Skip to main content

TÌM HIỂU BÀI THƠ “THÀNH PHỐ” CỦA THANH TÂM TUYỀN DƯỚI GÓC NHÌN KÍ HIỆU HỌC


TÌM HIỂU BÀI THƠ “THÀNH PHỐ” CỦA THANH TÂM TUYỀN DƯỚI GÓC NHÌN KÍ HIỆU HỌC

 (Võ Quốc Việt - KHOL V., 2018)

Thành phố
Rất nhiều khoảnh khắc, bỗng nhiên hè đường tách
lìa khỏi linh hồn, rồi những mặt nhà những chòm
cây xe cộ nghĩa là thành phố đáng ghét như thù
nghịch, tôi bơ vơ suốt buổi chưa hết kiếp buồn
phiền. Tôi, kẻ tội đồ vượt ngục, những vách tường
hắt hủi những tiếng động nguyền rủa, muốn một
hồn người yêu đương mà không gặp nên thành
phố là nơi đầy ải gớm ghê vì chứa chấp những cô
đơn chống chọi. Ngó xuống mỗi viên gạch, nhìn
lên mỗi cây đèn đủ thấy sự khinh ghét lạnh lùng.
Tôi trốn chạy, ngoại ô thì gầy yếu, ngõ xóm rối
rắm hơn lòng mình và những vuốt nhọn mơn trớn.

Mỗi giọt lệ là một lần buộc tội
Một nụ cười là một lần xảo trá

Tại sao Thượng Ðế cứ bắt buộc phải là Thượng
Ðế? Những con chuột chù bắt buộc phải làm
những con chuột chù? Ngoại ô chới với bên
dòng dây điện mỏng con đường hẻm cụt và
chuyến xe già. Mưa trôi xuống bùn nhơ, không
còn linh hồn để khép kín, mọi vật rã rời, chẳng
biết có nên thương tiếc chăng?

Một người đàn bà đẹp chít khăn tang - cái đẹp
của khăn tang trên khuôn mặt sầu muộn - cầm
tay rủ tôi bỏ đi. Về những đồi cỏ may hoang vu
nằm với nhau, chẳng dám trông vào mắt nhau.
Mùa Hạ trôi cao dưới chân đồi bát ngát, mầu đất
xám, nỗi cô đơn dần nhỏ lại hoá tôi thành thứ rễ
cây kì lạ. Tôi khiếp hãi hỏi: Nàng nghe thấy gì
không? – Một thứ hương thơm toả ra từ thân
thể chàng – Không phải – Chiếc khăn tang trên
tóc em quấn lấy cổ tay chàng, tiếng hát xa vời của
kỉ niệm. Tôi la lên: Không phải, nghiêm khắc nhìn
người đàn bà. Cái nhìn độc ác ấy giết chết người
đàn bà, nàng vẫn còn đẹp khi sầu muộn. Tôi đắp
mộ nàng bằng vòm trời yên tĩnh lấy của mùa Hè
đang có đây, liệm xác nàng bằng cả đồi cỏ may êm
ái vô cùng. Tôi nói: Hỡi em! Em không nghe
thấy gì thật sao? Lời rên xiết của những thành
phố trơ trọi hơn chúng ta. Hỡi em! Em sung
sướng biết chừng nào, em nằm đây da thịt nở lên
cây cỏ, còn anh, anh phải quay về héo mòn cùng
gạch ngói.

Tôi trở vào thành phố thấy thành phố nhớ thương
tôi. Tôi đi bên phía trái, những thanh sắt nhọn xuyên
thủng ngực, người ta muốn giày xéo tôi cho đỡ
chướng mắt. Tôi vẫn dửng dưng và bắt đầu người
ta run sợ. Tôi bảo mọi người: Hãy đi sang bên
này, chối bỏ những thói quen ngu muội của
người, chúng ta sẽ gọi bên này là bên phải. Không
ai dám cười tôi, nhiều người muốn băng qua
nhưng còn sợ chết giữa đường. Mặc họ dù thế
nào tôi vẫn tiếp tục đi bên phía trái. Thân và
hồn tôi nặng nề những kim loại. Và tôi đau đớn
nhớ người đàn bà chít khăn tang trên đồi cỏ may
hoang vu dưới trời cao mùa Hạ.


Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964, tr.86-89.





