MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC – VÔ THỨC – TIỀM THỨC TRONG TRUYỆN NGẮN “BUỔI SÁNG TRONG VƯỜN CÂY XANH” CỦA DƯƠNG NGHIỄM MẬU
MỐI
QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC – VÔ THỨC – TIỀM THỨC TRONG TRUYỆN NGẮN “BUỔI SÁNG TRONG VƯỜN
CÂY XANH” CỦA DƯƠNG NGHIỄM MẬU[1]
Mở đầu
Văn học đô thị miền Nam
1954-1975 với nhiều cây viết nổi bật trong bối cảnh giao lưu văn hóa Âu Mỹ đã
có điều kiện tiếp thu các trào lưu tư tưởng khác nhau. Không dừng lại ở việc
nghiên cứu và đưa các trào lưu tư tưởng Âu Mỹ du nhập vào Việt Nam, việc giao
lưu này còn thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sáng tác. Bên cạnh trào lưu Hiện
sinh chủ nghĩa thì ảnh hưởng của Phân tâm học đối với sáng tác văn chương cũng
khá nổi bật. Vấn đề tính dục và những lí giải của giới văn chương về hành vi
nhân vật cho thấy sự ảnh hưởng quan niệm của S. Freud và C. Jung đối với việc
xây dựng tác phẩm văn học. Có thể nói, văn học đô thị miền Nam đã có cái nhìn
trực diện và triệt để đối với việc khai thác và chuyển tải khía cạnh tính dục
cùng những ẩn ức và phức cảm trong đời sống tinh thần con người. Do dó, các
sáng tác văn chương ngày càng khai mở thêm những khoảng tối mà trước đây gần
như là cấm kị của giới cầm bút. Những sáng tác của Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình
Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Túy Hồng, Nhã Cã, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn
Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Duy Thanh, Hoàng Hải Thủy, … với vấn đề tính dục không chỉ
là tiếng nói phản ánh tâm tư con người thời đại bấy giờ mà còn dẫn người đọc đến
với những tầng bậc sâu kín của con người nói chung. Với ý hướng đó, bài viết đến
với sáng tác của Dương Nghiễm Mậu từ góc nhìn Phân tâm học nhằm mục đích khám
phá giá trị nhân sinh được gửi gắm trong tác phẩm.
Về cơ bản, quan niệm của
Freud mà chúng ta có thể nói về vô thức, đó là tất cả những gì bị dồn nén do sự
khước từ của ý thức. Do thế, vô thức phần nhiều là những gì có xu hướng trái
ngược với ý thức.
Giữ vô thức và ý thức có một
bước trung gian trong quá trình tương tác. Khi các dồn nén bị đẩy về vô thức
thì một số các ấn tượng này có khuynh hướng lặng sâu hơn và trở thành các biểu
tượng mang tính ý hướng của tiềm thức; trong khi đó, một số có khuynh hướng
trào ngược về ý thức trong những lúc ý thức yếu nhược hoặc “lơ là” kiểm soát.
Đó là tiền ý thức (pre-conscious). “Về bản chất, theo quan điểm của Freud, vô
thức là tất cả những nội dung bị loại khỏi ý thức bởi quá trình mà ông gọi là sự
dồn nén (repression). Đó có thể coi như là các kí ức đang bị kìm giữ tích cực
ngoài ý thức và chỉ trở thành ý thức với rất nhiều cố gắng của chủ thể. Khác với
tiền ý thức (pre-conscious) dễ dàng được ý thức hoá như việc chủ thể có thể dễ
dàng nhớ số tên bạn bè, tuổi tác, công việc, số điện thoại… vô thức hoàn toàn
không dễ dàng xuất hiện ở ý thức như vậy”[3].
Có thể nói, ý thức và vô thức
luôn tồn tại mối quan hệ giữa hai khuynh hướng đối lập. Và do đó, để các ấn tượng
bị dồn nén có thể “hoán vị” quay trở lại ý thức cần có một quá trình lâu dài
khi sự dồn nén tích tụ đủ năng lượng. Hay nói khác đi, khi những dồn nén bị kéo
dài, khi mà vô thức đủ sức “gây rối” như con tiểu quỷ không ngừng rủ rỉ vào tai
của ý thức. Khi sự thỏa mãn bị hạn chế đủ lực, cái đó sẽ trỗi dậy mãnh liệt.
Các dồn nén càng lâu, càng nhiều thì sự trỗi dậy càng mãnh liệt.
Trong cuộc sống hàng ngày,
con người bị hàng loạt các quy phạm xã hội và những cấm kỵ cơ bản hạn chế ham
muốn và khao khát. Tuy nhiên, lắm khi khuynh hướng bị ức chế lại ức chế trở lại
ý thức và siêu thức. Điều này lí giải cho những hành động mang tính triệu chứng,
thậm chí là nguồn gốc gây ra những rối loạn tâm lý. Và vấn đề này đặc biệt có ý
nghĩa đối với việc phân tích hành vi nhân vật trong tác phẩm văn học. Vì về
khía cạnh bệnh học thì hầu như những nhân vật văn học đa phần điều là những
“con bệnh” tâm lý, ít nhiều có những biểu hiện của chứng bệnh rối loạn thần
kinh (hysteria, tâm thần phân liệt, rối loạn hành vi cảm giác, ám ảnh cưỡng bức,
chứng sợ kinh niên, ….)
“Như vậy, chúng tôi nói rằng
các yếu tố tâm trí ẩn tàng, tức là mang tính vô thức theo nghĩa mô tả chứ không
theo nghĩa động học, là những yếu tố tiền ý thức, và chúng tôi dành thuật ngữ
vô thức để chỉ những yếu tố tâm trí bị dồn nén, nghĩa là vô thức về mặt động học”[4].
Theo đó, Freud cho rằng giữa vô thức và tiền ý thức (pre-conscious) kì thực
không phải là hai vấn đề khác nhau. Đó chỉ là sự phân chia trên phương diện mô
tả và phương diện động học. Ở khái niệm tiền ý thức, Freud cho thấy cơ chế tạo
thành vô thức cũng như cơ chế tương tác ngược trở lại ý thức. Thế thì có một vấn
đề đặt ra là: cả tiền ý thức và tiềm thức thường tác động dễ dàng đến ý thức
nhưng ảnh tượng của nó lại khá mờ nhạt. Vậy thì, đâu là sự phân biệt giữa tiền
ý thức và tiềm thức (sub-conscious). “Sự khác biệt nằm ở tiền ý thức
(pre-conscious) và tiềm thức (sub-conscious). Tiềm thức thường được coi là một
quá trình tinh thần không thuộc ý thức nhưng có thể dễ dàng được ý thức. Nhưng
tiền ý thức thì ngược lại, đó là một quá trình không thuộc vô thức nhưng cũng
không thuộc về ý thức, đó là một khâu trung gian trong quá trình chuyển biến từ
vô thức thành ý thức”[5].
