiên cứu của S. Freud đã gây ra một ảnh hưởng
sâu rộng trên nhiều ngành khoa học khác nhau. Đặc biệt là ở lĩnh vực nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn. Có thể nói đó là cái nhìn mới mẻ hay thậm chí là một
cuộc cách mạng trong việc nghiên cứu hoạt động của thế giới tinh thần ở loài
người. Không những thế, phân tâm học mà người đặt nền tảng là S. Freud đã khơi
mở ra những nghiên cứu tiếp theo về não bộ cũng như cơ chế tâm thần của y học
hiện đại.
Khởi
đi từ việc xác lập cơ cấu của tâm trí người, Freud đã giải thích và đi vào ứng
dụng cho việc điều trị các bệnh lý về tinh thần. Mà ở thời đại đương thời, cách
điều trị của ông không ít lần đã gây ra tranh cãi. Nhưng Freud đã là một trong
những người đầu tiên và dấn thân triệt để vào tầng bậc sâu kín của hoạt động
tâm thức và do đó, mở ra những biện pháp khả dĩ trong việc nắm bắt hành vi con
người. Dựa trên nền tảng lý thuyết và phương pháp đó, khoa nghiên cứu văn học
đã có thêm một góc nhìn soi chiếu đối với hành động của nhân vật trong địa hạt
tác phẩm.
Bài
viết này bắt đầu từ những ý hướng như thế trong việc ứng dụng góc nhìn về tâm
thần bộ của Freud để soi chiếu vòa tác phẩm cụ thể.
Bằng
việc thừa nhận vô thức như là một phần không thể tách rời, thậm chí cực kỳ quan
trọng trong việc soi chiếu hành vi người, Freud buộc giới nghiên cứu phải nhìn
nhận lại nghiêm túc cơ cấu tổ chức của tâm trí người. Chỉ từ việc xác định cơ cấu
tổ chức của nó, mới có thể đánh giá quá trình hoạt động và tương tác qua lại giữa
các miền tâm thức (bộ phận tâm thức) từ đó, tìm ra các căn nguyên và những vướng
mắc của đời sống tinh thần. “Việc phân chia thế giới tâm trí thành thế giới tâm
trí ý thức và vô thức chính là tiền đề căn bản của phân tâm học, không có sự
phân chia này phân tâm học hẳn không có khả năng hiểu được các tiến trình bệnh
lí, thường hay gặp và thường nghiêm trọng, của đời sống tâm trí, đồng thời cũng
không thể đưa chúng vào khuôn khổ của khoa học”[2]. Freud còn nhấn mạnh thêm
rằng ý thức chỉ là một bộ phận, thậm chí là một bộ phận ít ỏi mang nhiều tính
chất giả ngụy của đời sống tâm trí. Và cái cần đào sâu tìm hiểu chính là vô thức
và tiềm thức. Cuộc sống thường ngày là một quá trình tương tác qua lại giữa vô
thức và ý thức. Và chính ở quá trình đó, hành vi của con người tác thành và thể
hiện ra ở bề nổi của sinh hoạt thường ngày. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với
việc phân tích hành động và tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học.
Tất
nhiên, việc phân chia này chỉ nhằm mục đích định hình các bộ phận của tâm thức.
Kì thực, các bộ phận ấy không tách rời nhau. Thậm chí trong sinh hoạt thường
ngày khó có thể truy nguyên hành vi được khởi đi từ địa hạt nào. Vì rằng, giữa
các bộ phận đó, dường như chỉ là các trắc diện khác nhau của cùng một sinh hoạt
tinh thần. Do đó, việc phân chia hầu như là chuyện “vạn bất đắc dĩ”. “Freud cho
rằng, trong tâm thần bộ, có 3 topiques hoạt động và chi phối nhau đối với từng
trạng thái tâm sinh lý của con người. Ba topiques đó là: cái siêu ngã (le
surmoi) mà trung tâm của nó là tiềm thức (subconscience) được xem là bộ phận có
tổ chức đặc biệt, cái tôi (le moi) mà trung tâm của nó là ý thức (conscience)
và cái đó (le ça) mà trung tâm của nó là vô thức (inconscience).”[3]. Để làm rõ vấn đề, bài viết
này đành phân chia thành các tiểu mục để phân tích từng khái niệm. Tuy nhiên,
các vấn đề về ý thức, vô thức, tiềm thức không hề tách rời nhau mà các phương
diện đó của đời sống tinh thần luôn gắn bó chặt chẽ và có sự hoán chuyển, tiếp
nối à tương hỗ với nhau hết sức mật thiết.
1.1.
Cái Tôi và ý thức
Đây
là bề nổi của hoạt động tâm thức. Cơ bản có thể dùng ngũ quan để tri nhận. Biểu
hiện của nó là các hành vi. Và ở các hành vi này dường như đều xuất phát từ một
nguồn cơn hết sức rõ ràng. Nhưng trong các phân tích của Freud, chúng ta nhận
thấy rằng, cái tôi hay ý thức dường như chỉ là cái mặt nạ, một dạng “hư ngụy”
nhằm che đậy các nguồn cơn cớ sự thầm kín hơn. Cái tôi dường như đóng vai trò
“phát ngôn viên” cho hoạt động tinh thần.“Chúng tôi hiểu các quá trình tâm trí
của một người như là một tổ chúc gắn bó chặt chẽ và chúng tôi nói rằng chính
cái tổ chức gắn kết đó tạo nên cái Tôi của người đó. Đúng như chúng tôi nghĩ,
chính với cái Tôi này mà ý thức gắn kết, chính cái Tôi kiểm tra và giám sát việc
tham gia vào năng lực vận động, tức là thể hiện các kích thích ra bên ngoài”[4]. Trong ý kiến này, chúng
tôi đặc biệt chú ý đến khía cạnh cái tôi gắn liền với các biểu hiện bên ngoài của
hành vi. Có vẻ như dựa vào các hành vi bên ngoài chúng ta có thể đánh giá và
truy tìm chân diện của cái tôi. Tuy nhiên, cái tôi chỉ là kẻ giám sát và kiểm
tra. Bản thân nó không phải là căn nguyên. Nó tham gia và việc biểu thị từ căn
nguyên bên trong tới các biểu hiện bên ngoài. Nghĩa là nó không phải là cái biểu
hiện bên ngoài cũng như nó không phải là cái nguyên ủy bên trong. Do đó, ở đây,
chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: việc tìm hiểu về cái có lẽ chỉ nên đóng vai trò
như một “màn khúc xa” trong quá trình truy về nguyên ủy của hành vi. Thậm chí,
việc tin tưởng vào cái tôi, và việc truy tìm cái tôi cũng không thực sự có ý
nghĩa cần thiết. Cái tôi nên là cái cần nắm bắt nhưng không nên là cái mục tiêu
để nắm bắt.
Trong
tập bài giảng về Phân tâm học và văn học, PGS.TS. Hồ Thế Hà có lẽ đã có cách lí
vấn đề cái tôi một cách hết sức mạch lạc và dễ hiểu. “Cái tôi (le moi) bộ phận
có tổ chức của nhân cách, là người hòa giải cái đó và cái siêu tôi. Cái tôi tìm
kiếm những giải pháp thỏa hiệp để dẹp yên xung đột giữa cái đó và cái siêu tôi.
Có thể nói, cái tôi là năng lực “biết thế và biết thời” để hành xử cho đẹp đẽ”[5]. Nếu như Apolo đại diện
cho cái đẹp mực thước là cái siêu tôi ngự vì muôn cõi và cái lí tưởng thường hằng
được mọi người cầu chuộng; còn Dionysus là đại diện cho cái đẹp ngã ngớn, phóng
dục, phàm trần thì Zeus chính là cái tôi điều hòa giữa cái trần trụi và cái
siêu vượt giữa cá tầm thường và cái cao cả giữa thú tính và nhân tính. Tất
nhiên, việc phân chia này cũng như việc liên hệ với các vị thần Hy Lạp không nhằm
mục đích gán ghép thiện ác tốt xấu cho các khái niệm cái tôi hay cái đó, mục
đích của việc này chính là nhằm cho thấy sự cân bằng của đời sống tâm thức cần
có sự điều phối và tham dự của cá ba bộ phận trên. Bởi rằng, nếu như chỉ có cái
đó, tâm thức sẽ bị quy giản thành một thức tập quán bầy đàn, dần dà thui chột;
nếu chỉ có cái siêu tôi, nhân loại thành ra một thứ hô hào và đánh mất tự ngã
mà chỉ còn siêu ngã, nghĩa là một khái niệm tính người chung quy phổ quát; và nếu
không có cái tôi, đó là họa loạn của tinh thần, nguồn cơn của các bệnh lý thần
kinh.
