Skip to main content

DƯỚI GÓC NHÌN HẬU HIỆN ĐẠI - KỲ 3: “TỪ BỎ” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ




1. Vài nét về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư và dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn Việt Nam đầu những năm 2000 đến nay

Điều trước tiên mà chúng tôi muốn nhắc đến ở bài viết này chính là cái giọng điệu tưng tửng, nửa tỉnh nửa mê, nửa đùa nửa thật của từng con chữ. Bởi sự giễu nhại ở cửa miệng là động thái đầu tiên của việc hạ bệ các thần tượng, dời các tượng đài trung tâm vào góc xó. Thế nên, hãy đến với tinh thần hậu hiện đại trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư bằng chính giọng điệu của tinh thần hậu hiện đại ấy.
Từ sau đổi mới, chúng ta nhìn thấy sự phát triển đa dạng phong phú của nền văn học nước nhà. Và cái từ đổi mới, chắc phải nói thêm cả tinh thần “ăn theo” hết ga của cả lực lượng sáng tác lẫn giới nghiên cứu lí luận phê bình (đôi khi người ta dùng từ hội nhập để thay cho từ ăn theo). Mà các nhà nghiên cứu văn học có vẻ ăn theo nhiều hơn cả. Bởi vừa ngó sang Âu Mỹ vừa phải ngó lại xưa kia mai hậu, ngó từ Tây sang Tàu, ngó từ chính lí luận phê bình ngó qua tới địa hạt sáng tác, rồi từ địa hạt sáng tác ngó ngược lại phê bình lí luận. Quả là một khung cảnh náo động tưng bừng của thời mở cửa.
Và cứ mỗi khi có một trào lưu nào dấy lên ở trời Tây thì y như rằng bên ta cũng oang oang la ó về trào lưu ấy như một cái máy phóng thanh. Nói vậy không có nghĩa là phủ nhận công lao đào mương dẫn nước, tháo phèn rửa chua của các nhà lí luận phê bình[1]. Nói vậy có nghĩa là chúng ta vẫn cứ chạy theo các trào lưu mà kì thực chưa nhập dòng với văn học thế giới. Nên nhiều nhà phê bình vẫn cứ e dè khi nói đến các trào lưu, và buộc lòng họ phải dùng cụm từ “dấu ấn”. Nghĩa là nền văn học và lí luận nước nhà dù có thả cửa, tắm mình trong sinh hoạt văn học thế giới thì nó vẫn cứ nửa mùa mồn một. Câu chuyện nửa mùa này chắc phải để lửng lơ vậy thôi, không tiện bàn nhiều ở đây.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là quy chụp các nhà sáng tác/sáng tạo quê mùa hay những kẻ nhà quê mới lên tỉnh. Chẳng qua là có vẻ họ vẫn còn bỡ ngỡ với con đường rực lòe ánh đèn và thoáng chốc chưa quen với cảnh tượng xa hoa lộng lẫy của văn chương thế giới, kì thực chưa phân định được xa hoa và phù phiếm. Trong khi, chính bản thân họ cũng chưa hiểu mấy về bộ dạng sống áo nếp quần quê nhà mà họ đang mặc trên người.
Quay lại với chuyện chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng ta vẫn thấy ràng ràng là ở trời ta, chuyện hậu hiện đại cũng chỉ là dấu ấn mà thôi. Để nói về một chất điểm phát sóng trên bản đồ hậu hiện đại thế giới với những đóng góp nhất định, như một minh chứng ghi công, dường như chúng ta vẫn chưa có căn cớ nào để tự xướng lấy tên mình. Những Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà,….rồi cả Nguyễn Ngọc Tư nữa, các vị ấy nào có nghĩ đến Hậu hiện đại khi viết. Họ viết như sống. Và sống thì là sống, nào cứ phải là sống kiểu hậu hiện đại. Bằng góc nhìn Hậu hiện đại cũng như xuất phát từ các trào lưu nào đó để nhìn sang địa hạt sáng tác ít nhiều đều mang tính quy chụp và gò ép nó vào khung lồng lí luận. Thế nên nhiều nhà nghiên cứu dùng lí luận để nói điều mình nghĩ và làm sáng thêm cái lí luận của họ mà đánh mất đi “thiên tư” văn chương trinh bạch của khởi nguyên tâm thức sáng tạo, cũng như đã giết chết tác phẩm.
Bàn nhiều như thế, chúng tôi muốn nói đến việc sử dụng quan niệm Hậu hiện đại ở đây để nhìn Nguyễn Ngọc Tư không phải để xác lập một lần nữa các đặc trưng của Hậu hiện đại mà sau rốt là tìm thấy chính cái chân trời nghệ thuật mà người viết đã khởi sinh và người đọc lập thành. Môn phái võ công nào cũng hô hoán về việc thế thiên hành đạo, rat ay trượng nghĩa, giữ cân đạo lí, thế mà phần nhiều đều xiển dương môn phái và gây dựng ảnh hưởng của mình trong lòng thiên hạ. Họ quên mất các thiên chức nguyên khai khởi hoạt ban đầu. Trở lại với phương trời chữ nghĩa, công việc của bất cứ trào lưu trường phái nào cũng là lập định các chân trời hiện hữu tồn hoạt giữa đôi bờ sáng tạo. Đấy chính là xuất phát điểm mà chúng tôi đến với truyện ngắn Từ bỏ của Nguyễn Ngọc Tư bằng cái nhìn Hậu hiện đại.
Xin được nhắc lại đây vài dòng có thể nói là khá rành rõ về sự hình thành và các đặc thù của Hậu hiện đại. Tất nhiên, đây chỉ là một trong số hằng hà vô lượng thoại trình về Hậu hiện đại:
“Có thể hiểu Hậu hiện đại ra đời vào thập kỉ 60  của thế kỉ 20 như là một sự phản ứng lại với chủ nghĩa hiện đại (cái hiện đại), phản ứng lại những mô thức định sẵn. Post (sau) ở đây không có nghĩa chỉ một tiến trình lịch sử, cái này ra đời thì cái kia biến mất, mà là một sự phản ứng trở lại. Cho nên theo nhiều nhà nghiên cứu, Hậu hiện đại là một khái niệm phi thời, nghĩa là trong bất kì xã hội nào, thời kì nào có sự khủng hoảng tinh thần cũng có thể tồn tại tinh thần hậu hiện đại, có chăng ở những giai đoạn gần đây, tinh thần ấy nổi trội, đậm đặc và ở nhiều nơi trở thành chủ đạo mà thôi. Hậu hiện đại mang tinh thần thời đại chứ không chỉ thuần là văn nghệ như một số trào lưu khác (như tượng trưng, siêu thực chẳng hạn). Là một trạng thái tâm thức (state of mind), nên rất khó để định nghĩa Hậu hiện đại là gì, bởi nó chống lại những khái niệm tuyệt đối, chống lại những nguyên lí bất di bất dịch... và chống lại (hay phá dỡ, phá bỏ) đại tự sự”[2].
Và sau nữa, xin được phép xọc thẳng vô vấn đề bằng những rút kết ngắn ngọn về Dấu ấn hậu hiện đại trong văn xuôi từ những năm 2000 đến nay mà sau đợt rửa phèn lần thứ hai, chữ nghĩa An Nam đã thọ hưởng:
+ Trong tính chất đương đại, hàm chứa những mầm mống, dấu hiệu của thi pháp hậu hiện đại.
+ “Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Có thể nói vắn tắt, đó là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh thần của thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, tính áp đặt của cái chính thống, của các phát ngôn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người… Đấy là tinh thần chung nhất”[3].