Chúng ta đã nói về mối quan
hệ giữa ý thức, vô thức và tiềm thức. Vậy thì nội dung của các thuật ngữ đó là
gì ? Trước tiên, như đã nói, vô thức như phần chìm của tảng băng. Thường thì ý
thức là 1 phần nổi, còn vô thức là 9 phần chìm, trong khi tiềm thức chính là
đáy hồ trầm tích chất chứa. Trong vô thức, đó có thể là những tổn thương đã từng,
những chối bỏ thực tại hoặc những căng ứ của bản năng. Ngoài ra, đó còn là những
điều cấm kỵ đi ngược lại quy phạm và ràng buộc xã hội. Do đó, vô thức luôn là
phần mờ khuất mà ít khi chúng ta hình dung được đường biên của nó. Trong khi
đó, tiềm thức chỉ là các biểu tượng mang tính ý hướng mà thôi. Chung quy, ý thức
thì hạn hẹp, vô thức thì hỗn độn, tiềm thức thì mơ hồ. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng
của vô thức và tiềm thức đến hành vi con người là điều hoàn toàn sáng rõ.
Theo đó, Freud phân chia
tâm trí thành ba phần: bản năng[6],
bản ngã và siêu ngã. Cụ thể, bản năng là những ham muốn sinh lý (bản năng sống)
và ý hướng tận diệt khi gặp kích ứng trái chiều (bản năng chết). Bản ngã là phần
thức nhận giúp con người phân biệt với tha nhân. Phần chủ yếu của nó là ý thức
phản tư. Siêu ngã là cái lý tưởng, vượt lên trên những cấm kỵ cũng như những hạn
hẹp của bản ngã. Siêu ngã có tính chất dẫn đạo đối với hành vi sống của con người.
“Siêu ngã biểu hiện qua lương tâm, cái tôi lý tưởng, và những giá trị đạo đức
văn hóa, tôn giáo. Mục đích của siêu ngã là chống lại phi ngã và điều khiển bản
ngã”[7].
Trong ba bộ phận đó, bản năng là cái bị áp chế nhưng nó đóng vai trò như năng
lượng nguồn thúc đẩy ý hướng hành động của con người. Nó như một ngọn núi lửa
chực chờ bùng phát. Căng tràn năng lượng, sẵn sàng đẩy con người đến chỗ thỏa
mãn một cách trực tiếp và tức thì. Nó gây ra nhiều vấn đề hơn cả, gây ra bức
bách hơn cả. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của nó trong
việc thúc đẩy hành vi sống.
Trong mối tương quan đó, bản
ngã là kẻ đứng giữa. Một mặt bị phi ngã chi phối. Nó luôn phải lắng nghe tiếng
kêu thúc giục và những đòi hỏi thường xuyên không ngơi nghỉ của phi đã, đồng thời
nghe thấy tiếng phán truyền mang tính giới luật của siêu ngã. Và đôi khi bản
ngã rơi vào trạng thái “đứng máy” (tê liệt) do những rối loạn từ cả hai phía
gây nên. Đây chính là nguồn gốc của những rối loạn thần kinh ở đời sống tinh thần
con người.
Tóm lại, phần đầu của bài
viết chúng tôi muốn trình bày những vấn đề cơ bản về mối tương quan và nội dung
của các khái niệm: ý thức, vô thức, tiềm thức như là những gợi mở nền tảng cho
việc nắm bắt hành vi nhân vật ở một tác phẩm cụ thể.
Từ đó, chúng tôi đến với
tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu. Truyện ngắn “Buổi sáng trong vườn cây xanh” nằm
trong tập “Sợi tóc tìm thấy” là một câu chuyện đậm màu sắc tính dục. Tuy nhiên,
điều làm chúng tôi quan tâm chính là những giằng xé nội tâm bắt nguồn từ sự ảnh
hưởng qua lại giữa ý thức, vô thức và tiềm thức ở nhân vật (đặc biệt là nhân vật
nữ). Và những điều này sẽ được trình bày ở phần tiếp theo của bài viết.
2.
Vấn đề “cái đó” hay Bi kịch gia đình trong
truyện ngắn “Buổi sáng trong vườn cây xanh”
Có thể nói, kéo dài suốt
toàn bộ câu chuyện là màn đối thoại giữa Phương và nhân vật tôi. Thông qua màn
đối thoại kéo dài từ đầu đến cuối truyện, những bi kịch gia đình được mở ra. Bằng
cách sử dụng đối thoại, nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã khéo léo thể hiện những tấn
bi kịch cả từ góc nhìn bên trong và bên ngoài, cả từ phía người trong cuộc và
người ngoài cuộc. Bi kịch ở đây hay là sự trỗi dậy của cái đó thể hiện qua những
ham muốn mãnh liệt dưới sự trấn áp yếu ớt của siêu ngã đã gây ra trạng thái bất
ổn trong hành vi. (Biểu hiện của trạng thái bất ổn lo âu kia là: sự chối bỏ,
thay thế, huyễn tưởng, đồng nhất hóa, phóng chiếu, hợp lý hóa, di chuyển, thoái
lui, dồn nén, thăng hoa. (Hồ Thế Hà, 2000)).
Phương – cô gái trong câu
chuyện có ba là một người đàn ông trầm tĩnh, sống trong mộng tưởng và những thiết
chế quy phạm xã hội buộc ông phải cao thượng và bao dung. Ông lại quá già với một
người vợ quá trẻ. Mẹ Phương – một người đàn bà trẻ trung yêu thơ Tương Phố, đã
từng mộng làm thi sĩ, sống thiên về cảm xúc và rung động (thậm chí khá bản
năng). Bà không thể chịu được những quy phạm đặt để cảm xúc con người và đã rơi
vào mối quan hệ tội lỗi với em chồng. Chú Khang của Phương lại là một người đàn
ông hèn nhát, lấy chị dâu nhưng lại quay lưng, cầu cho chị dâu chết đi để cưới
một cô gái trẻ măng. Nhưng lẩn khuất đâu đó, lại là một vòng tuần hoàn của bi kịch,
nghĩa là chú Khang sau này cũng sẽ nhận lãnh cái bi kịch y hệt những gì đã gây
ra cho anh trai. Nghĩa là cô vợ trẻ của chú Khang sẽ lại ngoại tình với một người
thân tộc. Sự quả báo của bản năng.