Để nói thêm về mối quan hệ giữa ý thức và vô
thức, Freud có đưa ra khái niệm tiềm thức như một khía cạnh động học của cơ chế
vận hành tinh thần. “Như vậy, chúng tôi nói rằng các yếu tố tâm trí ẩn tàng, tức
là mang tính vô thức theo nghĩa mô tả chứ không theo nghĩa động học, là những yếu
tố tiền ý thức, và chúng tôi dành thuật ngữ vô thức để chỉ những yếu tố tâm trí
bị dồn nén, nghĩa là vô thực về mặt động học”[6]. Nghĩa là sự quảng diễn của
cái tôi như là các hành vi kì thực là một quá trình đi từ các “hạt nhân” của vô
thức đến ý thức. Và trên con đường đó, xét về mặt động học thì những dồn nén sẽ
trào thoát khỏi miền vô thức để hiện ra ở bề nổi của đời sống tinh thần. Cơ chế
dồn nén – hoán vị (kháng cự), do đó, gắn liền với khái niệm tiền ý thức.
1.2.
Cái Nó và vô thức
Có
lẽ đóng góp lớn nhất của Freud chính là việc nhìn nhận vai trò của vô thức đối với
việc nghiên cứu đời sống tinh thần. Chính ở chỗ mọi người không chú tâm vì cho
rằng vô thức không phải là yếu tố đáng để bàn đến thì ở đó, Freud đã nhìn thấy
cơ chế vận hành của tâm trí người. Khởi đi từ việc nhìn thấy vai trò của vô thức,
Freud đã bắt tay nghiên cứu con bệnh để phân tích kĩ càng hơn vai trò vô thức
và sự hoạt lưu ảnh hưởng của nó đến tinh thần người.
Do
đó, “điều này làm lý thuyết này trở nên không thể bác bỏ, đó là nó đã tìm thấy
trong kỹ thuật phân tích tâm lí một phương cách có thể cho phép thắng được cái
sức mạnh đối kháng ấy và đưa các biểu tượng vô thức về miền ý thức. Chúng tôi
đã đặt tên cho trạng thái mà các biểu tượng nằm trong đó, trước khi chúng được
đưa về miền ý thức, là sự dồn nén, còn đối với sức mạnh tạo ra và duy trì sự dồn
nén đó, chúng tôi nói rằng trong quá trình phân tích tâm lí, chúng tôi cảm nhận
nó như một sự kháng cự. / Như vậy, khái niệm vô thức của chúng tôi được suy ra
từ lí thuyết về sự dồn nén”[7]. Việc này có thể hình dung
như việc chúng ta nhồi bột. Bằng sự áp chế của các quy phạm xã hội và những
ràng buocj câu thúc khác của đời sống, hành vi của chúng ta bị hạn chế. Điều
này cũng giống như ta dùng ta nhận bột xuống đáy. Và khi việc làm này khiến cho
bột bị dồn tụ đủ nhiều để phần bột dưới đáy bị trào lên trên. Cơ chế dồn nén –
hoán vị chính là kết quả của quá trình tương tác với thực tế đời sống mà hành
vi của con người bị ước định và gò ép. Và do đó, sự chất chứa càng lâu, càng
sâu, càng khắc nghiệt thì sự trào thoát của các “nguyên tử” vô thức càng có sức
công phá mãnh liệt hơn.
Điều
này giúp chúng ta có thể đào sâu lí giải các nguyên nhân dẫn đến hành động con
người. Người ta vẫn có đôi khi hành động thể như có “ma đưa lối, quỷ dẫn đường”.
Người năm xưa một ngày lãng du qua phố cũ bỗng dưng nhận ra con đường ngày xưa
vẫn hẹn hò. Dường như có một thế lực nào đó đã xui khiến ta hành động. Và điều
này vượt ngoài vòng kiểm soát của ý thức. Chính ở đây, Freud đã cho thấy sự yếu
đuối quá mức của ý thức trước “cái kho” dồn nén và phản lực của những kháng cự
kiềm chế mãnh liệt. Sự kháng cự càng mạnh thì phản lực của sự hoán vị càng mạnh.
Và khi các biểu tượng vô thức ấy trào thoát khỏi địa tầng của tâm hồn thì lúc
đó, con người ta cũng không còn hiểu được mình nữa.
1.3.
Cái siêu ngã và tiềm thức
“Cái siêu ngã (le surmoi) được Freud coi như ý thức lý
luận (cái siêu ngã), theo B. This, là đại biểu nội tâm hóa của những sức mạnh
trấn áp mà cá nhân gặp trong những năm đầu tiên của đời sống. Đó là một sự phó
(mentor) rất có ích, nhưng rất thường khi đó là một thẩm phán khắc nghiệt, hạn
chế mọi ham muốn)”[8].
Siêu tôi vì thế vừa đóng vai trò như một kẻ dẫn đường đồng thời là một nhà độc
tài. Chính vì điều đó, tâm thức ấu thơ nhân loại ngay từ phút ban đầu đã nhận
ra riềng mối của siêu tôi để mỗi tâm hồn ít nhiều đều sa lầy vào những mặc cảm
tâm thức. Thế nhưng một vấn đề nữa đặt ra là lứa tuổi ấu thơ ở giai đoạn sơ
sinh chưa bị tác động nhiều bởi các quy phạm và hoạt động xã hội thì cái gì đã
đóng vai trò dẫn đạo cho hành vi. Điều này làm chúng ta nghĩ về bản năng (bản
năng sống và bản năng chết). Tuy nhiên, cái gì đặt để tác thành các bản năng
đó. Để luận giải về vấn đề này, có lẽ nên nói ra thêm vấn đề về di truyền. Bởi
vì, bên cạnh sự di truyền về thể chất như là một vấn đề sinh học thì còn có sự
di truyền về tinh thần như là một vấn đề về tâm lý học. Do đó, một đứa trẻ
không chỉ thụ hưởng bộ nhiễm sắc thể của cha mẹ mà còn tiếp nối cái tâm thức
căn cội từ cha mẹ, ông bà, tiên tổ, giống nòi nữa. Đó là cái nếp gấp của hoạt động
tinh thần. Các riềng mối dường như mơ hồ nhưng nếu sử dụng phương pháp quy giản,
chúng ta sẽ nhìn thấy những hằng số tâm thức ảnh hưởng đến hành vi người. Đó
chính là các “ẩn niệm” của tiềm thức. Tiềm thức, do đó, là địa hạt tinh thần
sâu kín, đóng vai trò như là cái chiều hướng mà vô thức và sau nữa là ý thức sẽ
trượt theo trên quá trình tương tác thực tế đời sống. Cần nói thêm ở khía cạnh
này, vì có lẽ vấn đề tiềm thức trong quan niệm của Freud phải chăng có mối liên
hệ nào đó với quan niệm vô thức tập thể của C. Jung.
Về mặt nào đó, siêu ngã là một dạng thức tích lũy của
những cấm kỵ phát sinh từ thực tế đời sống được dồn tụ qua nhiều thời kỳ tồn tại
của tư duy nhân loại. Do đó, nó trở thành cái kho tích lũy những ẩn thức mang
tính chất như những chiều hướng phải lẽ vừa mặc định vừa kết hợp với các quy phạm
xã hội hiện thời. “Cái siêu ngã (superego): “Còn được gọi là siêu thức, nó vượt
lên trên bản năng tình dục (sexuality) và ý thức tự ngã để duy trì mọi giá trị
truyền thống và các lý tưởng đạo đức xã hội. Nó, một mặt vừa kiềm chế sự thôi
thức của “khát vọng dục tính” (sexual desire); mặt khác, thúc giục ý thức bảo
trì các giá trị đạo đức cá nhân và xã hội. Do đó, siêu thức là ý thức vươn đến
sự hoàn thiện của đời sống”[9]. Để vươn đến lý tưởng, con
người cần phải chôn nén các ham muốn. Những điều cấm kỵ đó được dồn về miền vô
thức, nhưng ở tại đây các cấm kỵ lại diễn ra hai quá trình. Một số biểu tượng ở
cõi vô thức trào ngược sang miền ý thức và biểu hiện ra bên ngoài. Mặt khác một
số cấm kỵ lặng chìm sâu hơn vào tâm thức. Và ở đây nó không còn thiên về tính nội
dung và tính biểu tượng nữa mà thiên về phía chiều hướng. Nghĩa là trở thành có
tính chất ý hướng (cố nhiên) trong tiềm thức.