1.                       Đặt vấn đề
Ở tuổi đôi mươi Thanh Tâm Tuyền viết Nỗi buồn trong thơ hôm nay và đặt ra vấn đề tại sao phải đổi mới thơ. Hơn bất cứ thể loại nào, Thơ nghĩa là một bước đi hoàn toàn độc đáo. Thơ nghĩa là cái gì đó hoàn toàn khác biệt. Ở thơ, cần một năng lực và nhận thức về sáng tạo một cách triệt để. Phải chăng từ ý hướng đó mà Thanh Tâm Tuyên đã bước hẳn vào Hiện đại chủ nghĩa để đến cuối giai đoạn 1954-1975, người thơ lại có một bước đi dài hơn vào ngưỡng cửa Hậu hiện đại bằng ngõ lối Dionysus. Tất nhiên, vẫn còn quá sớm để nói về tính chất Hậu hiện đại trong thơ ca, văn xuôi và lí luận của Thanh Tâm tuyền nhưng trước hết có thể nói ngay, đó là một cuộc hành trình dài của tự do.
    Theo Thụy Khuê: Dựa vào sự phân biệt của Nietzsche giữa hai quan niệm nghệ thuật đối chọi nhau: Nghệ thuật Apollon với cái đẹp toàn bộ, hoàn chỉnh và nghệ thuật Dyonysos phá vỡ những hình thức sẵn có, Thanh Tâm Tuyền chọn nghệ thuật thứ nhì: "(Người làm thơ hôm nay) không mơ mộng, nghĩa là không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn đã là một hình dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn không che đậy."[1]
Cất tiếng như con đại bàng trên bầu trời tự do, kêu những tiếng vang trời chói vào trong khoáng dã, Thanh Tâm Tuyền đã đến giữa đời thơ trong cái mệnh phần với quyền năng nghệ thuật giữa chiếu thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX. Người tuyên bố khởi đi từ ca dao sang tự do. Và hơn thế nữa, người đến với thơ không phải để tìm thơ mà trên hết là thực hiện sinh hữu của chính mình. Thơ nghĩa là một sự dấn thân của đời sống.
Thơ của Thanh Tâm Tuyền vì thế tràn ngập nỗi buồn với những ưu tư và âu lo vô hạn. Những ưu tư và âu lo không thể cắt bỏ, không thể thoái lui, không thể trốn chạy. Đó là cõi người tận thế. Buổi hoàng hôn của những giá trị cũ. Mà một trong số đó, Thanh tâm Tuyền đã mạnh dạn và dứt khoát. Người dứt khoát với nghệ thuật tiền chiến và tham vọng xây dựng một vũ trụ nghệ thuật mới đặt nền tảng trên hư vô, sụp đổ, ruồng bỏ và hỗn loạn. Trực diện nhìn thẳng vào đời sống để gỡ bỏ mặt nạ của đời, cho đời hiện nguyên hình trước con mắt trợn tròng của nhân sinh, Thanh Tâm Tuyền đã một thời trở thành tên khốn nạn và gây ra những tranh luận kéo dài bởi thái độ dứt khoát của ông trong việc khởi xướng và cổ súy thơ tự do. Mặc cho các ngài chính thống, các ông đốc học, các vị tổng tòa, Thanh tâm Tuyền không hề chùn bước trên con đường thực hiện dấn thân hiện sinh đó. Trước hết bởi chính nỗi ám ảnh về cái chết và mặc cảm hư vô của chính mình. Điều đó làm nên bản sắc của hình hài TÔI ở thế giới thơ của người thơ Thanh Tâm Tuyền. Những truy đuổi nguy khốn của việc phải sống và làm người luôn bám lấy nhà thơ như định mệnh.
Nếu ở bình diện nhận thức, thơ Thanh Tâm Tuyền là sự chủ thể hoá thực tại, thì ở bình diện biểu hiện, thơ ông lại kéo ngôn ngữ về với thực tại. Tức, ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ nghệ thuật, lại một lần nữa, thay đổi quan niệm. Thanh Tâm Tuyền  đã kéo ngôn ngữ về với sự vật, nhưng không phải để phản ánh sự vật, mà để đồng nhất nó với sự vật. Với nhà thơ, ngôn ngữ là thực tại.
Để làm được điều đó, nhà thơ đã xác lập cho mình một hệ thống ngôn ngữ thơ hoàn toàn khác biệt. Đặt ra mục tiêu về một vũ trụ thơ hỗn độn, tương ứng, nhà thơ đã sử dụng các kí hiệu ngôn ngữ để thể hiện một thực tại rời rã, gãy đổ. Nhà thơ hầu như đã thay đổi từ loại, phá bỏ ngữ pháp và tháo rời nó ra để lắp ghép lại câu bằng một lối luận lý khác. Người còn chuyển các liên kết câu đến những chỗ bất ngờ nhằm mục đích tạo ra các ảnh hưởng đột ngột cho người đọc trong quá trình tiếp nhận. Đó là một thái độ phủ định lối lập luận thông tường. Các tứ thơ của ông đã biểu hiện tất cả sự chán chê mê mỏi của người thơ đối với các thi tài, thi hứng, thi liệu, thi điển phổ biến thường thấy trong thi ca tiền chiến. Thanh Tâm Tuyền đã một thời đắm chìm trong khoảng trời văn học đó, nhất là khi còn cắp sách đến trường, nhưng chính điều đó đã giúp ông hoàn toàn đoạn tuyệt với nó. Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền chính là một biểu hiện cho sự đoạn tuyệt đó.