Tuy nhiên, trái với nội
dung ảm đạm, buồn bã và đau đớn của truyện là tiêu đề tràn đầy sức sống và màu
sắc tươi mới. “Buổi sáng trong vườn cây xanh”. Buổi sáng là giây phút trời đất (âm
dương) giao hòa. Khí hạo nhiên tràn lấp không gian. Hơn thế nữa, “trong vườn
cây xanh” là một cụm từ chỉ địa điểm và màu sắc. Lại cũng là những thông tin
cho thấy sức sống căng tràn, nhựa sống tươi trẻ, phơi phới. Phải chăng dụng ý của
nhà văn muốn lấy tiêu đề để tương phản lại nội dung ảm đảm, hay đó chính là
cách mà ông tư duy để lí giải cái bi kịch dàn trải trong toàn bộ câu chuyện.
“Buổi sáng trong vườn cây xanh”, khi trời đất giao hòa còn gợi nhắc đến bản
năng sống (năng lượng dục tình sinh sôi). Có lẽ chính ở tiêu đề của truyện,
chúng ta có cách nhìn nào đó về vấn đề bản năng sống và có thêm góc tham chiếu
về căn nguyên bi kịch của những nhân vật trong câu chuyện.
Như đã nói, biểu hiện của
những bi kịch tinh thần do yếu tố ham muốn mãnh liệt bị dồn nén bởi ý thức yếu ớt.
Và một trong số những biểu hiện đó chính là sự phủ nhận và chối bỏ. “Em không
muốn thế, em muốn mẹ em là một người thật già, tóc bạc, miệng móm, lưng còng,
nhưng không được, mẹ em lại là một người trẻ…quá trẻ. Bà trẻ hơn ba em nhiều
quá, những người đàn ông bao giờ cũng già trước tuổi, em lại muốn ba em thật trẻ,
nhưng cũng không được … nếu ba em trẻ bằng chú em thôi, hay trẻ hơn nữa, anh biết
chú em không nhỉ ?”[8]. Ngoài sự
chênh lệch về tuổi tác và ham muốn giữa ba và mẹ Phương, còn có sự lệch pha về
ham muốn và quan niệm sống. Mẹ Phương sống thiên về bản năng và coi trọng xúc cảm,
trong khi ba của Phương sống thiên về siêu ngã, trọng cái lý tưởng và những quy
phạm xã hội. Cuộc hôn nhân của họ đỗ vỡ không chỉ do lệch pha ham muốn, không
chỉ bắt nguồn từ người vợ lăn loàn, loạn luận ham muốn quá độ, mà còn do bất đồng
về quan điểm sống. Trong khi đó, chúng Khang trẻ hơn ba rất nhiều, chú và mẹ
Phương cùng gặp nhau ở cái dục năng căng cứng nhục dục. Cái vô thức vốn bị kiềm
chế được xổng chuồng. Họ đến với nhau, bất chất loạn luân, bất chấp dư luận, bất
chấp mọi thứ quan hệ xung quanh. Khốn nạn hơn là mọi người vẫn giữ sự bảo toàn
cho bản ngã và chấp chịu bi kịch đó một cách ngấm ngầm. Chỉ có cái chết của mẹ
giải quyết được mớ hỗn đỗn giữa bản năng, ý thức và những quy phạm xã hội thuộc
về siêu thức.
Tuy nhiên, có một điều thú
vị cần nói về sự tương tác giữa ý thức, vô thức và siêu thức ở câu chuyện này của
Dương Nghiễm Mậu. Đó là cách mà ông khắc họa nó ở nhân vật. Đó là việc ông chọn
nhân vật để khai thác. Bởi bi kịch bản năng và vô thức chủ yếu xảy ra ở ba người:
Mẹ, Ba và chú Khang; nhưng nhà văn lại lựa chọn nhân vật Phương, người con gái
trong gia đình để khai thác. Bởi nhân vật này nằm trong mối quan hệ thân thiết
với cả ba nhân vật trên. Điều này có nghĩa là hơn ai hết, nhân vật phương là
người bị mắc kẹt trong mối quan hệ loạn luân, đạp đổ luân thường đạo lý của mẹ
và chú. Phương lại càng căm phẫn hơn vì sự yếu hèn bạc nhược và cái lý tưởng giả
tạo của ba. “Em không thích chú em cũng như ba em, em không thích một người nào
cả. Em thấy ba em là một người hèn nhát, bất lực, yếu đuối, một người đàn ông
đâu như thế được. Em thấy chú em cũng chẳng khác ba em bao nhiêu, dáng trẻ khiến
cho em thấy đó là một người tàn nhẫn xốc nổi, một người không có gì trong đầu
mình. Còn ba em là một người có nhiều điều trong đầu quá khiến ông không sống
được gì ngoài những ảo tưởng ông mơ mộng”[9].
Thật vậy, người nhìn thấy và chịu đựng tất cả bi kịch ê chề này hóa ra lại là
Phương.