Việc tìm hiểu và xác định vai trò của ý thức, vô thức,
tiềm thức thật sự đặc biệt có ý nghĩa đối với khoa nghiên cứu văn học. Bởi vì,
hơn bất cứ địa hạt nào, văn học luôn mang tính chất có vấn đề. Mà ở đó, sự ảnh
hưởng của vô thức và tiềm thức đối với nhân vật cũng như kẻ sáng tạo thể hiện một
cách rõ nét. Do thế, trước khi đi vào tìm hiểu tiểu thuyết Ngày qua bóng tối của
Nguyễn Thị Hoàng, việc xác định các khái niệm và diễn trình tương tác của ý thức,
vô thức, tiềm thức là hết sức cần thiết. Dựa nên nền tảng này, chúng tôi có được
phương phsp và điểm tựa luận giải các hành vi và tâm lý nhân vật. Qua đó, có thể
khám phá thực tiễn hiện sinh của nhân vật. Chung quy, bài viết này tập trung
khai thác đời sống tâm thức của nhận vật. Sẽ có nhiều vấn đề khác để nói về
Ngày qua bóng tối của Nguyễn Thị Hoàng nhưng có lẽ điều nổi bật nhất ở tiểu
thuyết của bà chính là “nhân vật” hiện lên như một kẻ mang tâm bệnh (hay thậm
chí có thể nói là một kẻ loạn thần kinh khởi phát). Cơn bệnh phải chăng xuất
phát từ khủng hoảng tâm thức – khủng hoảng hư vô. Vấn đề này sẽ được tiếp tục
bàn luận ở những phần tiếp theo của bài viết.
2. Truy
vấn vô thức hay lưu đày hư vô trong tiểu thuyết Ngày qua bóng tối của Nguyễn Thị
Hoàng
Khi ta đặt câu hỏi với vô thức nghĩa là động chạm đến
bản năng. Bản năng ở con người có thể nói là “pin nguồn”chi phối những hoạt động
cơ bản nhất của hiện hữu. Ở Nguyễn Thị Hoàng, các dấu ấn của bản năng tâm thức
in hằn dấu vết rõ nét ở những suy tư không thôi, những truy vấn không mệt mỏi về
tình yêu và việc sống. Thậm chí có thể nói là cả cuốn tác phẩm không gì khác
hơn là quá trình truy vấn. Nhưng truy vấn ở đây sa vào cõi tuyệt mù bất tận, và
càng truy vấn, nhân vật nữ (Tôi) càng nghiêng ngã sang những trạng thái tâm thức
khác nhau. Thông qua hành vi và nhân vật này chúng ta có thể nhìn thấy quá
trình tương tác qua lại giữa 3 topique tâm trí. Hơn thế, chúng ta còn có thể
nhìn thấy sự ảnh hưởng của bản năng đến hành vi và tâm tưởng.
Nỗi ám ảnh về cái chết, nhân vật nữ luôn cảm thấy cái
chết dày đặc và nhan nhản chung quanh. Dường như đang sống cũng đồng nghĩa là
đang chết. Cơ hồi sự chết đã bắt đầu. Sự chết có ở khắp nơi. Và cô gái đã ở
trong chính nấm mồ của mình khi đang còn sống đây. Nỗi ám ảnh dường như bắt nguồn
từ mặc cảm nào đó, nhưng khi cô gái chưa kịp truy vấn về cái chết và sự ám ảnh
của nó thì cái chết đã có ấy. Đó là một cuộc lưu đày. Bởi sống mà âm thàm mòn
ruỗng chất dần nghĩa là sống và lưu đày trên một tiến trình thui chột tiêu biến
của hiện hữu. Hiện hữu chẳng có nghĩa lí gì khác ngoài việc hư vô hóa. Hiện hữu
bị đồng nhất với hư vô hóa. “Đã có kẻ thẳng lưng mà chết sao trong đời lại có kẻ
không thẳng lưng mà sống. Như tôi. Như tôi mang nặng mặc cảm mình ngoằn ngoèo
gãy đổ, co so dè dặt mãi hoài với những ý nghĩa giằng co, những xâu xé ngậm
ngùi. Để mà làm gì khi tôi sống còn đây đã đồng nghĩa với chết đi. Hoặc đi chầm
chậm đến gần, mỗi phút giây một gần hơn về cõi chết”[10]. Có thể nói thêm rằng bản
năng chết còn có ý nghĩa là cái gì đó đang tiến dần tiệm cận với cái chết, một
thứ ám ảnh chực chờ không vồ đến nhưng rình rập và đe dọa. Bản năng chết còn là
cái ý hướng tiến đến sự phá bỏ, tiêu diệt cuộc sống, gây thương tích hoặc thậm
chí hủy hoại bản thân (Hồ Thế Hà, 2000). Đó còn là sự tức giận, nóng nảy, loạn
cuồng, chối chạy và phủ nhận chính nhân vị của mình, chối bỏ hiện hữu của mình
để tan biến vào tha nhân
Trên quá trình tra vấn cái trống không, hỏi vào mặt hư
vô, truy về miền vô thức, Tôi – người con gái ra đi mãi mãi, người con gái trống
rỗng khao khát lấp đầybị dày vò bởi cái chết sắp sửa. Và cái chết dự phóng kia
đó, chính là kết quả của mặc cảm thiếu hụt. Sự bất toàn ! Người con gái mang mặc
cảm bất toàn. (Mặc cảm hoạn). Phải chăng cô gái ở đây mang hình ảnh người đàn
bà dương vật. Người đàn bà mong muốn được thành toàn nhưng bị cấm kị. Một dạng
cấm kị giao hoan. Phải chăng vì thế mà người con gái luôn đi tìm anh. Một ảnh
hình ảnh mãi mãi lý tưởng thần tiên và khao khát giao hòa. Nhưng cũng mãi mãi
không bao giờ với tới được, bủa vây chỉ có vỡ mộng và tuyệt mù. Tuy nhiên thông
qua điều đó, người đọc lại có thể thấy cái Animus. Animus nơi người con gái
không thể sinh nở còn gắn liền với cái chết. Bởi anh nghĩa là tình yêu và tình
yêu có nghĩa là kết thúc của em. Không có anh, còn phải đi tìm anh, em còn có
lí do để sống và còn có thể có cơ hội sống. Nên anh vẫn mãi mãi là ảnh hình xa
khuất tuyệt mù. Anh mãi mãi là ám ảnh mơ hồ nhưng chắc chắn gây dậy giông bão
trong lòng em. Thế nên, anh có nghĩa vừa là nỗi chết vừa là niềm khát khao tháng
ngày, là trái tim yêu đương hoại diệt. “Nước mắt tôi ứa ra, và tôi bỗng điên cuồng
gọi nhỏ anh ơi anh ơi cùng với nỗi ao ước thiết tha là chết đi ngay lúc đó, bằng
cách của riêng mình trong định mệnh”[11]. Sống – Yêu – Chết nghĩa
là Anh.
Cho nên, có thể nói, anh còn là định mệnh. “Không,
không phải là anh đâu, không phải là anh em mường tượng xót xa suốt những ngày
dài tăm tối, không phải anh em mải miết kiếm tìm trên những đường mòn mờ phủ
bóng hoàng hôn, không phải anh hình ảnh một đời em thao thức hình dung như một
tuyệt đỉnh xa vời kiếm tìm chẳng bao giờ bắt gặp. Không là anh và chẳng là ai cả”[12]. Vì có phải là anh đâu.