Và sự đoạn tuyệt ấy trước hết là Thơ. Thơ tự-do của Thanh Tâm Tuyền đã là một khởi hành, một thế giới thi ca của sự ra đi về cõi đời dã thú trần truồng. Thanh Tâm Tuyền đã phá vỡ cái tĩnh, cái nền của ngôn ngữ, ông đã phá cái cấu trúc bình thường. Ngôn ngữ trong thơ Thanh Tâm Tuyền bất thường, bất ngờ, lẫm lạ, không thứ tự cũng không thông thường nhưng nhiều khi cũng rất bình thường như lời nói ngoài phố chợ. Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay được coi như bản tuyên ngôn của ông về thơ tự-do. Thanh Tâm Tuyền đã viết : “Tôi nghĩ rằng điều làm cho người đọc xa lạ với thơ hôm nay không hoàn toàn vì hình thức tự do của nó. Thơ không vần, không điệu, thơ xuôi nếu quả thật là thơ – nghĩa là đạt được đến ngôn ngữ mầu nhiệm không chỉ chuyên chở ý tưởng mà còn ám ảnh vang vọng mãi trong tâm hồn – thì sớm muộn người đọc cũng tìm thấy và quen dần với một thứ nhịp điệu rộng rãi phức tạp ở một trình độ nghệ thuật cao hơn đối với nhịp điệu đơn giản rút gọn… Người làm thơ hôm nay có thể bỏ thơ không thương xót khi họ nhận thấy thơ không làm thỏa mãn nỗi khao khát quá chừng của đời sống hôm nay (…)” Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn khi tuyên bố : “Chúng tôi theo cơn cuồng nộ bi thảm của Dionysos, của cuộc đời hôm nay. Chúng tôi cho các người vĩnh viễn (= thơ theo quan niệm cũ!), hãy nhường cho chúng tôi hiện tại”[2]
Thế giới sụp đổ và ruồng bỏ trong sự cảm nhận của thi sĩ đưa đến cảm giác cô độc, . Nhưng trong chính cô độc choáng ngợp, người đã tìm thấy tự do. Cái tự do bản chất của sự viết, sự sáng tạo và sự sống. Người lập tức trở thành vị hoàng đế không ngai trong vương quốc đó. Vương quốc của Mọi. Bọn Mọi bị những kẻ chính chống, đại diện cho luân lý lên án và gạt ra khỏi hiện hữu. Thế nhưng, Thanh Tâm Tuyền đã chỉ ra cho chúng ta thấy: chính ở bọn Mọi ấy, hiện hữu sẽ và được phơi mở với tất cả sự thực của nó. Hơn bất cứ đối tượng nào, Mọi cũng có tiếng nói và tha thiết nói. Thơ Thanh Tâm Tuyền có thể nói là diễn ngôn của Mọi, của những kẻ bên lề, những cái ngoại biên dần di chuyển trở về kinh đô chiếm lấy ngôi thần chủ. Đó là thời đại của Thần rượu nho. Và về Nghệ thuật đen:
“Nghệ thuật trước hết là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu bằng sự chia lìa cần thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự nhận thức cao thấp là tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt. Hằng ngày người ta sinh sống trong một thế giới nhân loại được xếp đặt quy định trong một trật tự được tự nhiên hoá không nghi ngờ không dò hỏi, người ta sống yên ổn thoải mái với những thói quen, tiếp nhận hạnh phúc cũng như sự phiền muộn như những trái cây ngon ngọt hay đắng chát của Tạo Hoá ban cho, nhưng rồi một cơ hội nào đó trật tự kia bị xô lệch bởi những người khác, người ta có thể ngạc nhiên rồi quên đi khi trật tự vãn hồi, người ta có thể hoảng kinh vì không quên được trước cái trật tự giả tạo. Người ta cảm thấy từ đấy sự chia lìa giữa mình với đời sống xung quanh, giữa mình với mình, người ta tự hỏi, người ta cố gắng tìm cách trả lời, người ta hoài nghi. Như một cơn địa chấn – nói theo Nietzsche – con người lúc bấy giờ thấy mặt đất điên đảo dưới chân mình, một mình mình gánh nặng cả đời sống trên hai vai, nỗi hoảng kinh thất thần của chàng Roquentin trong tác phẩm của Sartre lan tràn ra bên ngoài như thế đó, chàng nhìn lọ mực để trên bàn, nhìn bàn tay của mình, cái mặt cái miệng của kẻ khác, cái rễ cây nơi công viên, những sinh vật hết sức tự nhiên đối với mọi người trở nên hãi hùng đối với chàng…..Nói kết lại nghệ thuật đen đóng vai trò khích động sự thức tỉnh của xã hội trước những câu hỏi cụ thể thúc bách thế tục, ném sự dò hỏi trâng tráo vào giữa mắt mọi người vẫn ngủ mê trong sự tin tưởng vu vơ trừu tượng ở cõi tuyệt vời càng ngày càng mất hút, kêu gọi mọi người trông thẳng vào cảnh ngộ đang sống, vận động trước hết cho một ý thức dũng cảm táo bạo nhận thức cho đầy đủ thực tế”[3].