+ Chủ nghĩa hậu hiện đại không phải là chủ nghĩa hư vô, những người mang dấu ấn hậu hiện đại không phải là những kẻ xét lại.
+ Dường như có sự liên hệ nào đó giữa tư tưởng của Nietzsche về vũ trụ nghệ thuật Dionysus với cảm quan hỗn độn, sụp đổ hoài nghi, ngã ngớn, tán loạn của thời hậu hiện đại. Chẳng phải Nietzsche cũng đã từng nói, ông sẽ bắt đầu được hiểu vào thiên niên kỷ thứ III sau khi Jesus Christ tạ thế đó sao.
Tiếp theo xin phép nói về cô em út, tuy út mà sửa soạn đẹp hơn. Nhưng vì người ta đã nói quá nhiều về Nguyễn Ngọc Tư. Đến nỗi, chuyện khen chê hóa ra lại tầm thường trước những gì Ngọc Tư có thể làm và đã làm được hẳn hoi bằng các tác phẩm của chị. Và trước những khen chê, thị phi cuộc đời phủ rợp trên sáng tác của mình, Ngọc Tư vẫn giữ nguyên vẻ mặt hiền hậu với nụ cười đơn sơ hết biết, với ánh mắt thân quen chan hòa như chái bếp sau hè/ như giàn nước/ như đám ô rô lặng lẽ rì rầm cập mé sông. Vậy thôi ! Ngọc Tư vẫn là Chị Tư Cà Mau “cù lần” hết biết. Nào có e dè ngó ngại gì đến mấy lời chê bai rằng chị chưa ‘Quốc Gia hóa” ngôn từ và thiếu bề dày kinh nghiệm sống để viết truyện. Người ta hàn lâm bác học, chị đâu có “đèo bồng” tới mấy chỗ đó. Chị như bông súng ngoài đồng nước. Đơn sơ là vậy mà ngó thấy hết cả bao nhiêu cảnh đời hì hụp lên bờ xuống ruộng, ba chìm bảy nổi chín lênh đênh của miền sông nước phương Nam. Vậy thôi ! Ai bác học thì cứ bác học.
Đi hết Cánh đồng bất tận, người ta hay nói Chị Tư bắt đầu “đô thị hóa” văn xuôi của mình. Cho rằng chị đã dần mất đi chất Nam Bộ hoặc dã chất Nam Bộ đã nhạt và chị bắt đầu tìm những bờ bến khác. Cũng có nhiều lời “bình loạn” là chị không thể vượt qua được “đỉnh cao” Cánh đồng bất tận của chính mình. Người ta cột và đóng cọc chị Tư vào “Cánh đồng bất tận” mênh mông đó. Người ta không cho chị bước tiếp và sống tiếp. Như vậy liệu có kì cục quá hay không ? Nguyễn Ngọc Tư cũng như con sông quê. Mỗi sáng tác thể hiện một chặng đường thể nghiệm trên văn nghiệp của chị. Mỗi tác phẩm là một trắc diện trong đời văn của chị. Cần có cái nhìn tổng thể nhưng không thể bó buộc người viết vào một sáng tác nào đó và quy trục những tác phẩm sau nữa. Cái nhìn như vậy có lẽ đã sa vào thụ động, cố định và thiển cận.
Sau đây, chúng tôi xin phép trích ra vài dòng. Chung quy là những lời bình phẩm, đồn đoán về văn nghiệp của chị mà chúng ta có thể dễ dàng xem biết:
-  Nguyễn ngọc tư đặt trong vùng văn hóa Nam Bộ, đặt trong bối cảnh văn học Nam Bộ đương đại với đặc điểm lượng lực sáng tác ở khu vực này, và chị tiêu biểu cho lớp người viết mới ở vùng đất này, lớp người viết tiệm cận với tính cách đương đại của vùng đất này.
-  Nguyễn Ngọc Tư nhà văn viết về con người Nam Bộ, thể hiện triết lý nhân sinh của con người Nam Bộ, dấu ấn Nam Bộ từ ngôn từ, bối cảnh đến tư tưởng- đặc sệt dấu ấn vùng văn hóa sông nước.
-  Tính nhân văn cao đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
-  Giọng điệu “hiền như cục đất” nhưng thấu đáo và thương tâm đến tận xương tủy
-  “Khác với thế hệ của các nhà văn như Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,… Nguyễn Ngọc Tư đã tạo cho mình một phong cách văn chương đặc sắc, chuyên biệt từ những trang viết đầu tay. Đó là việc xây dựng hệ thống nhân vật như con người thật ngoài đời, không chú trọng xây dựng mẫu nhân vật điển hình mà tập trung khai thác vào chiều sâu tâm lý của nhân vật qua đó khái quát về số phận, đưa ra những nét đặc trưng trong tính cách và chất người lao động nghèo ở Nam Bộ”[4]. Chị Tư vẫn giữ được cái vẻ đẹp chân chất, cắm chân và tâm lòng vào miền quê sông nước Nam Bộ nhưng Nam Bộ với những niềm đau nhức của thời đương đại.
Bấy nhiêu có lẽ cũng đủ bao quát về đời văn và chất văn của Ngọc Tư. Nhưng chúng ta không nên nói quá nhiều. Chẳng phải dân ta đã có nhắc: thần nói nhiều quá lại không linh đó sao.
2.Dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn Từ bỏ xét từ sự dịch chuyển hệ hình thi pháp
2.1.Sự lên ngôi của “tiểu truyện” hay câu chuyện chuyển giới trong Từ bỏ của Nguyễn Ngọc Tư
Người ta vẫn đang nói đến sự cáo chung giẫy giụa của Đại tự sự (grand narratives/ grands récits) hay tự sự chủ (master narratives), siêu tự sự (metanarrative) trong hoàn cảnh Hậu hiện đại. Đó là cái chết của những gì gọi là chính thống. Đây cũng có thể được xem là buổi hoàng hôn mà Nietzsche đã dự đoán từ năm nảo năm nào rồi. Buổi hoàng hôn của những thiết chế bất biến trong đời sống tinh thần và trong các sinh hoạt xã hội khác nhau. Buổi sụp đổ tráng lệ của những thiết định từ thâm căn cố đế.
Lại nói về chị Tư. Trời long đất lở, chỉ vẫn ngồi chình ình đó. Tỉnh bơ ba khía, như chính kiểu nói của chị. Bởi chị đâu có bị cuốn vào “Đại tự sự” nào đó rồi chị phản kháng lại nó để vượt bay lên “Phi đại tự sự”. Bây giờ gán cho chị cái Phi đại tự sự, chắc chị cười xòa rồi thôi.
Kể về/ bàn đến/ nhắc tới/ hóng lại chuyện Mộng Yên/ Cậu Cường của Từ bỏ chỉ đơn giản là thói nhiều chuyện của chốn quê nhà. Chị Tư không mấy quan tâm đến đại truyện hay tiểu truyện. Bởi chị chỉ muốn viết về cái chuyện cỏn con. Cỏn con như ngọn cỏ bên đường. Từ bỏ chỉ là một ngọn cỏ phất phơ bên lề đường – lặng lờ cạnh đại lộ chính thống.