Giá như em có gặp anh trên đồi cao, dù không phải là hơi ấm còn lại của anh, mà
là chính anh thật, dù có như thế đi chăng nữa thì em cũng sẽ không nhận ra anh,
không phải là anh đâu. Bởi rằng, “anh” chỉ là siêu tượng cố nhiên mặc định em
đi tìm. Nhưng em sẽ mãi mãi không bao giờ tìm thấy anh trên muôn nẻo đường
tình. Vì anh đã là chính em rồi, anh trong chính em kia rồi. Người con gái trong
“Ngày qua bóng tối” của Nguyễn Thị Hoàng vẫn dại dột kiếm tìm, hi vọng rồi tuyệt
vọng và liên hồi vỡ mộng để rồi nhập mộng và xóa nhòa ranh giới giữa đời thực
và mộng tưởng, đến mức gần như trở thành một biểu hiện của chứng loạn thần kinh[13].
Dấu hiệu đầu tiên của chứng loạn thần kinh có lẽ bắt
nguồn từ chỗ không có khả năng mang thai. Một sự thiếu hụt đối với người nữ. Bản
năng làm đàn bà đã mất, bản năng làm mẹ cũng mất. Khi bác sĩ thông báo tin cô
không thể mang thai, việc đó có thể giết chết cô, thì cô gái đã chết từ giây
phút đó. “Có thể chết. Ông ta đã làm nhẹ vấn đề bằng chữ có thể. Chắc chắn chứ
có thể gì nữa. Không còn nghi ngờ, vì một thầy thuốc khác cũng đã bảo như thế,
bây giờ ông ta lại nhấn mạnh thêm. Có phải đó là lời nguyền cay độc cho một con
đàn bà bất hạnh không. Tôi đã phản ứng mê mù liều lĩnh. Bằng cách đốt lên cho đời
mình những ngọn lửa lớn, ngọn lửa thiêu đốt hết những miền ấu thơ cuối cùng
trong tâm hồn và soi sáng bừng bừng mặc cảm mình là một kẻ tàn phế”[14]. Phải chăng đó là mặc cảm
hoạn ở nữ. Bởi mặc cảm Oedipe và mặc cảm hoạn gắn liền với nhau cũng như sự cấm
kị (cắt bao qui đầu ở nam) gắn liền với sự tàn phế vậy. Nhưng ở người nữ vẫn có
mặc cảm hoạn. Cô gái của Nguyễn Thị Hoàng bị ám ảnh là một kẻ tàn phế cũng như
quan điểm của Freud: “Các em bé giá thường cho mình không có dương vật là dấu
hiệu của sự kém cỏi, ganh tị với con trai có dương vật, muốn trở thành con trai
và lòng ham muốn này thể hiện rõ trong chứng bệnh thần kinh bắt nguồn ở chỗ con
gái không làm hết bổn phận của người đàn bà”[15]. Để cân bằng lại mặc cảm
thiếu hụt dương vật, người đàn bà phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đàn bà của
mình. Trong đó, nhiệm vụ sinh nở là bản năng có thể cân bằng (trung hòa) cái ảm
ảnh này. Tuy nhiên, ở Tôi – cô gái không thể mang thai – việc này đã là điều
không thể. Cán cân bị lệch và nỗi ám ảnh hoạn (thiếu hụt) càng lớn hơn. Và
cnagf ám ảnh thì càng ham muốn, ham muốn có được cái mà cô gái không có, muốn
có được anh nhưng không bao giờ có được anh, muốn giao hòa với anh để trọn vẹn
“con gái” nhưng càng nhận ra điều đó là không thể. Do thế, nội tâm của cô gái
chỉ toàn là dằn vặt, dày vò, khao khát và vỡ mộng đắng cay. Trạng thái ê chề,
thảm hại của một kiếp đàn bà què quặt về tâm hồn và nữ tính.
Có thể nói, càng đi vào tâm thức càng lạc vào vô thức,
càng chìm lòng vào vô thức càng nhận ra từng đợt sóng bản năng quăng quật tâm hồn,
và càng nhận thấy nỗi hư vô xâm lấn. Cho nên em càng cô đơn, càng tuyệt vọng.
Càng đi tìm đàn ông, dấn thân vào những mối quan hệ nguy hiểm càng què quặt
thêm về tâm hồn và chán chường đàn ông. Nhưng chán chê, vỡ mộng đàn ông lại
càng thêm tìm kiếm và khao khát đàn ông hơn nữa. Bi kịch của một kiếp lưu đày bởi
ám ảnh và mặc cảm từ cõi vô thức của thần trí gần như điên loạn.
Trên con đường lưu đày đó, sự điên loạn còn thể hiện ở
những giây phút mà cô gái dường như nhận thấy sự tồn hữu của những cái tôi khác
nhau trong cùng một thân thể. Phải chăng đó là giây phút mà cái tôi và cái đó
giằng co với nhau. Sự phân tách giữa cái tôi và cái đó hay một dạng tâm thần
phân liệt[16].
“Thành thử tôi mất cả tự nhiên và trở nên dè dặt vụng về trong cử chỉ và ngôn
ngữ, nhất là khi có mặt cả người chồng. Đó là một nhận xét khách quan, và chính
sự khách quan này làm tôi bang khuâng suy nghĩ. Như tôi-tâm-hồn hoàn toàn ra khỏi
tôi-thể-xác và tự nhìn ngắm lại mình, thấy hết mọi điều thầm kín đang diễn biến
mơ hồ lặng lẽ dưới vực sâu tiềm thức. Và cũng từ đó, tôi khám phá ra mình có đến
hai đời sống rõ rệt, gây và chịu ảnh hưởng của nhau nhưng không lẩn lộn vào
nhau. Một đời sống thuộc về con người tôi bề ngoài, đi đứng nói cười, giao tiếp
như một diễn viên trên sân khấu sáng đèn trước hai khán giả thản nhiên là người
lạ và người vợ. Một đời sống khác chao chọng chìm nổi thay biến luôn luôn”[17]. Cô gái vẫn luôn cố diễn tròn
vai của mình trước mắt mọi người. Nhưng càng diễn tròn vai, cô càng nhận ra sự rẻ
rung, nực cười của vở diễn. Trong cuộc giằng co giữa ý thức và cái đó vẫn chưa
có cái ngã ngũ và do dó, nội tâm nhân vật chưa bao giờ bình ổn; luôn luôn là một
cuộc đấu tranh liên tục.
Vì giằng co nên cô gái càng nhận ra cô đơn và mẫu thuẫn.
Đó là kết quả của sự giằng co giữa cái tôi và vái đó. “Những năm đầu, khó khăn
là vì tôi. Hy sinh mình cho kẻ khác là điều dễ nói, nhưng khó làm, nhất là khi
một người đàn bà buông rơi hạnh phúc mình, đồng thời mưu cầu hạnh phúc của
chính mình buông rơi cho một đàn bà khác. Tôi đã nghĩ lui về một mình trong cô
đơn, và bằng mọi cách, làm cho nhà tôi tìm thấy hạnh phúc với một người nào
khác. Nhưng nhà tôi là một típ khó thay đổi. Thà ông ấy bê tha hư hỏng hẳn đi.
Thà yêu một người nào khác. Thà làm một cái gì, bất cứ một cái gì xấu xa hay hư
hỏng đến đâu cũng được, miễn là tôi thấy nhà tôi sống , mãnh liệt và đầy đủ khả
năng của một người đàn ông. Nhưng dần dần, nhà tôi rơi rớt vào khoảng không,
khoảng không mở ra từ chán nản, từ thất vọng, từ tình trạng lạnh lẽo trong đời
sống vợ chồng. Chúng tôi không hòa hợp được với nhau trên nhiều phương diện nhất
là về những liên hệ mật thiết vợ chồng”[18]. Cả ba người, người vợ -
ngườ chồng – cô gái đều mắc kẹt vào “sự bằng mặt không bằng lòng” giữa cái tôi
và cái đó, giữa tính dục và lí trí. Đến nỗi, cả ba người đều rơi vào tình trạng
què quặt về tâm hồn và cả đời sống tính dục. Đến nỗi, họ phải viện đến một thứ
persona giả ngụy và chấp chịu cái mặt nạ đó như một dạng tật nguyền.