2.                       Hố thẳm lưu đày – Thành phố hay Vũ trụ sụp đổ trong cơn đảo hoán
2.1.                Cấp độ kí hiệu đơn (từ)
a.                       Kí hiệu đơn (danh từ)
-   Danh từ chỉ người: linh hồn, tôi, kẻ tội đồ, hồn người, Thượng Đế, đàn bà, cái đẹp, khuôn mặt sầu muộn, tay, mắt nhau, nàng, thân thể chàng, tóc em, cổ tay chàng, tiếng hát kỷ niệm, cái nhìn, xác nàng, chúng ta, ngực, người ta, mọi người, nhiều người, thân và hồn tôi, giọt lệ, nụ cười
-   Danh từ chỉ vật: hè đường, mặt nhà, chòm cây, xe cộ, thành phố, vách tường, tiếng động, nơi đày ảnh, viên gạch, vây đèn, ngoại ô, ngõ xóm, vuốt nhọn, con chuột chù, dây diện, con đường, hẻm cụt, chuyến xe gia, mưa, bùn nhơ, mọi vật, khăn tang, đồi cỏ may, mùa hạ, chân đồi, màu đất xám, rễ cây kì lạ, hương thơm, chiếc khăn tang, mộ nàng, vòm trời, xác nàng, cây cỏ, gạch ngói, kim loại, trời cao.
-   Danh từ chỉ khái niệm trừu tượng: khoảnh khắc, kiếp buồn phiền, nơi đầy ải, cô đơn, sự khinh ghét, tiếng hát kỷ niệm, lời rên xiết, phía trái, bên phải.
b.                       Kí hiệu đơn (động từ)
Tách lìa, đáng ghét,  thù nghịch, bơ vơ, vượt ngục, hắt hủi, nguyền rủa, yêu đương mà không gặp, chứa chấp, cô đơn, chống chọi, ngó xuống, nhìn lên, thấy, trốn chạy, mơn trớn, buộc tội, xảo trá, bắt buộc, chới với, trôi xuống, khép kín, rã rời, thương tiếc, chít, cầm tay, rủ bỏ, nằm với nhau, trông vào mắt nhau, trôi cao, dần nhỏ lại, hóa tôi thành, khiếp hãi, nghe thấy, tỏa ra, quấn lấy, la lên, nghiêm khắc nhìn, còn đẹp, đắp mộ, liệm xác nàng, nở lên, héo mòn, trở vào, nhớ thương, đi bên, xuyên thủng, giày xéo, dửng dưng, run sợ, chối bỏ, sẽ gọi, dám cười, băng qua, sợ chết, đau đớn, nhớ.
ð     Những động từ biểu hiện cái gì đó đang dừng lại, đổ vỡ, tan rã, sụp đổ, sự chết è khởi nguyên ý hướng sáng tạo là sự hủy diệt, phủ định, đạp đổ è yếu tính của tâm thức sáng tạo là sự đảo hoán (một cuộc đảo chính của tâm hồn)
ð     Nỗi buồn trong thơ hôm nay: những vần thơ khóc liệt, dứt khoát và khước từ. Hay nói khác đi là nỗi buồn của sự ruồng bỏ. Chủ thể trữ tình ruồng bỏ tự ngã và thế giới để thực hiện một bước nhảy vọt hiện sinh. Bước nhảy vọt thể hiện đầu tiên ở nỗi ưu tư. Mỗi động từ trong bài thơ đều là một biến chuyển trong phương trời ưu tư Thanh Tâm Tuyền. Sự trăn trở, ưu tư là việc nhận mặt và hoài nghi những đổ vỡ, nguy biến và hỗn loạn của thực tại. Mà ở đó, người cũng là một thực tại nối liền. Con dã thú đã nhận ra sự lừa dối của cánh rừng. Con dã thú ra đi và cuối cùng trở lại lật đổ dối lừa bằng niềm thống hận trác tuyệt tiên phong. Bất chấp các mũi gai đâm xoạt vào ngực mình.
c.                       Kí hiệu đơn (tính từ)
Bỗng nhiên, đáng ghét, thù nghịch, bơ bơ, buồn phiền, hắt hủi, gớm ghê, lạnh lùng, gầy yếu, rối rắm, mơn trớn, xảo trá, chới với, mỏng, già, nhơ (nhuốc), rã rời, sầu muộn, hoang vu, bát ngát, xám, kì lạ, xa vời, nghiêm khắc, đẹp, yên tĩnh, êm ái, trơ trọi, sung sướng, héo mòn, sắt nhọn, dửng dưng, ngu muội, nặng nề, đau đớn.