Chúng tôi xin không gán cho chị Tư cụm từ Phi đại tự sự (sợ chị gánh hổng nổi). Bởi trong khi cả làng cả xã xúm chùm bàn luận phóng loa về chủ nghĩa/ về trào lưu/ về khuynh hướng/ về thủ pháp tân tân thời hết biết thì chị ngồi ở nhà khẽ khàng viết, khẽ khàng ngẫm và ngợi. Không đặt ở kì đích trác tuyệt, phi thường hoặc tạo dựng một tác phẩm bất hủ muôn đời, vậy mà cái điệu bộ lặng lẽ bình dị của chị với câu chuyện về Cậu Năm mang guốc lại có khả năng nhạo báng cả một chân trời phi thiên tại ngoại. Chị làm cho cả một vòm trời ê chề bẽ bàng và rươm rướm nước mắt. Trong Từ bỏ, Ngọc Tư không có chửi bới, không có gân cổ, không có cong cớn, không có lên giọng, vẫn là cái điệu bộ hiền khô, chị viết về thân phận chuyển giới. Những con người đứng bên lề của những gì gọi là chính thông. (Xin nhắc lại là chị không có nghĩ gì đến đại tự sự hay phi đại tự sự gì ráo). Chỉ đơn giản là cái nhìn thương thương của chị ngó thấy toàn những cảnh đời trớ trêu nghiệt ngã đến mức khốn nạn ê chề. Chị thấy rồi kể về họ bằng nhiều góc nhìn, nhưng hết thảy đều hiện lên một cách chứa chan. Với nhân vật Mộng Yên/Cường, chị đã lật đổ hệ giá trị/ thành kiến xã hội về vấn đề đồng tính luyến ái và đặc biệt là những người chuyển giới (nhân tình kiếp trước của chị Tư - Nietzsche cũng đã từng đảo chính lật đổ ngai vàng hệ giá trị Ki-tô giáo). Nhưng kiếp này, Chị Tư không có “rần rần” đến vậy. Chị chỉ kể qua giọng đứa con nít. Xuất sắc ở chỗ là chị kể dưới góc nhìn đứa con nít. Bởi trẻ con giữ được sự chân phương tinh khiết ban sơ của tinh thần người trong buổi đầu phóng nhìn về cuộc đời. Bấy giờ, cuộc đời trong ánh nhìn con trẻ hiện lên trong cái dáng vẻ chân chất, nguyên hiện của nó. Bởi người lớn phải mang vác không biết bao nhiều lề luật, quy phạm, cấm kỵ, định kiến, thói quen, rồi nào là Tử viết, nào là Như thị ngã văn, bao nhiêu riềng dây mối rợ vây hãm lòng người đến mức mê muội tham đắm rồi bị chôn chặt trong các “quan niệm phổ biến” bởi các đức lý phổ quát, do các lề luật thường tình. Người lớn đều suy nghĩ một cách ấu trĩ, ai cũng vậy thì tất nhiên mình cũng vậy. Con trẻ, nó thấy như thế nào thì nó hiểu ra vậy. Không bị các kết thức trong cõi lòng nắm đầu chỉ lối. Thành ra, chị Tư nhập thân vào tâm thế con trẻ là đã bước lên chuyến tàu từ khước “cái chính thống” rập khuôn và dấu tích bầy đàn. Mà chị đâu có nói be bét ra, chị lặng lẽ nói những câu con nít hết sức mà ở trong cái lời ngô nghê con nít, chị đã đạp đổ biết bao nhiêu quan niệm lầm tưởng và những định kiến chết người của thiên hạ về phận chuyển giới.
Nếu như nói chuyện về Cậu Năm mang guốc là tiểu truyện và câu chuyện về cuộc đời chuyển giới là tiếng nói đạp đổ ngai vàng chính thống để khẳng định sự trỗi dậy của bọn hèn mọn bên lề, những kẻ bị quy trục là sằng bậy, ghê tởm, bị vứt đi đại diện cho cái phi chính thống thì có vẻ chị Tư là đại diện khá tiêu biểu cho tiếng nói Hậu hiện đại bấy giờ. Nhưng trước khi nhìn thấy dấu ấn hậu hiện đại trong “tiểu truyện” Mộng Yên ở đây, chúng ta cần nhìn thấy mối nghi hoặc của đứa bé con về sự nhìn nhận của người đời về chính người cậu ruột vừa quen mà vừa lạ ấy.
Nhưng nhìn rồi lại thấy, cuối cùng câu chuyện cũng chẳng đi đến đâu. Lửng lơ vậy thôi. Cách chị Tư viết thường là vậy. Chuyện đời mà, kể đến bao giờ cho hết. Mà chuyện đời tưởng nó hết chứ nó có hết đâu. Tưởng nó êm xuôi rồi mà ngờ đâu nó âm ỉ còn đó. Tưởng đau thương cuộc đời rớt đâu mất, có dè đâu thỉnh thoảng “nó lồm cồm bò dậy nhói chơi”. “Không hiểu sao lúc đó tôi linh cảm đây là lần cuối cùng ông ngoại và cậu gặp nhau, khi nhón chân ngó vào tờ giấy. Ông ngoại buông tay. Và cậu lại sắp đổi nhà, đến một nơi không ai biết cậu từng là ai. .. Lúc đó tôi chín tuổi, gặp cậu Năm tôi lần đầu nhưng đã nhìn thấy hoạt cảnh của những lần tình cờ gặp lại sau này, tôi lạnh như không, và chúng tôi chào hỏi nhau hệt như chưa từng quen biết” (Từ bỏ).
Cũng giống như chân lý ! Nào đâu có chân lý tuyệt đối trường tồn. Cũng không có cái gì đúng, cái gì sai rành rạnh cả. Mà sai hay đúng, ai có quyền luận bàn đặt định. Người ta lấy cái thước nào, cái cân chi mà lường được sai đúng ở đâu. Mà chuyện người với đời mình dù chung một gầm trời nhưng có giống nhau răm rắp đâu mà so đo với đặt để. Đời khập khiễng mà người ta có hớt trọc cào bằng, nghĩ tới cười muốn rụng răng.
Nhưng mặc kệ, đời cứ nói rần rần, đời vẫn là bãi chợ rôm rả tiếng nói bàn ra tán vào. Còn chị Tư với cậu Năm im re, hoặc có nói thì nói rất khẽ. Trong Từ bỏ, hình như cả câu chuyện, Cậu Năm không có nói tiếng nào. Mà dù có nói cũng là nói khẽ, nói thầm hoặc nói rất ít, hoặc chỉ nói khi hốt hoảng thất thanh, khi tuyệt vọng rã rời, khi đớn đau bít lối. Chị Tư cũng không muốn nhân vật của mình rên xiết quằn quại và nói quá nhiều về mình, không cần nhân vật phát ngôn và thét lên trước cái đau của đời. Chị Tư tự bày ra đó, ràng ràng ra đó, cho người ta thấy. Bằng cách liếc vào lòng người ta bằng những ngọn cỏ mướt lông êm dịu và lặng lẽ, không phải bằng ngôn từ đao to búa lớn, Tư đã lay động thành kiến bền kết của người đời (tất nhiên đời phải còn ý thức cái đã).
2.2.Diễn ngôn dị chất, đa nguyên từ nhân vật Cường đến Mộng Yên
Tên chuyện là “Từ bỏ”, nói khác đi chính là sự cự tuyệt. Mà cả câu chuyện đâu có nhân vật nào giãy nảy cự tuyệt cái gì đâu. Đó là câu chuyện của cái sự “khác”.

Sự “khác” ấy có phải là ảnh hình của Hậu hiện đại hay không ? “Cũng như vậy, phi trung tâm hóa nghĩa là tạo ra nhiều trung tâm, mỗi nhân vật trong tác phẩm trở thành một trung tâm của một câu chuyện nào đó”[5]; có vẻ khó để nói rằng ai là nhân vật chính-trung tâm ở truyện ngắn Từ bỏ. Bởi rằng cả 3 nhân vật Cường/Mộng Yên - tôi - ông ngoại đều là một chất điểm phát ngôn đồng đẳng đại diện cho ba góc nhìn khác nhau. Và nội dung tư tưởng của câu chuyện nổi lên từ chính việc tác giả để cho mỗi nhân vật tự thể hiện diễn ngôn của mình. Sự giằng co, đan xen của các diễn ngôn đó tạo thành “mồi nhử” cho người đọc.