Bằng cách khai thác tính dục, có thể nói, Nguyễn Thị
Hoàng không chỉ phô bày ra thảm trạng tinh thần của con người thời đại mà hơn hết là đã cho người đọc thấy được bi kịch
cơ bản của tinh thần con người. Bằng cách đi vào địa hạt dục tích, nhà văn chỉ
ra con đường dẫn đi từ vô thức đến hư vô: “Khi tôi ở phòng tắm ra, với quần
jean đen và áo len đỏ. Ông ta vẫn chưa về, ông ta tránh đi chỗ khác để tôi đi
làm công việc kín đáo riêng tư của đàn bà con gái. Tôi biết rõ ông như thế nào
mới liều lĩnh đến đây chơi trò đùa nguy hiểm khó khăn này, việc gì ông phải còn
phải cố ý tỏ ra là thế nào trước mặt tôi”[19]. Nghiêng người xuống những
cái thường nhật, nhỏ nhặt và rất đỗi con người, câu chuyện của Nguyễn Thị Hoàng
về người con gái khát dâm có thể làm chúng ta nghĩ đến Nietzsche với câu nói
“con người quá đỗi con người”. Dục tính là một bản án. Con người là một cô đơn
và khát khao toàn diện.
Tuy nhiên cũng lắm khi, lí tưởng thắng cái đó: “Điều
tôi sợ nhất là bất ngời ìm thấy kẻ tầm thường nơi một người mà mình đang cố gắng
tô điểm dựng xây xung quanh một hào quanh ảo tưởng. Thì đúng giây phút này điều
đó xảy ra. Tôi quay ngoắt lại và trong một thoáng nhìn sững sốt, tự hỏi vì sao
mình lại quen và tìm đến với một người như thế. Ông ta đang uống bia, bọt trắng
viền quanh miệng, vẽ nên một ý niệm về sự thỏa mãn bẩn thỉu nào đó. Người nào
cũng tầm thường và giống nhau như vậy thôi. Tôi nữa. Tôi cũng vậy. Nhưng không
tự nhìn thấy, tự ý giấu che để còn có thể trình diện trước mặt kẻ khác một cách
trơ tráo lố lịch. Trơ tráo lố bịch như hành động tôi hôm nay, tìm đến một người
xa lạ và tự đánh lừa chính là niềm khát vọng kiếm tìm mê mải”[20]. Nhưng chiến thắng của
cái lý tưởng (siêu thức) lại là sự thất bại toàn diện của hiện sinh.Hiện sinh nằm
vật vưởng giữa đống đổ nát điêu tàn của tâm hồn. Bởi khi siêu thức triệt tiêu
ham muốn bằng cách nhận ra sự kinh tởm của những khao khát ném về phía “con lợn”
ỉ ôi bẩn thỉu thì sự thèm khát bỗng trở thành nỗi gớm ghiếc. Và chính lúc đó,
chính ngay khi siêu thức chiến thắng thì hiện sinh của nhân vị đã thất bại. Một
thảm trạng toàn diện từ tâm thức đến thực tiễn.
Liên tục, từ đầu đến cuối câu chuyện là lời truy vấn.
Nhưng truy vấn chỉ để vỡ mộng mà thôi: “Vâng, tôi đến với ông và cố nghĩa là đến
với chàng. Bây giờ tôi không nghĩ gì, không hy vọng không ảo tượng nữa. Tôi tưởng
ông là chàng, hay ít ra ông giống chàng, nhưng không phải. Dù sao cũng xem như
tôi đã đến đích. Và cái đỉnh chót vót nào cũng làm thất vọng kẻ đi tìm tuyệt đối.
Chàng không có nữa. Tôi sẽ tự an ủi là chàng đã sống và đã chết. Ông, sao ông
hôm nay không phải là ông hôm nào ở con đường đi qua thung lũng nữa. Nhiều lúc
tôi tưởng trở về con đường đó sẽ gặp lại ông của ngày hôm đó. Ông khác rồi. Tôi
cũng khác rồi. Tôi mất đi rất nhanh tất cả các thứ cùng một lúc”[21]. Cô đơn như triệu chứng của
bệnh loạn thần kinh, nhận vật nữa cứ nhập nhòe nhầm lẫn giữa mộng và thực. Đôi
khi mộng tưởng còn chân thực hơn hiện thực và khi đó mộng tưởng chính là nấm mồ
trên mảnh đất tiềm thức đầy ẩn ức. “Đâu phải được chết. Nó vồ và mình chống trả
kịch liệt, rồi hụt hơi, yếu dần. Và gục xuống, bị phanh thây ấy vậy mà không chết.
Để còn mang thương tích lê lết trở về. Là tàn phế. Tàn phế thì chẳng sao cả,
nhưng cứ nghiền ngẫm về mặc cảm tàn phế của mình, thì chỉ có phát điên. Em thấy
không”[22]. Nỗi cô đơn của người con
gái khát dâm nhưng bị mặc cảm thiếu hụt kiềm nén làm chúng ta nghĩ đến nỗi cô
đơn bản chất và toàn diện của Maurice Blanchot. Khi nỗi cô đơn đỉnh điểm nó trở
thành điểm không của hiện hữu.
Thế rồi, “tôi vùng mạnh ra khỏi tay ông ta và nhìn xuống
thân thể mình dán sát vào lớp vải mỏng của quần áo ngủ. Tôi ngẩn ngơ nhìn thấy
tôi, lần đầu tiên nhìn thấy tôi trong đời, và cùng một lúc tôi nhận ra mình là
con gái, con gái. Tôi có tôi. Tôi đang còn tôi. Thân thể bình minh này, tâm hồn
ánh sáng này, cảm xúc nắng reo này. Và tôi của tôi. Hoàn toàn của tôi. Nguyên vẹn
và tan vỡ. Tươi thắm và héo tàn. Tràn đầy và trống rỗng. Ngân vang mà im vắng
vô cùng, heo hút vô cùng không một lời gọi kêu, không một tiếng vang nào đáp lại”[23]. Nhận thức bàng hoàng,
bàng hoàng về sự hiện hữu có đấy nhưng không thể. Cô vẫn là con gái, còn có
thân thể, nhưng mâu thuẫn. Bởi có đấy nhưng không thể thực hiện cuộc hiện sinh
của mình. Có đấy nên khao khát là có thực nhưng khao khát cũng lại không thực.
Bởi không thể hiện thực những khao khát đó. Có đấy nhưng lại không có đấy. Nỗi
chết và sự sống nhập nhòe. Hiện hữu và hư vô chồng lấn. Đó là cuộc lưu đày mãi
mãi của khát khao và chuyện làm người.
3. Tiềm
thức và dục tính nữ mãnh liệt ở sáng tác của Nguyễn Thị Hoàng qua trường hợp
“Ngày qua bóng tối”
Dường
như ở người con gái của Nguyễn Thị Hoàng có một thế lực nào đó xuôi khiến nàng
lao về phía anh. Một định mệnh.
Tiềm thức xui khiến em tìm hình ảnh của Anh ở người
đàn ông được gọi là người lạ. Trò chơi xác thịt với ông (người lạ) chỉ làm em
nhận ra ông càng xa lạ và em càng xa lạ hơn nữa để thấy anh thì xa xôi, và đến
mức tiềm thức tán nhòe mọi thứ xung quanh. “Cơn buồn bỗng phơ phất chập chờn rủ
xuống hai hàng mi tôi thanh tĩnh khép hờ. Trong buổi trưa, thời gian đứng im
cho hơi thở tôi rõ từng nhịp bước phập phồng đi lên một đỉnh núi cảm giác chót
vót. Tôi nhắm mắt lại một thoáng và khi mở mắt ra bỗng bàng hoàng nhận thấy ông
ta khác đi. Và tôi bỗng tưởng tượng đến chàng, đến khuôn mặt mơ hồ lãng đãng của
người tình còn lênh đênh mù mịt trên vùng ảo tưởng xa khơi”[24]. Nhân vật tôi luôn đắm
chìm trong mộng tưởng quấn quít xác thịt. Dục năng như một nguyền rủa, như một
định mệnh, như một đường hướng cố nhiên của hiện sinh. Và khi dục tính được nữ
tính cởi trói thì nó như một cỗ xe không có dây cương phăng phăng trên tâm khảm
và cứ thể xuôi chảy nữ tính lụn chìm sâu hơn vào một tưởng cận kề thể xác. “Trong
mắt tôi bây giờ nắng chập chờn từng vòng tròn chói lóa mùa sắc tôi thấy như một
vầng lửa ấm, vòng tay chàng mở xuống thân hình tôi bé bỏng lao đao. Rồi tôi mở
mắt. Mở mắt và hình ảnh tiếp nhận đầu tiên, như hình ảnh đều tiên nhìn thấy khi
ra đời, là đám tro than của lửa trại đêm nào bỏ quên dấu tích. Có phải đó là
hình ảnh tận cùng mỗi con người đời chúng ta nhận chịu sau một cuộc hành trình
miệt mài và phi lý hay không bởi hư vô”[25].