Thanh Tâm Tuyền để con thế giới tự bộc lộ ra nó. Và ở đây thành phố hiện lên như một biểu tượng đầy ám ảnh. Cả thế giới chỉ là một thành phố sụp đổ không tránh khỏi mai hậu hoang phế và hư vô. Cái tương lai hư vô đổ vỡ của thành phố mà con người với nhân tính cũng là một phần không thể tránh trốn chạy đã được nhà thơ phát ra bằng các tín hiệu tính từ. Các tình từ nảy ra như cỏ dại mọc leo. Theo đó, thành phố mở ra cho người đọc là một đống hỗn hoang phế bừa. Vũ trụ luận Dionysus ngã gãy tan hoang. Thời của những kẻ man dại, những tên điên loạn lật đổ ngai vàng ổn định để bộ diện thế giới vỡ ra các u nhọt cho thấy sự gớm ghê máu mủ và bẩn thỉu của nó. Chỉ có cái chết thanh tẩy thành phố, thế nên em đã sung sướng để mà chết với mùa hạ và trời cao giữa vùng đồi hoang vu, còn anh đây, anh phải trở về héo mòn với thành phố. Để mãi hoài lưu đày biệt tích vào cõi thành phố sa mạc đương nhiên và không thể thoái lui, không còn lối thoát. Sống là bị quẳng ra đời và chống chịu. Đời sống vì thế là một kiếp lưu đày biệt xứ về một cõi nào kia xa tít vô bờ vô bến vô phương hướng.
2.2.                Cấp độ kí hiệu trung gian (nghĩa, câu, khổ)
-  Khổ 1: Tỉnh thức để giãy thoát
“Bỗng nhiên”, bắt đầu là một giây phút đột khởi như thế, khi cõi thế bỗng hiện ra trong sự đổ vỡ của nó, trong cảnh huống chia lìa của nó. Chính điều đó là cái gãy vỡ đầu tiên trong nhận thức của chủ thể trữ tình. Cũng chính ở đó, chủ thể bắt đầu lần theo dấu vết chia lìa để thực hiển sự trượt ngã vào cõi thế lưu đày. Do đó, lời thơ sau nữa là một loạt ồ ạt các danh từ/ảnh hình về thành phố (mặt nhà, chòm cây, xe cộ, thành phố…) lần hồi hiện ra. Giữa sự bàng hoàng ngã ngửa đó, chủ thể trữ tình đã bị sập bẫy trong sự thù nghịch của thành phố. Cũng như con thú một ngày bỗng nhận sự sự chia lìa không thể hàn gắn với khu rừng, với chính môi sinh mà nó đã hiện hữu. Sự thế buộc nó phải giãy thoát (kẻ tội đồ). Phải chăng đó là cái phức cảm của hiện hữu. Khi mà sự hiện hữu phát hiện ra sự có mặt của nó không được mong đợi. Người bị quẳng ra đời và người có đấy, nhưng có đấy như một tội đồ. Cả đời ôm lấy cái mặc cảm tội lỗi lê lếch khắp các nẻo lối cuộc đời. Mang cái mặc cảm ăn vay khóc mượn cuộc đời. Hơn thế, đó còn là cái mặc cảm và nỗi ám ảnh hư vô. Vì người đã từ chỗ hư vô mà hiện hữu, từ chỗ không có mặt mà thành ra có mặt ở đời. Nên vì thế mà người mang cái vực thẳm hư vô đó trên lưng như môt bản án. Rồi một ngày người nhận ra cái hố thẳm ở chính ngay mình. Đau điếng. Người đã trốn chạy. Sự giãy thoát bắt đầu từ chia cắt, lạnh lùng và sau rốt là trốn chạy. Người chạy khỏi những mũi nhọn xuyên đâm vào hiện diện của người. Chính hư vô của thành phố hùa với hư vô của tự ngã đã đánh đuổi khiến cho người hốt hoảng bỏ chạy khỏi vực thẳm hiện tồn.
-  Khổ 2: Xác lập sự phủ định và đảo hoán
Sau khi đã trốn chạy, người hoàn toàn và triệt để nhận ra sự giả trá hư ngụy của sự thể tồn lưu. Cho nên người nhìn thấy mỗi giọt lệ mỗi nụ cười chỉ là buộc tội chỉ là xảo trá. Đó là một sự chia lìa kiên quyết và dứt khoát. Dứt khoát chia lìa với sự ổn định và trật tự vốn có mà sinh hữu ban đầu dã bị giả ngụy lừa lọc. Sau khi đã nhận ra bản chất thực sự của cõi thế, người không thể nào quay đầu và trở lại với cái nhận thức ngây thơ ban sơ về sinh hữu. Không thể ! Người tuyệt nhiên không thể. Khổ thứ hai với các tín hiệu: Giọt lệ, nụ cười, buộc tội, xảo trá…đã trở thành lời tuyên bố đanh thép quy kết cho sự thể sinh hữu. Đoạn tuyệt ! Người đoạn tuyệt với chính sinh hữu mà người có mặt để thực hiện một cuộc đảo hoán, xét lại giá trị để cho các những giá trị mới hiện diện. Nhưng các giá trị mới chỉ có thể đâm chòi trên xác chết và nắm tro tàn của những giá trị hiện tại. Thế nên, đòi hỏi rõ ràng và cấp bách đó là người phải thực hiện đảo hoán.