Dường như trong truyện của Ngọc Tư, cách kể và sự kể mới là cái đáng bàn và đáng chú ý. Nhân vật bị quy biến thành diễn ngôn. Nhân vật của chị trước hết nằm ngay ở ngoại biên, từ khước trung tâm và dường như đã di chuyển ngày càng xa vị trí trung tâm, nghĩa là không còn là các nhân vật theo ý nghĩa “truyền thống” (có chính có phụ, nhân vật chính đóng vai trò quan trọng then chốt toàn bộ cốt truyện). Những nhân vật như vậy, ít nhất, không xuất hiện trong truyện ngắn Từ bỏ. Bởi mỗi nhân vật là một tuyến phát triển vừa độc lập vừa hòa quyện, tương tác với nhau. Ý nghĩa của nó đối với cốt truyện không thể phân định rạch ròi.
Hơn thế nữa, thông qua nhân vật Cường/Mộng Yên, chị Tư còn cho thấy diễn ngôn của những cái lập dị, đa dị, kì dị, quái dị - nghĩa là cái khác biệt/riêng biệt. Đó là sự tôn trọng những cái đa tạp, khác biệt bên cạnh những cái tiêu biểu và điển hình. Thêm vào đó, như đã nói, việc luận lí với cuộc đời, chị Tư không quá quan tâm đến việc đó. Bởi rằng, cuộc đời có những nguyên do mơ hồ và nhập nhằng mà càng tiến vào đó càng bất lực tháo lui. Chính ở cách kể như thế, cuộc đời hiện ra với tất cả sự bộn bề, bát nháo của nó. Dường như đó là cõi thế bất khả tư nghì, bất khả nghĩ tưởng, bất khả diễn hoạt, …Một cuộc đời nghẹn bứ, ưng ức trong lòng, khó mà nói cho rõ ngọn ngành. Cả câu chuyện, người đọc khó mà lên án ai, giận ai được. Ai cũng nói lên diễn ngôn của mình và tự trải nghiệm sự thể theo cách thế của mình. Không có phê phán, lên án, không có gay gắt thù nghịch, chỉ có thương, truyện của Ngọc Tư thường chỉ là cái niềm thương nao lòng như thế.
Lại nói về chuyện dị chất-đa nguyên. Đó là cái chi chi ? “Rõ ràng, song đề của Bakhtin chẳng phải gì khác, mà chính là phiên bản của cặp đối lập triết học cơ bản giữa một (duy nhất) và nhiều, vốn có nguồn gốc từ thời tiền Soctates (“hệ Parménide”/“hệ  Héraclite”). Nói theo ngôn ngữ hiện đại, cặp đối lập này được biết tới như là cuộc tranh luận giữa “siêu hình học về sự thống nhất” (“siêu hình học về sự hiện tồn”), ở phía này, và “siêu hình học đa bội” (“siêu hình học về sự khác biệt”), ở phía kia”[6]. Và thế đấy, thời Hậu hiện đại chính là thời đại với tính chất của sự sụp đổ, tan vỡ, ruồng bỏ, gãy đổ, tàn lụi, hoang phế, ngổn ngang. Thời của luận lí đa nguyên đa bội. Cái hay của Ngọc Tư là chị chẳng luận lí nhiều với sự việc được nhắc đến. Chị không quen việc đó (thực ra là chị cũng không giỏi luận lí với đời, nên chị ít luận lí là vậy). Nhưng cái sự thiệt tình, hiền khô của chị lại là cách diễn hoạt sự đa bội đa nguyên khó nói. Câu chuyện chỉ là một hàm số mà hễ ứng 1 nghiệm x sẽ đưa về một hàm y mà đồ thị diễn hoạt là cơn náo động tán loạn. Hơn thế, Từ bỏ lại là một phương trình đa nghiệm (ít nhất là 3 nghiệm), mỗi khi thế 1 nghiệm (có thể là trẻ con, chuyển giới/đồng tính, dị giới) thì chúng ta lại có được một phương trình khác nhau. Không có chân lý toàn hiện toàn năng trường tồn. Cuộc sống là cái gì đó diễn ra, trải qua, bày hiện. Mà nói theo lẽ Phật là sự phối ứng muôn vàn ức vạn triệu muôn duyên sinh tác khởi.
Câu chuyện của chúng ta bỗng nhiên gợi nhắc đến Thanh Tâm Tuyền, một tiếng nói khác bên cạnh người tình năm xưa Nietzsche của trăm năm trước. Ở tuổi đôi mươi, Tuyền đã nóng nảy khi nói đến sự sụp đổ của “núi thần” khi Thảo luận với bạn bè thân thuộc về việc giết chết nghệ thuật tiền chiến. Đó là sự phủ định của sáng tạo. Người “gọi nghệ thuật đen là nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi” trong xã hội. Nhưng này, tất cả những nhà đạo đức, những người văn minh, những người Mác-xít, hãy nhận lấy một sự thực: “mọi” cũng là người và nghệ thuật của “mọi” cũng là nghệ thuật của người. Và bọn “mọi” ấy cũng muốn được phát biểu ý kiến như các ngài vậy”[7]. Phải chăng, tiếng nói của Cậu Năm mang guốc của là tiếng nói của Mọi hay của cái mà Tuyền đã gọi là Nghệ thuật đen từ hậu bán thế kỷ XX. Và diễn ngôn của Tư là diễn ngôn của Mọi. Bởi vì Mọi cũng có nhu cầu đối thoại với cuộc đời như các ngài bệ vệ chính thống, như các anh hùng lý tưởng chi chi, như các thần tượng hoành tráng oai hùng. Thậm chí, trong tiếng nói của Mọi, của những kẻ chuyển giới đứng bên lề cuộc đời còn cho thấy ngõ lối mau chóng tiến về bản thể hiện tồn của sinh hữu người. Chính ở đó, cõi thế ngoại hiện phơi mở vẻ mặt quỷ ám bệnh hoạn và ghẻ lở của nó với tất cả tính chân thật vốn có.