Nhưng sự mắc kẹt của Phương
không chỉ xuất phát từ mối quan hệ ruột thịt với ba nhân vật kia mà Phương còn
mắc kẹt trong chính tư tưởng của mình. Bởi với cương vị một người con của gia
đình, cô không thể tha thứ cho mẹ, thậm chí muốn mẹ chết đi. Với cương vị một
người con, Phương cảm thấy thù hằn chú Khang và khinh miệt ba mình. Thế nhưng,
với cương vị một người phụ nữ, Phương lại thấy thương mẹ đến vô cùng. Phương vừa
muốn cứu mẹ vừa muốn mẹ mình phải nhận lấy cái tội trạng loạn luân mà bà đã gây
ra hoặc ít nhất đã chung tay gây ra. Bản năng của một người con gái, bản năng sống
và yêu cùng với cái nữ tính của một người con gái khiến cho Phương có thể hiểu
và thương mẹ của mình; nhưng với cương vị một người con có mẹ loạn luân, một
người con có cha hèn nhát, một người cháu có chú đốn mạt, Phương không thể tha
thứ cho mẹ. Đó chính là sự giằng co giữa ý thức và siêu thức. Và Phương đã khóc
khi biết mẹ muốn tự sát trong đám cưới của chú Khang, cô đã muốn quát thẳng vào
mặt chú vì sự đốn mạt bẩn thỉu của một thằng đàn ông lấy chị dâu nhưng quay
lưng mặc kệ chị dâu kề cận cái chết, mặc kệ kẻ đã chung chạ xác thịt với mình để
đi lấy một người đàn bà khác chỉ vì sự ham muốn đối với nhan sắc trẻ trung tạm
bợ. Rồi cô lại tức tưởi đến uất nghẹn vì cả nhà thừa biết mẹ sẽ chết, thừa biết
mẹ sẽ uống thuốc tự sát, nhưng cả nhà đều im lặng, giả vờ không hay biết. Chú
Khang hăng hái hơn cả khi thấy chị dâu uống thuốc đủ lâu để ngấm thuốc và bác
sĩ không thể cứu vãn, chú hăng hái đưa chị dâu vào bệnh viện. Nhưng cả nhà lại
một phen thất vọng vì mẹ chỉ uống thuốc bổ quá liều đến mức ngất đi. Sau phép
thử đó, mẹ Phương đi lấy chồng.
Ngược lại ở trường hợp của
ba, Phương lại càng căm tức hơn. Nhưng Phương căm tức ông, không có nghĩa là cô
không hiểu cho ông. Kì thực Phương hiểu và thương ba vô cùng. Bởi cô biết, ở ba
là sự trùng điệp đè nén của siêu thức. Ba cô quá lý tưởng, sống trong sự bảo bọc
của quy phạm xã hội. Và trong vòng vây thít chặt của khuôn phép xã hội, ông cảm
thấy an toàn. Nhưng sự an toàn của ba là nỗi khổ niềm đau trong lòng Phương.
“Em nghĩ không có gì sỉ nhục, đau đớn cho một người đàn ông nhiều mộng tưởng mà
phải chứng kiến vợ mình là một người ngoại tình. Người khác người ta có thể giải
vây cho mình bằng hành động, bằng trả thù, bằng thanh toán, ba em không làm được,
khiến cho ông thêm ẩn ức, cay đắng và chìm xuống như đời sống một triết nhân. Nếu
ông trả thù được, cáu giận, giết người được thì ba em đã khác, em vẫn không hiểu
được tại sao ba em lại không hề la rầy, đánh chửi hay giết mẹ em”[10].
Ở ba Phương, cái siêu thức hoàn toàn đè bẹp vô thức. Nhưng đâu đó, dù cái bản
năng không hề thể hiện ở đâu nhưng sự chìm khuất của bản năng vào miền vô thức
không có nghĩa là nó tan biến. Bởi khi nhận lấy thảm cảnh vợ mình ngoại tình với
em trai ruột thì cái vỏ bọc lý tưởng của ông ít nhiều cũng đã bị đánh động. Sự
rung chuyển đó, ông vờ như không và trông chờ vợ chết. Điều này cho thấy ẩn ức
bị chìm khuất cũng thò ra cái đuôi tiểu quỷ muốn dìm chết vợ nhưng cái vỏ lý tưởng
kia vẫn còn đủ kiên cố để buộc ông diễn tròn vai của mình trong gia đình.
Đứng trước bi kịch đó,
Phương muốn say. Bởi cơn say có thể là cái cớ hoàn hảo cho Phương có thể phơi
bày bi kịch gia đình giữa đám đông dòng họ chúc tụng mừng cưới. “Hôm đó khi ở
nhà em định tâm khi tới đám cưới em sẽ giả điên mà nói vào mặt chú Khang: “Chú
là một thằng đểu, một thằng chó má, một thằng tồi tệ, chú quên chú đã ngủ với
chị dâu rồi lại mong cho chị dâu chết để lấy vợ, chú nhớ không, chú nhìn lại
xem ai đây, ai là người nói với chú đây, chú thử nhìn vào mặt vợ chú xem chú có
dám nhận đó là sự thật không ?”[11]
Cả gia đình ai cũng biết mẹ Phương mua thuốc độc để sẵn trên bàn nhưng ai cũng
làm ngơ và chờ đợi. Cả gia đình chờ đợi mẹ Phương tự kết liễu cuộc sống để chấm
dứt tấn thảm kịch ê chề của gia đình. “Cái gì cũng là cuối cùng hết, em vừa
nghe vừa cười thầm; em biết mẹ em đang đóng kịch để xem phản ứng trong nhà ra
sao. Mọi người lặng lẽ như chờ đợi. Chắc ai cũng nghĩ rằng mẹ em tự tử vì không
còn được chú Khang yêu nữa sau khi đã phản đối việc chú Khang cưới vợ, và tất
nhiên trong nhà mong cho mẹ em chết, chết cho mọi người khỏi khổ tâm, khổ tâm
vì danh dự của một gia đình, danh dự của một người chồng, của một người em chồng,
của một người con có mẹ loạn luân…”[12].
Sự áp chế của siêu tôi và những cấm kị nguyên sơ trong tâm thức người về việc hạn
chế loạn luân. Đây là những cấm kị cơ bản. Bi kịch bắt nguồn từ những cấm kị
nhưng cũng chính ở chỗ cấm kị đã làm thành bi kịch trong những mối quan hệ gia
đình được xây dựng trên quy phạm xã hội. Về khía cạnh này, gia đình cơ bản là một
bi kịch.
3.
Bản năng yêu và bản năng chết trong truyện ngắn
“Buổi sáng trong vườn cây xanh”.
Trong tập bài giảng về Phân
tâm học và văn học, PGS.TS. Hồ Thế Hà đã trình rất sáng rõ và mạch lạc vấn đề bản
năng: “Theo Freud, bản năng có các đặc điểm sau:
1. Bị kìm nén, là nguồn động
lực, là sức mạnh cho mọi hoạt động.
2. Nó có mục đích hướng đến
mọi sự thỏa mãn trực tiếp hoặc gián tiếp.