-  Khổ 3: Hoài nghi và đảo hoán nhận thức luận
Và sự đảo hoán bắt đầu bằng lời truy vấn: “Tại sao”. Tác giả đưa ra một thông tin chắc nịch. Và câu hỏi là cây búa đanh chắc đập mạnh vào nhận thức. Lời truy vấn hay sự luận lý với cây búa để cây búa của Thần Thợ rèn (cũng là Thần Sáng tạo) có thể thực hiện chức năng khai mở. Và câu hỏi ấy, nó khai quật cả những vấn đề căn bản nhất. Thượng đế là một cái biểu đạt và cái được biểu đạt là bản thể luận của sinh hữu. Lật lại toàn bộ sinh thế, người bắt đầu tra vấn Thượng đế, nghĩa là người tra vấn chính cái bệ đỡ hay cái cứu cánh cho sự có mặt của sinh thể. Điều đó, chẳng khác nào người đập thẳng vào hư vô. Vì người hoài nghi Thượng đế nghĩa là người hỏi/người hoài nghi về sự chân thực của nó, thế nên người đã đập vào hư vô bằng việc đánh vào hiện hữu. Tại sao A phải là A mà không phải là B hay là một thứ gì khác. Chúng ta thấy cách luận lý lập thành phương pháp luận của người viết ở đây có điều gì đó tương đồng với Đệ nhất tính lý của Aristote, Đệ nhị tính lý của Bacon và Đệ tam tính lý của Ouspensky. Nhưng hẳn nhiên người vẫn chưa đạt đến tính lý của sinh thế bốn chiều và “n” chiều. Nhưng cách làm của người với nhận thức luận hiện thể là cách mà Ouspensky đã có thể làm để mơ hồ nhận ra một hằng hữu hư vô nào đó còn chân thực gấp vạn lần cõi thế mộng du ba chiều của chúng ta. Dù Thanh Tâm Tuyền hãy chưa đạt đến sự nhận thức như thế nhưng bằng cách phát đi các tín hiệu hoài nghi và đập vỡ các căn nguyên nhận thức để truy nguyên nhận thức, chúng ta cũng đã nhìn thấy một hiện thực bắt đầu lộ diện. Tất cả sự trá ngụy hiện ra: mỏng, cụt, già, nhơ nhuốc, khép kín, rã rời, thương tiếc. Người đã lột truồng cõi thế. Để nó hiện ra trong bộ dạng thê thảm kì cùng. Vậy mà người còn quăng đi một câu “ác nhân thất đức”: có nên thương tiếc chăng ? Người lột truồng sinh hữu và rồi quẳng cho nó một niềm thương hại mơ hồ, thà không có còn hơn, vì niềm thương hại trước sự trần truồng của cõi thế chẳng khác gì cười ồ vào niềm đớn đau bi đát của nó ? Thà không thương tiếc, thà phỉ nhổ trước thân thể lõa lồ gớm ghiếc của thành phố, của cõi thế này còn hơn.
-  Khổ 4: Hoài nghi và đảo hoán nhân sinh quan
Thế rồi, trước sự bi đát gớm ghiếc đó, người không còn gì níu kéo. Chẳng còn một cứu cách dù cho thân sơ thất sở. Vậy nên người tìm về với người đàn bà. Người tình và cũng niềm bất diệt hiện hằng. Người đàn bà là cái đẹp. Tín hiệu đẹp và tín hiệu đàn bà được phát ra song đôi khi mà niềm rã rời đã đỉnh điểm. Người trở lại với ngọn đồi hoang vu. Nhưng tình và mệnh, tình và đẹp cũng không thể trọn vẹn nổi. Vì người và người đàn bà kia vẫn không dám nhìn vào mắt nhau. Vì trời ơi ! Đôi mắt người và người đàn bà chít khăn tang, hai đôi mắt sâu hoắm đen ngồm như bóng tối vô cùng. Vẫn là dấu vết của hố thẳm hư vô. Càng trốn chạy hư vô, chạy cho đến bệ đỡ sau cùng vẫn còn thấy hư vô chồm ra nuốt lấy. Nên không