2.3.Từ bỏ từ bình diện xã hội, tâm lý đến văn học
Ở phần này, chúng ta đang nói đến tính chất liên văn bản. Mà cứ nói đến khái niệm thuật ngữ thì có một quy tắc bất thành văn là phải làm sao giới thuyết được khái niệm này. Nhưng trong lớp, thầy đã nói, cô đã nói, bạn đã nói, bè đã nói, thiên hạ sinh linh đại chúng quân thần đã nói. Và đã nói từ nửa cuối thế kỷ XX, từ những năm 1960 mãi cho đến nay. Đi từ chỗ rụt rè với khái niệm liên văn bản cho đến khi người ta cứ ra rả liên văn bản như ve đã gọi hè. Nói mãi, thành ra trong bài viết này, chúng tôi chỉ muốn nhắc lại dăm ba ý gọi là: “Theo Kristeva, văn bản không được hình thành từ những ý đồ sáng tác riêng tây của người cầm bút mà chủ yếu là từ những văn bản khác đã hiện hữu trước đó: mỗi văn bản là một sự hoán vị của các văn bản, nơi lời nói từ các văn bản khác gặp gỡ nhau, tan loãng vào nhau và trung hoà sắc độ của nhau. Nói cách khác, không có văn bản nào thực sự cô lập, một mình một cõi, như một sự sáng tạo tuyệt đối: văn bản nào cũng chịu sự tác động của văn bản văn hoá (cultural text), cũng chứa đựng ít nhiều những cấu trúc ý thức hệ và quyền lực thể hiện qua các hình thức diễn ngôn khác nhau trong xã hội”[8]. Đoạn dẫn vừa rồi toàn những ngôn từ bệ vệ, hệ trọng và đường hoàng lắm lắm. Liên văn bản là gì ư ? Là sự kết liên của nhiều văn bản, nhiều địa hạt tư duy, nhiều lĩnh vực tư tưởng, nhiều phương trời viễn mộng, nhiều cung cấp hiện tiền. Bởi tại vì sao ? Bởi bộ não của chúng ta, như Ouspensky đã nói, chính là chỗ giao thao giữa sinh hiện ba chiều và sinh hiện bốn chiều. Nói khác đi, chính bằng tư duy, con người có một cơ hội (dù rất mong manh) vượt thoát khỏi tại hiện sinh hữu của chính mình. Nói khác đi, đó là cơ hội kết liên (kết liên giữa tôi và những gì “phi tôi”). Và chính ở chỗ đối thoại, nghĩa là lời nói/diễn ngôn, sự kết liên kia được lập thành. Do đó, làm sao mà có được một lời nói riêng mỗi chung một, làm sao mà có được một thanh âm tự nội riêng mình. Không thể ! Tính chất cố hữu của lời nói là đối thoại. Trong bản chất đã là sự kết liên. Và khi người ta nói, tất nhiên người ta phải nói bằng chính cái hiện trạng tồn hữu của mình. Mà cái hiện trạng tồn hữu đó chính là kết quả của biết bao nhiêu mối dây vương vít duyên nợ ba sinh hương lửa hằng hà hữu hiện. Thành ra, “hương gây mùi nhó, trà khan giọng tình” là vậy. Sự kết liên đó được mở rộng, không chỉ bằng thoại trình/bằng diễn ngôn/bằng lời bằng tiếng, mà còn bằng tất cả cơ quan giác năng của con người. Bất kể sự thu nhận hay chuyển phát thông tin tín hiệu nào cũng là kết quả đan bện của hằng hà hằng hữu hằng sinh thường hoạt của thiên cơ thiên tính suốt từ thuở sơ xưa mai hậu vô cùng.
Chị Tư tất nhiên cũng không ngoại lệ. Khổng thể chối là chị Tư quê Cà Mau, sinh ra trong một gia đình nông dân mà chuyện viết lách là cái gì hoàn toàn không tưởng, không thể chối là chị chỉ học hết bậc phổ thông cơ sở, không thể chối là chị đã có chồng và sinh con, không thể chối màu da An Nam trên người chị, cũng như không thể chối những bình bầu thiên hạ dành cho chị, rồi những tinh cầu diễn ngôn của cuộc đời va đập vào cuộc sống của chị, tất cả những điều đó hun đúc nên Nguyễn Ngọc Tư. Và trong bất cứ văn bản nào hiện hình ra từ ngòi bút ấy, ít nhiều đều mang dấu ấn của những diễn ngôn tiền hiện (những tiền văn bản). Chính từ đó, văn bản của chị thoát thai. Từ bỏ cho thấy những suy tư về giới, đồng thời là cái nhìn hay hệ quy chiếu Đạo đức học Khổng Mạnh. Gần hơn, quan điểm và cách thế của ông ngoại trong câu chuyện là sự chung đúc của cả một cơ tầng/hệ hình văn hóa phương Nam và chính các thiết luật vô hình đó đặt để định hình cách nghĩ suy ngẫm ngợi của ông già về đứa con trai từng chơi bóng và bây giờ quay ra thích mang guốc. Đó chính là các mã văn hóa của diễn ngôn xã hội về giới (Tất nhiên cái xã hội đang nói đến ở đây là xã hội cố nông phương Nam nước Việt vào thời đô thị hóa xây dựng nông thôn mới).
Đọc truyện Từ bỏ, chúng ta dễ dàng nhìn thấy những vấn đề hết sức đương đại. Chữ đương đại ở đây muốn nói đến là những vấn đề của nó có thể đọc thấy nhan nhản trên mặt báo. Những người đẹp chuyển giới, thằng con trai bỏ nhà đi và bỗng dưng trở thành ca sĩ kêu lô tô, nhiều bộ phim tài liệu về những kẻ trôi sông lạc chợ, chuyện các anh chàng đam mỹ boylove, chuyện của chị Phụng, chuyện của Thái Tài, chuyện của Hương Giang…..ít nhiều đều được nhắc nhở đến mỗi khi người đọc chạm đến Từ bỏ. Thế nên, tính chất liên văn bản không chỉ ở phạm vi văn bản của người viết tạo thành mà tính chất liên văn bản còn thể hiện trong việc tiếp nhận của người đọc nữa. Đó là sự tác động của các tiền văn bản về tâm lý, về văn hóa và định kiến xã hội trong quá trình vận động của văn bản. Từ ý hướng của người viết đến sự ra đời của văn bản Từ bỏ, đến sự cộng hưởng tiếp nhận của người đọc và siêu người đọc, suốt quá trình đó các tiền văn bản tâm lý-văn hóa-văn học-xã hội-chính trị luôn tác động (nhảy ra bổ vào, hay có thể gọi là sự bắn phá của các diễn ngôn khác nhau trên con đường di chuyển của văn bản); để đến cuối cùng dấu ấn của các tiền hiện văn bản kia còn in hằn dấu vết trên câu chuyện.
Lại nói: “Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận, trong phạm vi sáng tác, chủ nghĩa hậu hiện đại có hai đặc trưng nổi bật nhất là tính phản tỉnh và tính liên văn bản. Tính chất phản tỉnh dẫn đến thủ pháp siêu hư cấu (metafiction) và tính chất liên văn bản dẫn đến thủ pháp cắt dán (collage) hay nhại (pastiche). Giễu nhại (parody) có thể được xem là hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự phản tỉnh và liên văn bản, biểu hiện của cái giới nghiên cứu thường gọi là “thi pháp của sự mâu thuẫn” (poetics of contradiction) vốn bàng bạc trong hầu hết các tác phẩm văn học hậu hiện đại chủ nghĩa”[9]. Ở Từ bỏ, chị Tư không có nhại ai hết, không có trêu cợt ngả ngớn, chọc khoáy ai cả. Vậy nhại ở đâu ra. Nhại lộ liễu người ta thấy thì dễ rồi, Nhại sao cho có duyên mới khó; mà đến như không Nhại mà thành ra Nhại lại càng khó hơn. Sự nhại của chị là cái nét tỉnh bơ kia. Bởi rằng, thiên hạ sẽ nhao nhác bàn ra tán vào, như chính cái chung cư mà Mộng Yên trọ lại, người ta đâu có để Mộng Yên được yên thân. Chuyện chuyển giới và những người thân sâu hồn bướm như thế vốn dĩ là cái gì hệ trọng, đáng sợ, đáng kinh tởm, đáng dị hợm và tất nhiên rất đáng bàn tán. Thế mà, chị Tư cứ kể gọn hơ, thấy nó bình thường hết sức. Thiện hạ cứ um sùm bàn luận. Vậy mà chị kể nhẹ hều. Nhại chính là sự tỉnh bơ nhẹ hẫng như thế đối lại trong cái thế rôm rả xôm tụ ồn ào của người đời về sự thể được bàn đến. Kiểu như: thiên hạ rần rần luận bàn, chỉ Tư chỉ buông một câu “ủa vậy hả” rồi thôi. Thiên hạ bỗng nhiên quay ra chưng hửng. Đó là cái sự nhại của chị Tư vậy.