3. Bản năng hướng đến khách
thể. Bản năng đòi hỏi khách thể phải thỏa mãn ngay lập tức và trực tiếp. Khách
thể bên ngoài là khách thể của bản năng.
4. Bản năng chi phối toàn bộ
hoạt động tâm thần của con người”[13]
(*) Bản năng yêu/ sống
Ban đầu ý tưởng về bản năng
sống dựa trên cơ chế “tôi muốn” của Freud đã gây ra nhiều hoang mang cho học
trò. Bởi ở thời bấy giờ giải thích hành vi sống của con người dựa trên cơ chế
ham muốn gần như là một điều xa lạ, thậm chí đi ngược lại quan niệm Thiên chúa
giáo khá phổ biến thời bấy giờ. Ít nhiều quan niệm của Freud đã đánh động vào
quan niệm đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, bằng những lí giải và minh chứng xác
thực, Freud đã cho thấy hành vi người có động cơ từ những ham muốn sinh lí
(tính dục) và những ham muốn cơ bản để duy trì sự sống. Có thể nói gọn lại bản
năng sống bao gồm bản năng sinh tồn và bản năng duy trì nòi giống. Điều này có
vai trò cố nhiên trong sự phát triển của chủng loài.
Nhiều người đương thời và
thậm chí sau đó còn hiểu lầm khái niệm của Freud về vấn đề tính dục. Libido nói
đến ham muốn trong việc thỏa mãn tình dục, tuy nhiên, đó còn là những ham muốn
nói chung (thể hiện nhu cầu của con người cả về phương diện tinh thần lẫn thể
xác, cả về phương diện tự nhiên lẫn xã hội). Chính thế, dục năng có thể hiệu rộng
hơn là năng lượng sống chứ không hề xoay quanh chuyện chăn chiếu xác thịt đơn
thuần[14].
Chính ở sự lí giải này,
chúng ta có thể tìm thấy nguồn cội hành động của mẹ Phương. Vì rằng ở người đàn
bà này, ngoài ham muốn xác thịt vì sức trẻ căng tràn lại phải ở với một người
chồng già nua yếu nhước, thì nhu cầu về tinh thần của bà còn đáng sợ hơn nữa.
Đáng sợ hơn nữa là nhu cầu tinh thần đó lại mang tính quyết định. Bà yêu thơ
Tương Phố và có ý định trở thành một nhà thơ, nếu không lấy ba Phương, có lẽ bà
đã trở thành thi sĩ. Điều này cho thấy, nhu cầu về một cuộc sống hôn nhân với đầy
ắp cảm xúc đối với bà là rất lớn. Bởi một người chồng không đơn thuần là một kẻ
đứng tên về mặt xã hội để hợp thức trong chuyện quan hệ xác thịt. Chồng còn là
người lấp đầy cuộc sống tinh thần với những đòi hỏi tế vi nhạy cảm hơn thế nữa.
Một người đang ông chịu sự kiềm kẹp thái quá như ba Phương rõ ràng không thể
đáp ứng được nhu cầu tinh thần của bà. Thành ra, nhu cầu phiêu lưu về xác thịt,
cái nhu cầu cùng nhau trải qua các cung bậc xác thịt, ông đã không thể thực hiện
cùng bà; nhu cầu về tinh thần xúc cảm nồng nàn yêu đương, ông cũng không thể
cho bà được. Vậy thì giữa hai người chỉ còn là khoảng trống mặc nhiên không thể
lắp đầy. Về mặt xã hội, họ là vợ chồng. Nhưng thực chất, họ chỉ là hai kẻ xa lạ
cùng chia sẻ cái giường lạnh căm căm mà thôi.
(*) Bản năng chết
Ngược lại với nguyên tắc sống
còn mang tính bản năng, chính là xu hướng tìm đến cái chết. Cái chết ở đây
không thể hiểu đơn thuần là sự chấm dứt sống còn. Cái chết thuộc về phạm trù
“tĩnh”. Nghĩa là cái gì ngưng đọng, dừng lại, biến mất, lẩn trốn,… “Bằng chứng
hàng ngày về bản năng được chết và nguyên lý Niết bàn được thể hiện qua những
khao khát an bình, không muốn đối diện với mâu thuẫn, khát khao sự an bình
trong giấc ngủ, sự bình thản, lặng lẽ, được nghỉ ngơi, được thinh lặng. Đôi lúc
đi xa hơn, ta còn thấy nhiều người đã dự định đi tìm cái chết qua tự tử và có ý
định tự tư như một nhu cầu van xả”[15].
Cuộc sống hiện đại với nhiều bức bách, dồn đuổi con người đến chân tường tuyệt
vọng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng số người hạnh phúc ít hơn rất nhiều so với
số người bất hạnh. Và thực thế, số người hạnh phúc đó chỉ có hạnh phúc trong một
thời gian ngắn (mang tính cục bộ). Do đó, về cơ bản, ai cũng trải qua bi kịch.
Sống nghĩa là trải qua bi kịch. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể đối diện
và vượt qua nỗi khổ niềm đau. Nietzsche đã cho rằng, con người có khuynh hướng
né tránh những tác động tiêu cực xảy đến trong đời sống. Đó là bản năng sống. Bản
năng sống khiến con người né tránh những tổn thương. Nhưng cuộc sống bắt buộc
phải có thương tổn, nên cái chết như là một lối thoát cho bản năng sống trong
những trường hợp tuyệt lộ. Do đó, có thể nói, nguồn gốc của bản năng chết chính
là ở bản năng sống mà ra. Bản năng sống và chết chỉ là các cách thế khác năng của
cái năng lượng tồn hữu ở một nhân vị.
Trở lại với Dương Nghiễm Mậu
và câu chuyện “Buổi sáng trong vườn cây xanh”, bản năng chết đã khiến cho không
khí truyện u ám và ảm đạm. Luôn là một cảm giác nặng nề, đìu hiu, thường trực,
một sự vây hãm không thể giải quyết. Phương cứ muốn thoát đi, bay biến, lẩn trốn.