dám nhìn vào mắt nhau. Một mối tình cần có nhưng định mệnh phải chia lìa. Lao về phía yêu nhưng trong chính cuộc yêu đã ẩn chứa sợ hãi và lưu đày. Thế nền tình yêu phải tan vỡ, tất cả mọi cuộc tình rồi sẽ tan vỡ và không có gì khác ngoài một nghĩa đớn đau. Người và đàn bà đẹp cô đơn trên chính cuộc tình của hai người. Và trái tim, đôi mắt, tócnắm tay tất cả lại trở thành một trói buộc khôn lường, trở thành sự níu bện của hư vô và người thấy thân người mọc ra những rễ cây kì lạ. Nói khác đi, thứ rễ cây kì lạ kia là một biểu hiện của phi lý. Người ta vẫn luôn tìm cách cho mọi thứ có nghĩa. Nhưng mọi thứ chỉ có nghĩa trong sự đối sánh với vô nghĩa phi lý. Thế nên, chung quy, sự phi lý vẫn giăng đầy và chất ngất trên ngọn đồi bát ngát. Một trời yêu chỉ là tiếng hát xa vời của kỷ niệm. Đến nỗi người la lên: sau sự la ó đó, các tín hiệu tiếp theo xuất hiện bắt đầu nghiêng dần về sự chết và hủy diệt: độc ác, giết chết, đắp mộ, liệm xác, rên xiết. Thơ của Thanh Tâm Tuyền có lẽ là bản giao hưởng rền trời của niềm đau, tủi hờn, cô độc và nỗi buồn bất tận của một chân trời sụp đổ quay cuồng. Nỗi buồn và tận diệt là bản thể khởi tạo của tất cả các tín hiệu thẩm mỹ được phát ra. Thế nên mỗi tín hiệu có mặt trên dòng thơ đều có ít nhiều màu đen khóc liệt trên tấm áo tử thần.
-  Khổ 5: Tái xác lập và khẳng định vũ trụ luận của “Mọi”
Như con chuột chù cùng đường thoái lui, người đã trở vào thành  phố. Tất nhiên, cuộc phủ định đi đến tận cùng của nó là khẳng định. Người đã đạp đổ và lột truồng sinh hữu. Thế nên đã đến lúc người quay lại nhìn lấy nó, ôm lấy xác nó lên trên hai tay và chấp nhận tất cả sự hỗn độn của cuộc đời. Người phải xác lập lại dựa trên đống tro tàn và những phế tích mà sự tận diệt không thể nguy hại. Đó là tự do. Cái chết không thể đạp đổ và nuốt chửng tự do. Hư vô về cơ bản là một siêu tự do. Thế nên, từ bỏ và trốn chạy hư vô, đồng thời người từ bỏ tự do. Sự đảo hoán chỉ bắt đầu khi người nhận ra sự tự do cơ bản đó. Người tự do sống, tự do chết. Và người phải nắm lấy đều đó để tái xác lập, để thành toàn cho cuộc đảo hoán mà người đã dứt khoát ngã vào. Cuộc lưu đày phải tiếp tục. “Tôi đi bên phía trái”. Dứt khoát, đường hoàng và mạnh mẽ, trên con đường lưu đày giữa hai bờ sinh diệt. Chính vì điều đó,người ta đã gai mắt và muốn giết chết người. Nhưng người đã vượt lên trên cái tập thể quần chúng ngu si và trì độn trong niềm cô độc đớn hèn và tệ lậu của đời sống dối lừa, người vượt lên trên nó bằng cách nhận ra nó. Thế nên, người đã dửng dưng bước đi bên lề trái đến nỗi, người khiến cho đám quần chúng phải run sợ. Người chấp nhận số mệnh của “Mọi”. Và ở ngay phút ấy, trên con đường người bước đi, người đã là “Mọi”. Kiếp số của những kẻ bên lề và ngoại biên, kiếp số của những kẻ bị vứt đi. Người ta gọi mọi là bọn li khai và thích đập phá. Mọi muốn nói là không mấy kẻ dám đập phá để xác lập lại một hệ giá trị khác/một hệ giá trị mới. Và Mọi phải chăng là những kẻ sẽ khai mở ra một vụ trụ luận mới. Bọn Mọi tiến bước vào vũ trụ Dionysus một cách hân hoan, mặc cho gai nhọn, mặc cho thân người bị bủa vây trong kim loại và sự vây hãm của đám quần chúng thây sống vô nghĩa.
2.3.                Cấp độ kí hiệu cực cấp (mô hình nghệ thuật)