3.Nghệ thuật trần thuật mang dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn Từ bỏ của Nguyễn Ngọc Tư
Nhân vật mảnh vỡ Cường-Mộng Yên hay kiểu nhân vật mắc kẹt
Lại bắt đầu bằng một lời dẫn luận bàn về kiểu nhân vật để đi vào nói đến nhân vật của truyện ngắn Từ bỏ (như vậy cho hợp lẽ thường): “Xét về hoàn cảnh, nó [kiểu loại nhân vật] gắn với thời đại phá sản của các “đại tự sự”, mà đi cùng là các quan niệm phi trung tâm hóa, giải nhân cách hóa, phi lựa chọn, phi lý, bất tín nhận thức, giễu nhại, ngụy tạo… Xét về loại hình, nó được xây dựng dựa trên các đặc tính nghệ thuật chủ yếu của văn học hậu hiện đại như mờ hóa, phân mảnh, mã kép, nghịch dị, đa diện, hoán vị, mặt nạ tác giả, tương phản xuyên suốt, thân rễ…Nhân vật đồng tính, là mẫu người đặc thù trong tiểu thuyết đương đại, gắn với những thay đổi môi trường sống, quan niệm giới tính ở thời hiện đại, hậu hiện đại, được cổ súy bởi tinh thần “toàn cầu hóa”, mà nước Thái Lan láng giềng là một kiểu mẫu”[10]. Đại khái muốn nhắc tới lời bàn này là để nói đến kiểu nhận vật đồng tính trong văn học đương đại. Không hiểu vì sao kiểu nhân vật đồng tính lại trở thành đặc thù cho tính chất hậu hiện đại của xã hội đương đại. Chuyện này đâu phải bây giờ mới có. Từ thời cổ Hy Lạp, rồi các ông hoàng đế trung hoa các chuyện thần tích huyền thoại cũng đã có chuyện đồng tính luyến ái. Thậm chí, các vị nam thần Hy Lạp ít nhiều đều có xu hướng lưỡng tính, hay các chiến binh Athen được khuyến khích yêu người bạn nam cùng với mình chung lưng đấu cật. Và thứ tình cảm đó được xã hội cổ Hy Lạp tôn vinh. Nhưng vì sao đến thời đương đại, kiểu nhân vật này mới nổi lên như một đặc thù của tính chất Hậu hiện đại. Phải chăng, chính tiếng nói của người đồng tính đã biểu hiện sự trỗi dậy phản kháng của những kẻ phi chính thống. Nó trở thành một đại diện hoàn hảo cho cuộc trỗi dậy của những cái vốn bị duy lý đè nén kìm hãm xưa nay. Nhưng liệu Nguyễn Ngọc Tư có nói đến phận chuyển giới trong ý hướng như thế hay không ?
Nhân vật Cường/Mộng Yên được nói đến trong câu chuyện có lẽ sẽ gợi cho chúng ta nghĩ đến quan niệm về sự phức hợp giữa thể xác và tinh thần. Với sự phát triển của đời sống và lối tư duy khái niệm của con người hiện đại, con người dễ dàng bị quy chụp bởi rất nhiều khái niệm mang tính khế ước cộng đồng. Và người đồng giới là một trong số những nạn nhân của thói tư duy đó. Trong Tertium Organum, Ouspensky đã làm rõ chỗ khác biệt giữa con vật ở giới một chiều và giới hai chiều với con người ở giới ba chiều. Và thông qua đó, ông làm rõ vấn nạn của tư duy người. Đó vừa là điểm ưu trội trong nhận thức nhưng cũng là chỗ sa lầy của con người. Bởi lối tư duy khái niệm quy chụp và tập quán bầy đàn (khế ước), xã hội loài người bị chăng đầy các hàng rào tư tưởng của khái niệm. Do đó, tính chất hậu hiện đại được nói đến chính là sự phản ứng lại cách quy chụp đó của tư duy con người. Và nhân vật trong “làn sóng thứ ba” chú trọng ở sự ngẫu nhiên phức hợp và muôn vàn trắc diện của nó. Tôn trọng sự đa dạng đó cũng chính là tôn trọng tiếng nói của những cái ngoại biên. Cường/Mộng Yên của Nguyễn Ngọc Tư không hẳn là một nhân vật tiêu biểu cho lối viết hậu hiện đại, tuy nhiên, ở nhân vật này chúng ta nhìn thấy bi kịch mắc kẹt, một nhân vật dang dở, bẽ bàng, bị rơi vào vòng tù hãm của nhân sinh và cả đời là sự giẫy giụa mãi hoài để xác lập giá trị. Điều này cũng phần nào thể hiện việc tái xác lập các hệ giá trị sống và làm người của tính chất hậu hiện đại. “Không phản đòn trước sự khiêu khích của ông ngoại (với sự trợ giúp vô tình của tôi), cậu chừng như chẳng chống trả, chỉ cười nhẹ và thơm nhẹ. Cái mùi thơm của thịt da, như được tiết ra từ tủy xương, khiến tôi tò mò muốn chết, theo hỏi hoài, cậu làm sao mà thơm được vậy. "Làm đàn bà", cậu tôi nói, mắt ngó ông ngoại, hơi mỉm cười. Câu trả lời chắc chắn chẳng dành cho con nít”[11]. Và việc làm đàn bà là một sự tái thiết giá trị.
Chính vì chỗ mắc kẹt và dang dở, cũng như trong cảm quan hậu hiện đại, các nhân vật có xu hướng tiêu biến. Sự tiêu biến ở đây có nhiều nhà nghiên cứu gọi là mờ hóa. Chẳng hạn như cách phân định của Nguyễn Thị Bình, nhà nghiên cứu gọi lối xây dựng nhân vật ấy là mờ hóa, tẩy trắng: “bị tác giả xóa bỏ hầu hết đường viền nhân thân, tính cách chúng bị phân rã, trở thành một ý niệm, một trạng thái tâm lý, một ám ảnh…”[12]. Và điều đó cũng đi vào sự tiếp nhận của người đọc. Thế nên dấu vết còn đọng lại ở người đọc thường là một cảm thức về thân phận, chứ không phải là một ảnh hưởng về con người nào đó. Và cái tạo nên tính chất cảm thức đó là nỗi ám ảnh thông qua việc “cứa” vào trang viết bằng những ấn tượng sắc nét (chứ không còn quá chú trọng xây dựng nội dung). Xoay quanh Mộng Yên, chỉ là là nỗi ám ảnh dằn vặt không nguôi. Là kiếp đời lưu đày để giải thoát và tìm về chính mình. Trên con đường đó, hành động của Mộng Yên là kết quả của phương trình đa nghiệm (hay sự giằng xé giữa con người phải lẽ và con người chính mình, giữa khát khao cá nhân và tình thương yêu của gia đình). Đa nghiệm vì còn mắc kẹt. Mắc kẹt thế nên còn dang dở, còn bẽ bàng, còn đớn đau, còn sống để lưu đày. Vì còn đau nên còn giãy giũa (cứ chuyển nhà, cứ lên bàn mổ). Mà còn giãy giụa thì còn đau. Nhân vật của chị Tư là con cá dính lưới, không thể nằm chờ chết mà càng vùng vẫy thì mắc lưới càng siết chặt hơn. Tính chất dang dở của người hậu hiện đại chính là sự thế “tiến thoái lưỡng nan” (kiểu Trịnh Công Sơn) giữa vòng xoáy cuộc đời hỗn độn tán loạn. Cái cảnh chung cư chỗ Cậu Năm sống chính là sự bát nháo của cuộc đời. “Chẳng lý do nào có lý hơn, để giải thích sao một người mảnh khảnh như cậu lại ở một chung cư không thang máy, rác thò ra khỏi miệng thùng, âm thanh những cánh cửa khép mở cứ nghiến sít trên nền gạch, và những người vô công rỗi nghề suốt ngày tụ tập ngay quán nước tầng trệt tòa nhà, bàn tán chuyện bà già tầng ba cặp bồ với thằng con nít, ai đó ở tầng năm bị ếm xì bùa”[13] (Từ bỏ).