Đó là sự né tránh nỗi khổ niềm đau. Trước bi kịch gia đình, Phương cứ muốn ra
đi, hoặc ít nhất là chối bỏ không muốn gặp lại những người trong gia đình, cô
muốn đi làm xa, trốn đi một nơi xa. Bản năng chết là cái cơ chế mặc định khi ai
đó gặp phải các trở lực gây ra tác động tiêu cực đến cuộc sống. Đó là cái mặc
nhiên xảy đến khi đời sống bị bủa vây bởi sự khắc nghiệt của cuộc sống. “Chỉ một
mình em bắt đầu một tấn kịch. Em đi để lãng quên căn nhà cũ, những khuôn mặt
kinh tởm tàn bạo vây quanh, không khí nhuốm độc vây phủ… nhưng thật vô vọng,
bao nhiêu đó vẫn ở chung quanh em, vẫn trong trí não em…”[16].
Càng thoái lui, chạy trốn, Phương càng nhận ra bi kịch bao vây. Hay như hành động
tìm đến cái chết của mẹ Phương cũng chỉ là phản ứng thông thường của một người
đàn bà khát tình bị phụ bạc. Khi kẻ đồng lõa với bà trong mối quan hệ nguy hiểm
ấy, bỗng dưng phủ nhận toàn bộ ái ân cận kề chăn gối để trông chờ bà chết để tiếp
bước với người đàn bà khác. Sự tổn thương xui khiến bà tìm đến cái chết. Cái chết
ở đây cũng là một lối thoát. Tuy nhiên, ở người đàn bà này, năng lượng sống vẫn
trội hơn. Và bằng một phép thử như là cách cứu rỗi, bà nhìn thấy cái “ác” trong
chính những người thân trong gia đình. Và cái “ác” bây giờ lại chính là que
diêm khơi dậy đống tro tàn yêu sống. Bà tiếp tục lấy chồng.
Đối với bản năng chết, con
người rơi vào lo âu và sau nữa là đi đến tự vệ. Sự tự vệ ở đây là việc người ta
đáp trả lại niềm đau. Hoặc là tìm một lối thoát để sống hoặc là tìm đến con đường
chết. Tất cả đều là tự vệ. Xu hướng tự vệ của Phương và mẹ Phương là tìm đến
cái chết. Ngược lại, những người bị cương tỏa bởi siêu thức như ba và chú Khang
lại tìm đến sự che đậy và tẩu thoát bằng cách triệt tiêu sinh mạng của người
khác. Nhưng vì siêu thức không cho phép họ trực tiếp ra tay, họ trông chờ nạn
nhân tự kết liễu. Dường như trong tình huống bi kịch, đàn ông thường có xu hướng
phá bỏ bi kịch còn phụ nữ thường có xu hướng tận diệt cùng với bi kịch đó.
Kết
luận
Từ hôm Mai Thảo đến thăm
tòa soạn của một người bạn và vô tình tìm thấy trong sọt rác bản thảo của Phí
Ích Nghiễm thì cho đến nay Phí Ích Nghiễm hay Dương Nghiễm Mậu vẫn luôn là nhà
văn nằm trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong của văn học đô thị miền Nam. Điều
ấn tượng nhất đối với Mai Thảo khi đọc bản thảo của Dương Nghiễm Mậu chính là
cách vào truyện và cách đặt vấn đề trực diện, mạnh mẽ, dứt khoát và gây ấn tượng
mạnh đến sự tiếp nhận của người đọc. Nhiều truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu có
cấu trúc rất lạ. Việc lựa chọn ngôi kể, góc nhìn và cách mà nhà văn triển khai
diễn biến của truyện cũng hết sức độc đáo. Chữ nghĩa và lối viết của ông vẫn giữ
được mấu chốt bí mật vẫn có sức kích thích trí tưởng tượng và sự tò mò nơi bạn
đọc. Thường thì cảm giác mà người đọc bắt gặp khi đến với văn chương Dương Nghiễm
Mậu chính là sự sững sờ, kinh ngạc….và sau nữa là cơn đau thấu xương.
Nỗi đau đi từ nhân vật đến
người đọc. Cách xây dựng nhân vật của Dương Nghiễm Mậu cũng có nhiều điều đáng
nói. Tuy nhiên, chúng ta cần nhiều thời gian hơn để nói về cách xây dựng nhân vật
của nhà văn. Chỉ duy nhất một điều có thể rút ra ở đây, chính là việc khai thác
khía cạnh tính dục trong đời sống tinh thần của nhân vật. Ở truyện ngắn “Buổi
sáng trong vườn cây xanh”, nhà văn không chỉ đặt ra mà còn khai thác triệt để
những băn khoăn, suy tư của từng nhân vật về vấn đề bản năng tính dục của con
người. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nhà văn chỉ xoay quanh và đề cập một
cách “suồng sã” về tính dục. Tính dục chỉ là đề tài mà nhờ đó nhà văn khai thác
thực hữu hiện sinh của con người. Thông qua đó, nhà văn khiến cho người đọc suy
tư không thôi về sự giằng co liên tục giữa ý thức, vô thức và tiềm thức. Vượt
lên trên hết, Dương Nghiễm Mậu đã phóng cái nhìn nhân văn khi đề cập đến vấn đề
tính dục. Nhà văn không trực tiếp luận giải và nêu ý kiến, dường như nhà vẫn là
kẻ ngoài cuộc, nhưng đâu đó, bằng cách triển khai vấn đề, chúng ta nhìn thấy
Dương Nghiễm Mậu ít nhiều đứng về phía người phụ nữ, thấu hiểu nỗi khổ niềm đau
của phụ nữ. Đằng sau truyện là tiếng thở dài của cái bi kịch cố hữu. Bi kịch
tình yêu và hạnh phúc. Bi kịch gia đình và trách nhiệm. Bi kịch giữa sống và chết.
Truyện ngắn “Buổi sáng
trong vườn cây xanh” còn có một điểm đặc biệt: đó là cách hiểu về nhân vật và
tác giả đã không còn như ý nghĩa truyền thống vốn có. Như cách hiểu của nhà
nghiên cứu Thụy Khuê về văn xuôi của ông, ở đây, chúng ta có thể thấy thêm một
minh chứng cho lối viết và cách xây dựng nhân vật qua hành vi và biểu hiện của
đời sống tinh thần. Dường như tiệm cận với lối viết của Tiểu thuyết mới, văn
xuôi Dương Nghiễm Mậu ở truyện ngắn này dường như đi ngược lại cách hiểu cổ điển
về cốt truyện, nhà văn để nhân vật tự kể. Nhân vật tôi trong truyện ngắn mà
chúng ta đang khảo sát dường như chỉ là kẻ ghi chép không hơn. Điều này giúp
cho nội dung, tư tưởng, chủ đề vang lên từ phía nhân vật. Một dạng đa âm tiểu
thuyết. Niềm đau tính dục ư ử, rền rĩ, rậm rật buột rơi từ cửa miệng, ánh mắt,
bàn tay, mái tóc của nhân vật. Phương, mẹ, ba, chú Khang bằng cách riêng của
mình đang vùng vẫy giữa bãi lầy xác thịt. Thông qua đó, tác giả phơi bày một
cách trắng trợn thảm trạng hiện hữu của con người. Nhà văn đụng chạm đến những
vấn đề của con người nói chung.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Thế Hà (2000), Phân tâm học và văn học
(bài giảng lưu hành nội bộ), ĐH Huế.