Dục tính nữ, bản năng yêu và chết càng mạnh mẽ khi người
nữ xác định được quyền làm đàn bà của mình. Nhưng khi phát hiện cái quyền làm
đàn bà đó bị bất toàn thì dục tính càng bùng phát nhiều hơn. Xác thịt luôn rừng
rực bỏng rát và thèm muốn. Nhưng xác thịt gắn liền với cô đơn. Xác thịt nghĩa
là cô đơn và cô đơn nên đau đáu, đau đớn, đau thương khát thèm xác thịt. Nguyễn
Thị Hoàng luôn “tẳm mẩn”, lao tìm một cái ôm, một bàn tay níu, một bờ vai rộng,
một vầng ngực ấm và những ràng rụa hả hê căng tràn đầy ứ thỏa thê đứ đừ để nào
là xác thịt tâm hồn trộn hòa niềm đau và nước mắt. “Phân tích như thế để thú nhận
là tôi đã được cứu rỗi, được phục hồi một cách kỳ diệu và tìm thấy như người hấp
hối bỗng nắm giữ được trong tay băng giá của mình một bàn tay ấm áp thân yêu, tất
cả những hình sắc rực rỡ bên ngoài đã bị che khuất sau tấm màn mặc cảm cô đơn,
mỗi lần bên cạnh tôi thấp thoáng bóng dáng tôn quí của người đàn ông tôi chỉ có
quyền gọi là người lạ”[26]. Xác thịt khao khát, cái
nó và cái tôi – chính đáng đều vươn đến cái siêu ngã. Nhưng để làm gì…chỉ để phải
sụp đổ mà thôi.
Vì nữ tính thiếu hụt nên ý thức càng bị hạn chế để cho
vô thức tiềm thức xúi giục. Sự thiếu hụt kích động dục tính nữ mãnh liệt trong
tư thế kĩnh ngưỡng tôn phò tình yêu; và vì thể nàng đã siêu tượng hóa “Anh” - một
bóng hình mờ khuất sương mù. Một bóng hình Nam cố hữu trong tâm khảm nữ. Thể
như phần tách rời sau khi Zeus giáng sét tách liền hai tâm hồn. Nên mãi mãi,
người nữ mang nỗi khát khao thiếu sót lẻ loi và mãi hoài định mệnh tìm về, hướng
đến một ảnh tượng nam bất diệt trong lòng mình, đến nỗi không thể khuất phục.
Và từ cõi tiềm thức mơ hồ đã trào thoát dật dờ trong khoảng trầm tích vô thức
và đâu đó vẫn dẫn lối xuôi đường cho bàn chân con gái lạc đến những bến bờ xa lạ
mà người con gái (không thể làm mẹ) phải chịu lãnh án tù chung thân. Cái Animus
oan nghiệt khép tội thiên tính nữ bằng bản án tình yêu. Một thứ tình yêu có đấy
chỉ để sụp đổ tan tành và lệ lụy muôn vàn về sau. “Và tôi đứng lại ngửa cổ lên
trời bây giờ chỉ còn là một đỉnh mùng xám đặc buồn thiu nửa đời con gái. Anh
ơi. Tôi gọi một người dấu yêu không mặt mày, không tên tuổi bằng đôi môi nóng bỏng
tràn trề nước mưa khởi nguồn tháng hạ. Nước mát, như một đáp lời nồng nàn, giàn
giụa trôi xuống má môi tôi, trôi xuống thân thể tôi bây giờ buông xuôi hai tay
như một chiếc bè lặng lờ tan rã. Và lòng tôi, lúc đó tôi mới nhận ra mình còn một
vùng sâu kín thầm lặng, vừa tràn ngập vừa trống không gọi là cõi lòng, bỗng mủn
ra héo chùng xuống trong niềm thương tủi mênh mông không tên”[27]. ()[28]
Và rằng: tiềm thức biến tình yêu em về phía anh là định
mệnh. Nghĩa là không thể làm khác được. Cho nên dục tính nữ còn có nghĩa là lưu
đày. Bởi không bao giờ được mãn nguyện nên lúc nào cũng khẩn nguyện. Lúc nào,
em cũng chạy tìm và đuổi riết theo ảnh hình mà em khao khát. Chính vì điều đó,
em lưu đày trên đường đời và đường tình với hành trang khao khát về anh. Anh vừa
là bi kịch, vừa là cứu cánh, vừa là bản án chung cuộc đời em[29]. Dù cưỡng lại thế nào thì
Ông/người lạ đã có vợ và Em/Tôi vẫn xui khiến tìm về nhau. Thứ ái tình phạm kị
và tội lỗi bị vô thức xúi giục. Mỗi khi con tiểu quỷ được dục năng tiếp sức thì
lí trí có lẽ đã bị tê liệt. “Và đầu tôi, như một tảng đất lở trong mùa bão lụt
rơi xuống bờ vai ông ta, dừng lại như một nương tựa tủi hờn trên vùng bến bờ xa
lạ của một thiên đường ảo vọng”[30]. Lúc ý thức em bạc nhược
vì những chấn thương không thể chối bỏ thì vô thức em mãnh liệt khát khao và
cũng chính khi đó tiềm thức em đặt định trở nên linh hiển.
Thế nên sau khi vỡ mộng với ông Giáo sư Viện Đại học,
cô gái lại đươm kết nồng nàn với ông tướng già chết vợ[31]. Có phải vì ở đó, cô cảm
thấy và nhận thấy một mặc cảm tàn phế tương tự. Và do đó, cô cảm thấy có thể an
thỏa đôi chút, để lòng mình dàn hòa những mặc cảm tàn tật về tâm hồn và thể chất.
Hơn thế nữa, cô tìm thấy chính nỗi cô đơn ở ông tướng mà lòng cô cũng chấp chịu
cùng một nỗi cô đơn như thế. Nếu như ông giáo sư làm cô nghĩ đến anh và cô đã vỡ
mộng; thì ông tướng, chính ở ông, cô đã bắt gặp chính mình. Cô gái ở đây là một
trạng thái yêu mình thái quá, một dạng tự kỷ cuồng yêu và tìm kiếm tình yêu và
tình dục hay những khao khát… chung quy là cách để tìm thấy chính mình. Từ đầu
đên cuối, cô chỉ tìm kiếm chính mình mà thôi. Kì thực cái anh lí tưởng cũng là
cô, cái khát khao biểu hiện của cô đơn và lưu lạc nhân vị cũng là cô. Chỉ có cô
độc diễn trên sân khấu của vô thức và tiềm thức.
Cuối cùng, người con gái rơi vào vòng quay lẩn quẩn.
Càng mặc cảm càng khát khao, càng khát khao lại mặc cảm bốn bề. Mặc cảm chỉ làm
cho dục tính nữ càng mãnh liệt và trào tuôn[32]. Nhưng trong một tích tắc,
khi lí trí lấy lại thế thượng phong, khi thi hài của người vợ ông tướng còn nằm
đấy lạnh ngắt vẫn rõ ràng hiển hiện thì những ao ước chấp chới dắt díu nhau
chìm ngập trong đam mê cảm xúc đột nhiên phụt tắt. Và tấm khăn quấn quanh người
bỗng lại kéo lên choàng lấy thân người. Giữa khát khao và sự phải lẽ của đời sống
nhiều khi mâu thuẫn. Và một trong hai cái phải có cái chiến thắng, người ta sống
nghĩa là người ta chọn. Sống nghĩa là chọn. Và trên cái đồ thị dao động ấy, chỉ
số trên trục xác thịt và chỉ số trên trục lý trí sẽ là căn cứ định vị hành vi
và thái độ của một người. Nhược bằng giao điểm của cả hai ý hướng đó là gốc tọa
độ “0” thì nhân vị ấy ắt sẽ rơi vào điên loạn. Hư vô và điên loạn dường như
luôn chực chờ trong tâm trí của nhân vật tôi. (Người con gái của tội lỗi và ruồng
bỏ).