3.                       Kết luận

Bằng cách sử dụng ngôn từ một cách độc dáo và khả năng sáng tạo các hình ảnh siêu thực, Thanh Tâm Tuyền đã xây dựng một vũ trụ thơ hỗn độn trong tinh thần Dionysus.
Nỗi buồn trong thơ hôm nay và Nghệ thuật đen có thể nói là tuyên ngôn thơ của Thanh Tâm Tuyền nhưng cũng có thể nói là tuyên ngôn thơ của một thời đại. Bởi ở đó và các sáng tác của người viết đã thực sự tiêu biểu cho chủ tính thơ của một giai đoạn văn học. Tính chất tiên phong của Thanh Tâm Tuyền ít nhiều sẽ để lại những thành tựu đáng kể cho thi ca Việt Nam.
Dưới góc nhìn kí hiệu học, thơ Thanh Tâm Tuyền đã hiện ra như một bản giao hưởng hoành tráng. Ở đó, các kí hiệu hay các tín hiệu được phát ra và vang lên trong sự va đập lẫn nhau. Sự nghĩa của thơ được lập thành trên các cuộc va đập đó. Sự va đập ngôn ngữ không chỉ phổ biến trong bài thơ Thành phố mà còn có thể được tìm thấy trong rất nhiều bài thơ khác của Thanh Tâm Tuyền ở hai tập Tôi không còn cô độcLiên.Đêm.Mặt trời tìm thấy.
Chung quy, dưới góc nhìn kí hiệu học, chúng ta có thể khai mở vào lối thơ Thanh Tâm Tuyền và soi thấy ở đó nhiều trắc diện thú vị. Hẳn nhiên, mỗi góc nhìn đều ẩn chứa trong nó những ưu điểm và nhược khuyết. Kí hiệu học là cái nhìn “vi mô” đối với thơ (một lối phân tích lý tính đối với thơ). Tuy nhiên, thơ là cái gì tổng lực, một nguồn tác động toàn triệt tròn đầy không thể tháo rời. Đi từ kí hiệu đơn đến kí hiệu cực cấp chung quy cũng là đi từ vi mô đến vĩ mô, đi từ chiều sâu phân mảnh đến bề rộng quy mô toàn ứng của thơ. Do đó, dưới góc nhìn kí hiệu, nếu sa vào phân tích, chia tách, xe nhỏ thông thường sẽ dẫn đến việc giết chết thơ. Đó cũng là một điều cần lưu ý trong việc phân tích thơ dưới góc nhìn kí hiệu học vậy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
11. Thanh Tâm Tuyền. (1964). Liên Đêm mặt trời tìm thấy. Saigon: Sáng Tạo xuất bản, tr.86-89.
22. Thanh Tâm Tuyền. (1972). Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay (1959, in lại). VĂN (số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền). Sài Gòn: Nguyễn Đình Vượng.
3.      Thanh Tâm Tuyền. (1959). Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay. Saigon: Sáng Tạo xuất bản, tr.5.
5.      http://vietmessenger.com/books/?title=nghethuatden



[1] Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay, 1956, in lại trên VĂN số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền tháng 10/1972.
[2] Thanh Tâm Tuyền. “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay”. Sáng Tạo, 31, 9-1959, tr. 5.
[3] http://vietmessenger.com/books/?title=nghethuatden

Comments

Popular posts from this blog

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO. QUYỀN LỰC. NHÂN TÍNH

  Loạt bài: TỪ DỊCH NHÂN LUẬN ĐẾN HẬU NHÂN LUẬN *** Kỳ 2: TRÍ TUỆ NHÂN TẠO. QUYỀN LỰC. NHÂN TÍNH (Võ Quốc Việt) Cuộc chạy đua trí tuệ nhân tạo cho thấy đằng sau đó cuộc chạy đua quyền lực với tham vọng bá chủ thế giới (chí ít cũng “tiểu cường”) với chiêu bài tự vệ hoặc chiêu bài bảo vệ hòa bình công lý. Các nhà khoa học và các nhà kinh doanh với tâm thế lạc quan về AI: hoặc là kẻ ấu trĩ về quyền lực hoặc là kẻ cố tình dối mình dối người buông ra những lời xảo trá. Lợi ích mà AI mang lại hầu như hiển nhiên, điều đáng nói là mang lại ích lợi cho ai? Liệu AI có thể trở thành công cụ để một số ít người “thuộc địa hóa”, “nô lệ hóa” con người ở cấp độ tiên tiến hơn hay không? Chưa ai dám trả lời chắc chắn câu hỏi này. Nhưng thay vì trả lời câu hỏi này, bạn có thể thử nghiệm lại: từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đến nay, tần suất xảy ra chiến sự, tranh chấp tăng hay giảm; mức độ quy mô phạm vi của chiến sự và tranh chấp ấy tăng hay giảm; và hiện nay số cuộc chiến đang di...

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...