2. Dương Nghiễm Mậu (2018), Sợi tóc tìm thấy,
Tao Đàn, TP.HCM.
3. Sigmund Freud (2015), Cái tôi và cái nó (Thân
Thị Mận dịch), Nxb Tri Thức, Hà Nội.
4. Nguyễn Thơ Sinh (2008), Các học thuyết tâm lý
nhân cách, Nxb Lao Động, Hà Nội.
6. https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Nghi%E1%BB%85m_M%E1%BA%ADu
[1] Ông tên thật là Phí Ích Nghiễm,
sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại làng Mậu Hòa, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức,
tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Năm 12 tuổi, ông ra sống và học ở Hà Nội đến bậc
trung học. Sau đó, ông bắt đầu viết đoản văn, tùy bút cho phụ trương văn nghệ học
sinh của các báo chuyên nghiệp. Năm 1954, ông vào Nam. Từ 1957, ông bắt viết
nhiều đoản văn, truyện ngắn, truyện dài dưới bút danh Hương Việt Hương. Năm
1962, ông chủ trương tạp chí Văn nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng thời viết cho các
báo Sáng tạo, Thế kỷ, Tia sáng, Văn, Văn học, Bách khoa, Giao điểm, Chính văn,
Sóng thần, Giữ thơm quê mẹ... Ngoài ra, ông còn chủ trương nhà xuất bản Văn Xã.
Năm 1966, ông nhập ngũ, đến năm sau thì được bổ nhiệm làm phóng viên quân đội
Việt Nam Cộng hòa đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Từ năm 1977, sau khi đi học tập
cải tạo về, ông chuyển sang ngành vẽ tranh sơn mài để mưu sinh. Nhà văn vừa đột
ngột qua đời lúc 21g35 ngày 2 tháng 8 năm 2016 sau một cơn nhồi máu cơ tim, cộng
với một khối u lớn ở gan…
Tập
truyện ngắn
Cũng đành (Văn Nghệ, 1963; Văn
Xã tái bản 1966)
Đêm (Giao Điểm, 1965)
Đôi mắt trên trời (Giao Điểm,
1966)
Sợi tóc tìm thấy (Những tác phẩm
hay, 1966)
Nhan sắc (An Tiêm, 1966; Văn
Xã tái bản 1969)
Kinh cầu nguyện (Văn Xã, 1967)
Địa ngục có thật (bút ký, Văn
Xã 1969
Ngã đạn (Nguyệt san Tân Văn,
1970)
Quê người (Văn Xã, 1970)
Trong hoang vu (Nguyệt san Tân
Văn, 1971)
Cái chết của… (Văn Xã, 1971)
Tên bất lực (Tạp chí Văn học,
1972)
'Tiếng sáo người em út (in lầu
đầu: ?)...
|
Truyện
dài
Gia tài người mẹ (Văn Nghệ,
1964; Văn Xã tái bản 1966)
Đêm tóc rối (Thời Mới, 1965)
Tuổi nước độc (Văn, 1966)
Phấn đấu (Văn, 1966)
Gào thét (Văn Uyển, 1968)
Ngày lạ mặt (Giao Điểm, 1968)
Con sâu (Văn, 1971)
Sống đã chết (Giao điểm,
1972)...
Năm 2007 tại Sài Gòn, 4 tập truyện
ngắn của ông đã được tái bản, đó là: Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Tiếng sáo
người em út và Nhan sắc. Tuy nhiên, có hai luồng ý kiến trái ngược nhau về việc
làm này.
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Nghi%E1%BB%85m_M%E1%BA%ADu
[2] “4. Vô thức và cấu trúc tâm lí
con người
Trên cơ sở khái niệm vô thức,
Freud bắt đầu xây dựng bộ khung cho cấu trúc tâm lí con người. Theo Freud thì
tâm lí con người xét về mặt cấu trúc gồm có
4.1. Cái Ấy (Id): Tất cả những
gì mà chúng ta mang theo khi ra đời, tất cả những gì được quy định về mặt cấu tạo
và vì vậy đó là những xung lực phát ra từ tổ chức thể chất và tìm thấy ở cái ấy
phương thức biểu hiện tâm thần đầu tiên, dưới những hình thức mà con người chưa
biết được. Có thể coi cái ấy là cấu trúc tâm thần thấp nhất và tối tăm nhất mà
con người chưa tìm hiểu được một cách cặn kẽ như cái tôi và cái siêu tôi.
Nguyên tắc căn bản của cái ấy là là việc đòi hỏi sự thoả mãn ngay theo nguyên tắc
khoái cảm. Năng lượng của cái ấy được đầu tư hoặc vào hoạt động trên một đối tượng
có thể thoả mãn một bản năng hoặc vào những hình ảnh của một đối tượng có thể
cung cấp một phần nào sự thoả mãn. Năng lượng của cái ấy động tới mức nó có thể
dễ dàng giải toả hoặc chuyển dịch từ đối tượng này sang đối tượng khác, hoặc từ
hình ảnh này sang hình ảnh khác.
4.2. Cái tôi (Ego): Trong quá
trình phát triển của cá thể, do sự va chạm liên tục với thế giới bên ngoài một
phần của cái ấy trải qua một sự biến đổi mạnh mẽ nhằm thích nghi với thế giới
bên ngoài cũng như cái ấy mà Freud gọi là cái tôi (Ego). Xét về mặt cấu trúc
sinh lí thì do thiết lập được những tri giác giác quan và hoạt động cơ bắp nên
cái tôi kiểm soát được những vận động theo ý mình. Với thế giới bên ngoài, cái
tôi thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua cách nhận biết các kích thích và tuỳ
theo tính chất của kích thích là mạnh hay nhẹ mà cái tôi sẽ trốn tránh hay
thích nghi và cuối cùng làm biến đổi thế giới bên ngoài thông qua các hoạt động
sao cho có lợi nhất cho nó. Trong quan hệ bên trong với cái ấy, cái tôi có nhiệm
vụ chống lại những đòi hỏi xung lực mà cái ấy luôn tìm cách đòi hỏi và quyết định
những đòi hỏi nào được thoả mãn, những đòi hỏi nào sẽ bị trì hoãn đến một thời
điểm thích hợp và những đòi hỏi nào cần phải bị xoá bỏ.