Kết luận
Trong số những nhà văn nữ trước 1975, có lẽ Nguyễn Thị
Hoàng là nhà văn có lối hành văn khác biệt hơn cả. Sự khác biệt đó chính là ở
chất thơ trong văn chương của bà. Những trang văn tràn đầy cảm xúc cũng giống
như những vần thơ nhạy cảm tinh tế. Có lẽ, do bà đến với thơ trước khi đến với
văn xuôi nên mỗi trang viết đâu đó vẫn có thể nhận thấy một cái tôi thi nhân đậm
đà. Nhưng phải nói thêm là cái tôi trữ tình ở đây nhuốm màu nữ quyền và đau đáu
hiện sinh. Tuy nhiên, sẽ phải cần thêm nhiều thời gian để luận bàn vấn đề này.
Sở dĩ chúng tôi muốn chốt lại ở bài viết này do bởi chất
trữ tình nữ tính và hiện sinh quan niệm của Nguyễn Thị Hoàng có thể nói là do ở
mảng đề tài mà bà khai thác. Dục tính ! Nhưng với ngòi bút của một nhà thơ viết
văn xuôi, dục tính ở Nguyễn Thị Hoàng, cụ thể là trường hợp ngày qua bóng tối, được
thể hiện một cách tinh tế, nhạy cảm và có chiều sâu triết luận.
Xác thịt là ngõ lối ẩn ngụ đàng sau các hành vi biểu lộ
ra như là ý thức để từ đó, nó trở thành con đường mà chúng ta có thể truy vấn về
miền vô thức của nhân vị. Cũng từ đó, chúng ta có thể đào sâu thêm vào các biểu
tượng của tiềm thức để khám phá cơ chế vận hành đáo chuyển hồi quy của các siêu
tượng ấy lên hành vi cụ thể của mỗi con người (ở đây là nhân vật). Chính ở chỗ
này, Nguyễn Thị Hoàng đã bước đầu khai mở ra con đường hay nói khác đi là đặt
người đọc vào tư thế của sự truy vấn về siêu hình của tình yêu, siêu hình của sự
chết và “nỗi người vô cùng”[33].
Tài liệu tham khảo
1. Freud
S. 2015. Cái Tôi và cái Nó (Thân Thị Mận dịch). Hà Nội: Nxb Tri thức.
2. Freud
S. 2002. Phân tâm học nhập môn. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.
3. Hồ
Thế Hà. 2000. Phân tâm học và văn học (Bài giảng lưu hành nội bộ). Huế. Viện Đại
học Huế.
4. Nguyễn
Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới.
5. Nhiều
tác giả (1980). Tâm thần học. Dịch từ
bản tiếng Nga (tham khảo bản tiếng Pháp). Người dịch Phạm Văn Đoàn và Nguyễn
Văn Siêm. Moscow: Nxb Mir.
7. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Ho%C3%A0ng
[1]
Nguyễn Thị Hoàng (sinh 1939) là một nhà văn, nhà thơ nữ Việt Nam. Bà sinh ngày
11 tháng 12 năm 1939 tại Huế thuộc Liên bang Đông Dương.[1] Năm 1957, bà chuyển
vào sinh sống ở Nha Trang rồi đến năm 1960 bà vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa
và Luật nhưng bà bỏ ngang, không học hết mà lên Đà Lạt dạy học. Đến năm 1966,
bà chuyển sang chuyên tâm viết tiểu thuyết. Cùng với văn xuôi, Nguyễn Thị Hoàng
còn tham gia sáng tác thơ và từ đó bà trở thành một người nổi tiếng trong giới
văn nghệ chuyên viết về những mâu thuẫn nội tại của giới trẻ Sài Gòn trong suốt
thập niên 1960. Theo Phạm Chu Sa, Nguyễn Thị Hoàng là một trong những nhà văn nữ
tài năng thật sự và tên tuổi đã được khẳng định ở miền Nam trước 1975. Bà có những
tiểu thuyết với giọng văn trau chuốt bóng bẩy và là một trong vài tác giả có
sách bán chạy nhất thời đó. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, bà hầu như biến mất
khỏi giới nghệ thuật và sống một cuộc sống yên lặng đến tận 1990, khi bà cho ra
đời Nhật ký của im lặng. Vào năm 2007, bà lại xuất hiện qua một tùy bút nhan đề
"Nghĩ từ thơ Thái Kim Lan" được đăng trên Tạp chí Văn hoá Phật giáo
(số xuân Mậu Tí, 12.2007).
Truyện dài:
"Vòng tay học trò" (1966)
Trên
thiên đường ký ức (1967)
Tuổi
Saigon (1967)
Vào
nơi gió cát (1967)
Cho
những mùa xuân phai (1968)
Mảnh
trời cuối cùng (1968)
Ngày
qua bóng tối (1968)
Về
trong sương mù (1968)
Ðất
hứa (1969)
Một
ngày rồi thôi (1969)
Vực
nước mắt (1969)
Tiếng
chuông gọi người tình trở về (1969)
Vết
sương trên ghế hồng (1970)
|
Các
tập thơ:
Sầu
riêng (1960)
Kiếp
đam mê (1961)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Ho%C3%A0ng
[2]
Freud S. 2015. Cái Tôi và cái Nó (Thân Thị Mận dịch). Hà Nội: Nxb Tri thức,
tr.31.
[3]
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c112/n888/Tu-cai-nhin-tham-chieu-phan-tam-hoc-qua-mot-so-truyen-ngan-hien-dai-Viet-Nam.html
[4]
Freud S. 2015. Cái Tôi và cái Nó (Thân Thị Mận dịch). Hà Nội: Nxb Tri thức,
tr.39.
[5]
Hồ Thế Hà. 2000. Phân tâm học và văn học (Bài giảng lưu hành nội bộ). Huế. Viện
Đại học Huế, tr.19.
[6]
Freud S. 2015. Cái Tôi và cái Nó (Thân Thị Mận dịch). Hà Nội: Nxb Tri thức,
tr.35.
[7]
Freud S. 2015. Cái Tôi và cái Nó (Thân Thị Mận dịch). Hà Nội: Nxb Tri thức,
tr.34-35.
[8]
Hồ Thế Hà. 2000. Phân tâm học và văn học (Bài giảng lưu hành nội bộ). Huế. Viện
Đại học Huế, tr.19.
[9]
Hồ Thế Hà. 2000. Phân tâm học và văn học (Bài giảng lưu hành nội bộ). Huế. Viện
Đại học Huế, tr.20.
[10]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.8.
[11]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.78
[12]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.78-79.
[13]
“Hysteria xuất hiện do ảnh hưởng các nhân tố gây chấn thương tâm thần khác
nhau, cấp tính cũng như tác động ít nhiều kéo dài. Loạn thần kinh hysteria dễ
xuất hiện hơn ở những người có những nét tính nết bệnh lý….Loạn thần kinh
hysteria thường gặp ở lứa tuổi trẻ, nhất là ở phụ nữ, nhưng nam giới cũng mắc bệnh
này…Một trong những điểm cơ bản của hysteria là tính rất dễ bị ám thị
(suggestibilityé) và khả năng dễ tự ám thị (autosuggestibilityé) của người bệnh”.
(trang 353)
“Ngoài
những triệu chứng chung về loạn thần kinh dưới dạng dễ bị kích thích, tăng mệt
mỏi, kém ngủ..v.v.. loạn thần kinh ám ảnh….còn biểu hiện bằng nhiều loạn ám ảnh
khác nhau. Các ám ảnh sợ (phobia) là đặc trưng nhát cho loại loạn thần kinh
này…..Các ám ảnh sợ rất đau khổ với người bệnh; sợ thường kèm theo các phản ứng
thực vật rõ rệt như da tái nhợt hoặc đỏ bừng, vã mồ hôi, tim nhanh, thở tăng.