Cuộc đời Cậu Năm như một cuộc đời lửng lơ vậy thôi. Lối viết của chị Tư dường như tạo nên một Mộng Yên với cuộc đời hư huyễn, không có đầu đuôi, không có thứ lớp. Nhớ tới đâu kể tới đó, lại là thông qua ấn tượng của trẻ con nên càng thoáng qua, càng mơ hồ. Nhưng đó lại chính là kiểu cuộc đời của tính chất Hậu hiện đại. Một kiểu đời đang diễn ra vậy thôi, đâu có cái gì bình ổn, đâu có cái gì êm xuôi, đâu có cái gì khép lại hoặc chấm dứt. Lối kết thúc cổ tích hay sự “thỏa lòng” mà tính chất hiện đại mang lại cho người đọc không còn nữa. Vì cuộc đời cứ trôi chảy. Dòng đời đâu có đứt đoạn. Và còn sống là còn loay hoay vật lộn với nó. Cậu Năm Mộng Yên mãi mang theo giấc mộng bình yên để trải qua những chỗ trọ khác nhau. Và ai mà biết được sau khi đứa bé con năm xưa lớn lên, liệu nó còn nhớ một Cậu Năm mang guốc như thế không. Ảnh hình Mộng Yên càng nhập nhòe giữa dòng đời bát nháo. Cuộc sống cứ thế tiếp diễn sau cuộc gặp gỡ đau thương ấy. “Lúc đó tôi chín tuổi, gặp cậu Năm tôi lần đầu nhưng đã nhìn thấy hoạt cảnh của những lần tình cờ gặp lại sau này, tôi lạnh như không, và chúng tôi chào hỏi nhau hệt chưa từng quen biết”[14] (Từ bỏ).
Cảm quan hỗn độn nhìn từ cốt truyện và kết cấu
Có thể nói ngay, đọc truyện ngắn Từ bỏ, người đọc quen theo kiểu theo dõi truyền thống sẽ khó nắm bắt câu chuyện. Bởi lối kể của Nguyễn Ngọc Tư ở đây cứ chơi vơi làm sao. Chị Tư chỉ thoáng qua, các tuyến thời gian đan xen, nhào xuôi đáo ngược. Từ cuộc gặp gỡ lúc thằng bé chín tuổi lần đầu giáp mặt Cậu Năm cho đến chuyện hồi xưa Cậu Năm chơi bóng, cậu tắm truồng, rồi chuyện hiện tại mấy ngày ở chung cư, chuyện ông Ngoại tuyển mộ chiến binh cho cuộc hành xác đứa con gái đã từng là con trai của ông, rồi quay lại chuyện cậu vứt cái tên Cường oai dũng hết biết xuống đáy sông làm ông ngoại nổi khùng, rồi chuyện cậu hát cho nó nghe để rồi hai ông cháu nhận tờ giấy ghi “Cha về đi”, cuối cùng chốt lại một cách lửng lơ. Cuộc đời của Cậu Cường/Mộng Yên hiện lên một cách rời rạc, tán loạn, hỗn độn và hoàn toàn không có sự mạch lạc tuyến tính. Mỗi ấn tượng về nhân vật hiện lên như một cơn gió thoáng qua ý thức. Và dòng chảy tư niệm đó tạo nên sự đổ vỡ của cốt truyện. Cũng như lối kết cấu ở đây là các mảng ghép bục vỡ. Người viết đâu có ý thức đến việc kết cấu, xây dựng cốt truyện. Hẳn nhiên chị Tư không gạt bỏ cốt truyện. Nhưng cách chị chậm rãi kể lại câu chuyện đã cho thấy sự tiêu biến của cốt truyện. Các lớp kết cấu chính là các mảng ký ức quá khứ và hiện tại chồng chéo, đan xen. Bởi rằng cái mà chị Tư quan tâm chính là các ấn tượng hiện lên trong việc triển khai các diễn ngôn.
Thành ra, lắm người đọc truyện của chị thường có cảm giác giống như người nhà xa quê đã lâu. Một ngày trở lại quê nhà, nghe chị kể chuyện như thể đang ngồi bên giàn nước, đang ngồi ở mé hiên sau nhà. Chị cứ lâm râm kể, thủ thỉ mấy chuyện cũ rít. Mà lâu lâu chị là lại làm ta thót lên trong dạ. Nhiều khi chửng hửng, người đọc ngã ngửa ra đứ đừ. Mà chị kể gọn hơ, kiểu như ngồi chong đèn trong bếp rồi chậm rãi mà kể. Nghe cứ lan man nhưng rầu rĩ trong ruột trong gan.
Nhưng không thể trách sự lan man của cốt truyện. Bởi chị nhập vai đứa con nít mà kể. Con nít thì chân thật, biết sao kể vậy. Đâu có như người lớn. Mà chính ở chỗ con nít nên lời kể mới thốn, mới xót.
-  "Con thưa cậu".
-  “Nghe anh nhân viên hộ tịch kể, cậu đòi được lấy tên Mộng Yên, nói thêm, "họ gì cũng được".
-  "Cậu diện áo đầm đi dễ té, sao không mặc quần hai ống giống như con cho gọn", tôi nói. Những câu nói nhân danh tình thâm được rải lền khên trong suốt mấy ngày chúng tôi ở lại nhà cậu Năm.
-  "Cậu mầy hồi nhỏ có tên trong đội banh của trường".
-  "Thằng Cường con tôi thấy vậy thôi, chớ hồi chưa chuyển giới nhìn nó ngầu lắm"
-  “"Làm đàn bà khổ thấy mồ, thiệt không hiểu ham gì mà bất chấp", một thím thở hắt”.
-  "Làm đàn bà", cậu tôi nói, mắt ngó ông ngoại, hơi mỉm cười. Câu trả lời chắc chắn chẳng dành cho con nít”.
-  "Thấy vậy chớ cậu mầy ca thần sầu lắm", vào buổi tối thứ ba làm khách trong nhà cậu, ông ngoại nói trong lúc ngồi gỡ lớp da nẻ ở gót chân.
-  "Ờ, con gà trống, gáy sao cũng là tiếng gà trống", ông ngoại châm điếu thuốc, khoái chí cười.
-  “cậu Năm được bạn đưa về với cổ quấn băng trắng, người hơi xanh. Hỏi cậu bị sao, người bạn kia cười, "cắt dây nói"”.
Lối viết phi cốt truyện, phi kết cục kèm với việc tạo nên các ấn tượng trên dòng diễn ngôn, chị Tư chỉ chú trọng đến việc lưu giữ lại niềm đau tủi kiếp người sau khi con chữ cuối cùng đã lặng tắt. Để cho cái đau ấy còn dư vọng trong lòng người đọc, chị không cố công làm cho rõ ngọn ngành, không cố công luận lí với cuộc đời để làm cho ra lẽ, chỉ là kể qua có cái chuyện vậy thôi. Bởi vì, làm sao mà luận lí cho rõ chuyện đời được. Đời người như cái vực xoáy khôn cùng. Có lẽ Tư đã cảm nhận được sự tương đối của nghĩa lý và sự luận lý về chuyện đời là vô nghĩa và hết sức “tầm xàm”. Đôi co với đời chỉ để trầy vi tróc vảy thêm mà thôi. Bởi đâu có cái gì rõ ràng tuyệt đối để mà cãi cọ.