Nếu như cái ấy thuộc về cái mà
Freud gọi là quá trình nguyên phát (primary process) thì cái tôi thuộc về quá
trình thứ phát (secondary process). Quá trình nguyên phát chính là quá trình
hoàn toàn vô thức, còn quá trình thứ phát là quá trình có ý thức, có tính lí
trí, được tổ chức, thống nhất và lôgíc hơn quá trình nguyên phát.
Hoạt động của cái tôi gắn liền với
các cơ chế phòng vệ (defense mechanism) như phóng chiếu, phủ nhận, dồn nén,
thoái lùi, cố định v.v... nhằm đảm bảo sự hài hoà với cái ấy, cái siêu tôi và
môi trường bên ngoài.
4.3. Cái siêu tôi (Superego):
Theo Freud, vì cá nhân sống trong cộng đồng nên buộc phải dồn nén nhiều xung
năng mà cái ấy muốn thực hiện và cái tôi ngăn cản. Đặc biệt trong thời kì thơ ấu,
vì cá nhân sống phụ thuộc vào cha mẹ nên từ cái tôi một phần khác của cấu trúc
tâm lí của đứa trẻ được hình thành, đó là cái siêu tôi. Cái siêu tôi như một thứ
“lương tâm” mà trẻ học được khi giải quyết xong mặc cảm Oedipus và phát triển sự
đồng nhất với bố mẹ nó. Cái siêu tôi gồm hai phần: ý thức và cái tôi lý tưởng.
Nhìn chung ý thức là tiêu cực và cái tôi lí tưởng là tích cực.
Cũng theo Freud, cái siêu tôi đối
lập với cả hai, cái ấy và cái tôi. Nguyên tắc hoạt động của nó là khen thưởng,
trừng phạt và yêu cầu. Nó huỷ bỏ nguyên tắc khoái cảm của cái ấy lẫn nguyên tắc
thực tế của cái tôi. Và không chỉ kiểm soát hành vi, cái siêu tôi còn kiểm soát
cả suy nghĩ của cái tôi vì đối với nó, tư duy cũng xấu như hành động. Đối với
trường hợp của cái ấy, cái siêu tôi không phân biệt những gì chủ quan mà cái ấy
muốn với thực tế khách quan.
Bộ máy tâm thần như vậy theo
cách nhìn của Freud, gắn chặt chẽ với vô thức. Cả cái ấy và cái siêu tôi đều có
một điểm chung, đó là nằm ngoài tầm kiểm soát của cái tôi và xét về bản chất
thì cái ấy mang tính di truyền còn cái siêu tôi thể hiện vai trò của người
khác. Và cái tôi xét cho cùng cũng chỉ là sản phẩm lâu dài của sự đấu tranh để
chế ngự cái ấy vô thức và chịu sự chi phối của cái siêu tôi.”
https://sites.google.com/site/buiquangthangvicas/sach/xxx/euxx
[3]
https://sites.google.com/site/buiquangthangvicas/sach/xxx/euxx
[4] Sigmund Freud (2015), Cái tôi
và cái nó (Thân Thị Mận dịch), Nxb Tri Thức, Hà Nội,tr.35.
[5]
https://sites.google.com/site/buiquangthangvicas/sach/xxx/euxx
[6]
“Freud cho rằng nguồn gốc của vô thức là những bản năng nguyên thủy mang
tính sinh vật. Bản năng này có trong quá trình phát triển chủng loài. Ngoài ra,
những ước mơ, thèm khát, những dục vọng không được thỏa mãn, tích tụ lại lâu trở
thành vô thức”. Nguồn: Hồ Thế Hà. 2000. Phân tâm học và văn học (bài giảng lưu
hành nội bộ). Huế: ĐH Huế. tr.40.
[7]
https://sites.google.com/site/buiquangthangvicas/sach/xxx/euxx
[8] Dương Nghiễm Mậu. 2018. Sợi tóc
tìm thấy. TP.HCM. Tao Đàn, tr.10.
[9] Dương Nghiễm Mậu. 2018. Sợi tóc
tìm thấy. TP.HCM. Tao Đàn, tr.11.
[10] Dương Nghiễm Mậu. 2018. Sợi tóc
tìm thấy. TP.HCM. Tao Đàn, tr.11-12.
[11] Dương Nghiễm Mậu. 2018. Sợi tóc
tìm thấy. TP.HCM. Tao Đàn, tr.15.
[12] Dương Nghiễm Mậu. 2018. Sợi tóc
tìm thấy. TP.HCM. Tao Đàn, tr.19.
[13] Hồ Thế Hà. 2000. Phân tâm học
và văn học (bài giảng lưu hành nội bộ). Huế: ĐH Huế. tr.38.
[14] “Kinh nghiệm lâm sàng của Freud
đã dẫn ông đến việc đánh giá tính dục là một xung lực dục năng quan trọng hơn
những động lực tâm lý khác. Con người là những sinh thể có nhu cầu xã hội. Tính
dục thực ra là một nhu cầu mang tính xã hội rất cao. Freud định nghĩa tính dục
rộng hơn nghĩa đen đơn thuần là giao hợp, tuy nhiên nhiều người ngộ nhận khái
niệm dục năng là năng lượng chỉ xoay quanh đời sống tính dục”. (Nguồn: Nguyễn
Thơ Sinh (2008), Các học thuyết tâm lý nhân cách, Nxb Lao Động, Hà Nội, tr.11).
[15] Nguyễn Thơ Sinh (2008), Các học
thuyết tâm lý nhân cách, Nxb Lao Động, Hà Nội, tr.12.
[16] Dương Nghiễm Mậu. 2018. Sợi tóc
tìm thấy. TP.HCM. Tao Đàn, tr.21.
Comments
Post a Comment