Ngoài các ám ảnh sợ muôn hình muôn vẻ, trọng bệnh loạn thần kinh ám ảnh, còn thấy
những ám ảnh hình tượng khác dưới dạng ám ảnh nghi ngờ, ám ảnh những biểu tượng
tương phản, ám ảnh ham muốn v.v…”. (trang 357).
Nguồn:
Nhiều tác giả, 1980. Tâm thần học. Dịch
từ bản tiếng Nga (tham khảo bản tiếng Pháp). Người dịch Phạm Văn Đoàn và Nguyễn
Văn Siêm. Moscow: Nxb Mir.
[14]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.10.
[15]
Sigmund Freud. 2002. Phân tâm học nhập môn. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia,
tr.372.
[16]
Ở giai đoạn thứ 2, trong thể Paranoit, các nhà nghiên cứu Xô viết có đề cập đến
Hội chứng Paraphrenia: “ở vị trị chưa thật rõ ràng trong bảng phân loại hiện
nay của các bệnh tâm thần. Nên coi đó là một hội chứng chứ không phải là một thể
bệnh độc lập. Hội chứng này có đặc điểm là sự tồn tại mạn tính, lâu dài những
hoang tưởng có hệ thống và giàu xúc cảm, làm ảnh hưởng đến hành vi, tác phong của
người bệnh”.
Nguồn:
Nhiều tác giả, 1980. Tâm thần học. Dịch từ bản tiếng Nga (tham khảo bản tiếng
Pháp). Người dịch Phạm Văn Đoàn và Nguyễn Văn Siêm. Moscow: Nxb Mir, tr.252.
Từ
Paraphrenia có nguồn tốc từ tiếng Hy Lạp (Para là bên cạnh, phren nghĩa là trí
óc). Hay nói khác đi là hội chứng này biểu hiện như là có một tâm hồn khác ngay
bên cạnh tầm hồn vốn có. Dường như có những tâm trí tách biệt trong cùng một thể
xác.
[17]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.23.
[18]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.84.
[19]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.94.
[20]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.99.
[21]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.102.
[22]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.107.
[23]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.128.
[24]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.96.
[25]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.36.
[26]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.59.
[27]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.65.
[28]
Tiếp theo đoạn vừa trích: “Cho tôi nghe vang vang u uẩn những tiếng nói nào xót
xa thầm kín. Anh ơi anh ơi em đi tìm, đi tìm một người, đi tìm anh đây … anh là
ai và anh ở nơi đâu. Ôi làm sao tôi biết được trong phút giờ này trên trái đất
lạnh lùng có người nào nhìn thấy tôi và tiếp nhận tôi vào vùng ấm áp nào không.
Tôi chẳng còn gì, chẳng biết gì, chẳng ra gì cả. Em đi tìm một người, em đi tìm
anh đây, anh là ai anh ở đâu”. (Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối.
Saigon: Sống Mới, tr.65).
[29]
“Tôi là một kẻ bao giờ cũng ra đi, cũng lưu lạc, cũng lửng lơ, không người mong
đợi, hẹn hò và đâu đó rớt rơi tiếng gọi qua đường của một khách lang thang.
Phút này anh đã đến. Anh bỗng đến thật bất ngườ, không hẹn hò, khẩn nguyện như
một thắp đuốc xuống đời em tăm tối âm u. Rồi lửa sẽ tàn, rồi đêm sẽ dứt, rồi
người sẽ xa, nhưng dù một phút, dù một giây. Khoảnh khắc thời gian ảo diệu này
cũng dài lâu bằng muôn trùng thế kỷ. Hãy dừng lại, đừng bước nữa tim ơi. Cho
đêm tràn trề chảy xuống đầu môi âm thanh vang lừng huyên náo của hư không. Cho
hoa lá dâng đầy mặt đất những mầm non ngọt ngào của giấc xuân nồng đầu đời. Hãy
ghé lại, một lần một đời người, nghiêng vai xuống bến thời gian mong manh này để
nghe tiếng hát của nghìn thu vọng âm xuống cõi lòng trẻ thơ mệt mỏi. Anh có
nghe không, lời em gọi đó. Hãy quên anh là gì, quên em là gì. Chìm ngập cho mau
xuống lòng sông xanh ngắt bóng trời này, cho tôi quên đời, cho tôi quên tôi,
cho hồn một ngày sau còn thơm hương đằm thắm”. (Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày
qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.79-80).
[30]
Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.81.
[31]
“Với người đàn ông trầm lặng dịu dàng đối diện tôi. Thỉnh thoảng, sau lần viếng
thăm duy nhất đó, em còn nhớ đến anh. ANh hai cn mắt âm thâm xa hút. Và anh đôi
môi hồng thắm mở xuống lòng em vòng cung hồng thắm những thao thức đầu đời mượng
tượng nụ hôn”. (Nguyễn Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới,
tr.114).
[32]
“Như bị một sức thôi miên thu hút tôi đẩy nhẹ cánh cửa, tôi bước vào bên trong,
tôi tiến đến phía chiếc ghế dài người đàn ông ngồi gục đầu một mình, và tôi lả
người xuống đó. Như thoát ra ngoaài một cơn mê chơi vơi, ông ta bỗng mở mắt, sững
sờ nhìn tôi, hai con ngươi dịu dàng mở lớn màn đêm thâm u xuống lòng tôi rào rạt
bồi hồi. Như một cầng mây tháng hạ lang thang, khuôn mặt, vầng tóc, rồi bờ vai,
hai tay, cùng với hơi ấm nồng nàn của người đàn ông choáng ngợp xuống mắt tôi
hoang mê cảm giác của một vầng trời cao sụp xuống. Những ngón tay run buông rời
mép khăn phủ giường quấn hờ quanh thân thể tôi tuyệt vọng đợi chờ tiếng rơi vỡ
dữ dội của vòng trời tận thế, nhưng như trái đất bống quay nhanh một vòng trong
chớp mắt cho bình minh thắp sáng lửa hồng lên thân xác u mê thần trí đắm chìm,
tôi bỗng ngh ông ta nói bằng thứ tiếng nguyện cầu một đêm trăng trong vắt đầu
thu: - Em, vì sao chúng mình có thể như thế này…”
[33]
Xin trích một đoạn dài trong tác phẩm Ngày qua bóng tối của Nguyễn Thị Hoàng.
Có lẽ đoạn văn này là đoạn văn xuất thần nhất và cô đọng nhất tư tưởng mà bà gửi
gắm trong tác phẩm này:
“-
Em…
Ngọn
sóng nào dâng lên ngập tràn đầu bãi hoang, cuốn lấp tôi kiếp dã tràng miệt mài
tháng năm xuống cái vòng ôm lượn lờ êm ái của con nước tràn đột ngột. Cho em bỗng
thấy choáng ngợp lao đao tâm hồn thể phách trong khoảng trũng êm đềm thần diệu
của vai anh. Mùi thơm xa lạ của một loài gỗ quí phủ trùm trên nếp áo. Với cái cảm
giác quay mòng mòng chóng mặt vờn lên trên khắp tôi, cùng một lúc, với tiếng gọi
âm u xa hút của con ma cô độc vọng âm từ tiềm thức, thúc giục, van lơn, gọi mời
tôi hãy bỏ đi rất xa những lối mòn quen thuộc của đời người. Ngọn sóng bỗng cuốn
nâng tôi lên trên một bãi nhung tơ nào đen tối, và tôi nghe thấy chính tiếng
tôi đáp lại những lời rền rĩ của con ma nhập hồn đồng thiếp cơn mê:
-
Anh….
Và
nước mắt tôi bỗng ứa trào ra, cùng một lúc với cảm nhận một hoan lạc siêu hình
xa xăm vô bờ bến, với niềm đau thương nhẹ nhàng phảng phất, đủ cho tôi nhận ra
bờ vai này không phải là bến chờ mong và khuôn mặt gần gũi tôi ngước nhìn trong
căn phòng kín cửa tranh tối tranh sáng này không phải là chàng. Nhưng em đã cố
nghĩ ông ta chính là anh, anh ơi. Vì bây giờ anh đi xa mù mịt ra ngoài đời sống
em và rồi tình yêu em sẽ trọn đời mồ cô hình bóng”.
(Nguyễn
Thị Hoàng. (1968). Ngày qua bóng tối. Saigon: Sống Mới, tr.97).
Comments
Post a Comment