Ngôn ngữ và giọng điệu “tỉnh bơ” đến thấu xương
Đã hơn một lần, giới phê bình học thuật có người chê Ngọc Tư quê mùa, ngôn từ ngô nghê, kinh nghiệm sống non nớt, tay viết còn non, chưa chín tới. Nghe đâu đó là một vị tiến sĩ hàn lâm có thâm niên giảng dạy truyện ngắn ở ĐH khá bự ở Thủ đô. Nghe nhận xét như vậy, chắc chị Tư chỉ biết làm thinh. Bởi làm sao mà nói được. Nhận xét đúng mười mươi. Ngôn ngữ của Ngọc Tư ngô nghê đến mức ám ảnh.
Câu chữ chị viết rặc Nam Bộ. Có sao thì nói vậy, bụng nghĩ làm sao thì nói ra y vậy. Không vẽ vời, không phô trương, không khoác lác, không múa chữ. Giữa bao nhiêu kẻ lòe chữ múa may trên chiếu văn, chị cứ ngồi im re. Nói nhỏ nhẹ, cái kiểu quê mùa, cù lần. Bởi chữ nghĩa của chị cũng như lời ăn tiếng nói của những kẻ bình dân ít học. Ai học nhiều biết được nhiều chữ thì nói ra văn vẽ, chị học ít, có nhiêu nói nhiêu. Ai chê thì cười nhẹ, ai rầy chị cũng cười nhẹ rồi thôi.
Ngôn từ bình dân của chị là vậy. Nhưng nó có mãnh lực ghê gớm. Dường như có lần chị đã từng nói, văn của chị như trái sầu riêng. Ai chịu đèn thì ghiền, ai không thích thì lánh xa. Có lẽ phải bước vào trong nội tâm của những con chữ “quê mùa” ấy mới cảm được giọng điệu thủ thỉ chậm rãi của người phương Nam. Chị cứ kể tỉnh bơ ba khía, ai làm gì làm, ai khua chiêng gióng trống chữ nghĩa văn chương, con ba khía cứ sờ sờ ra đó.
Và con ba khía trong câu chuyện Từ bỏ nằm ở chỗ đứa con nít. Nó cứ nói tỉnh bơ. Lời nói của nó, nhiều khi ông ngoại lôi kéo để đả thương Cậu Năm. Mà cũng nhiều khi nó phản bội toan tính của ông ngoại (cái toan tính muốn chọc khoáy vào vết thương của Cậu Năm).
Và bởi nó cứ nói tỉnh bơ nên mới đau thấu xương. Và bởi ông ngoại cứ kẻ chuyện Cậu Năm tỉnh queo như thể cậu chưa từng phẫu thuật tái thiết lại giới tính thành ra mới đau thắt ruột.
Trong các sáng tác mang dấu ấn hậu hiện đại, người ta hay nói đến giọng điệu giễu nhại để phi thiêng hóa, cũng như giọng châm biếm, mỉa mai. Ở trường hợp Từ bỏ của Nguyễn Ngọc Tư, có lẽ, chúng ta sẽ không nhận thấy sự chế giễu và châm biếm trong lời kể. Nhưng khả năng đặt lại vấn đề bằng sự hoài nghi về hệ giá trị sống không phải là không có. Chính ở chỗ đó, giọng điệu cợt đùa ngã nghiêng đau đớn đứ đừ của nó mới xọc thẳng vào lòng người.

Kết luận
Trong số ít cây viết nữ, Nguyễn Ngọc Tư hiện lên như một bóng hình lặng lẽ và đơn sơ. Chiếc xuồng ba lá ở con rạch mé kinh lướt đi êm đềm trên mặt nước làm sao thì chị Tư cũng xuôi chèo sông nghiệp chữ nghĩa y chang như vậy.
Bài viết của chúng tôi sau khi tạm gác lại, có lẽ, vẫn còn nhiều chỗ chưa thật sự thỏa đáng và tới nơi tới chốn. Bởi vì, chúng tôi nghĩ, suy cho đến cùng, vẫn thấy sự gán ghép các lí luận trường phái cho bất cứ một sáng tác nào cũng đều là khập khiễng. Vì mỗi sáng tác khi đã đạt đến chỗ hiện hữu, nghĩa là tác phẩm có đời sống riêng của nó thì nó hẵn đã là cuộc đời rồi. Mà cuộc đời thì chật ních nhưng đổ cái gì vào cũng đủ. Dùng luận lí phê bình trường phái trào lưu nào cũng soi ra được chỗ cần nói, soi ra được điều mà người nghiên cứu muốn nói. Như người ta bói ra ma quét nhà ra rác, văn bản đã trở thành tác phẩm thì trong bản thân nó gồm thâu chuyện của rất nhiều cuộc đời vậy. Sức dung chứa, sự thành công và tầm vóc của người viết chính là ở chỗ như thế.
Ở đây, chúng tôi không vội vàng kết luận về tầm vóc của Nguyễn Ngọc Tư với tư cách là một cây viết Hậu hiện đại. Bởi vì có một bài viết con cỏn mà kết luận này kia thì rất buồn cười. Phàm là chuyện ở đời, càng nói lại càng đi lạc khỏi vấn đề. Sự bất lực của ngôn ngữ con người là ở chỗ đó. Thành ra, viết về Nguyễn Ngọc Tư với tư cách Hậu hiện đại nhưng cuối cùng lại cho thấy một Nguyễn Ngọc Tư vượt lên trên tính chất Hậu hiện đại đó. Bởi chị Tư là chị Tư một cách trọn vẹn, là bản thân chị thế thôi. Tính chất Hậu hiện đại trong truyện ngắn Từ bỏ của Nguyễn Ngọc Tư là góc nhìn và ý hướng của ta phóng về phía chị chứ không phải tự thân chị mang cái ảnh hình Hậu hiện đại gì đó. Cần phải sòng phẳng như vậy mới được.

Tài liệu tham khảo
1.      Nguyễn Thị Bình, Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết hậu hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam), Nxb. Tri Thức, H. 2013, tr.236-237.
2.      Nguyễn Thị Thúy Nga. 2016. Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học. Đại học KHXH&NV-ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.1.
8.      Thanh Tâm Tuyền, Nghệ Thuật đen, Talawas.org
10.http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c391/n26664/Pham-tru-nhan-vat-trong-tieu-thuyet-Viet-Nam-theo-xu-huong-hau-hien-dai.html




[1] Thật ra không phải đến thời kỳ này dân ta mới được rửa phèn. Trước đây đã có thời Saigon là hòn ngọc viễn đông kia mà. Chỉ là sau mùa hè năm ấy, dân ta tự nhiên phèn trở lại. Nên đâm ra phải đổi mới để rửa phèn lần nữa.
[2] http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/liluan-phebinh/693-tn-mn-v-hu-hin-i-va-i-t-s-trong-vn-hc-vit-nam
[3] https://phebinhvanhoc.com.vn/dau-an-hau-hien-dai-trong-van-hoc-viet-nam-sau-1986/
[4] Nguyễn Thị Thúy Nga. 2016. Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học. Đại học KHXH&NV-ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.1.
[5] https://phebinhvanhoc.com.vn/ve-mot-vai-khai-niem-cua-chu-nghia-hau-hien-dai/
[6] http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=14489%3A2013-07-05-00-08-55&catid=4131%3Aly-luan-phe-binh&Itemid=7242&lang=vi&site=30
[7] Thanh Tâm Tuyền, Nghệ Thuật đen, Talawas.org
[8] http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=4890
[9] http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=4890
[10] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c391/n26664/Pham-tru-nhan-vat-trong-tieu-thuyet-Viet-Nam-theo-xu-huong-hau-hien-dai.html
[11] https://tuoitre.vn/tu-bo-mot-truyen-ngan-cua-nguyen-ngoc-tu-20180201094828494.htm
[12] Nguyễn Thị Bình, Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết hậu hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam), Nxb. Tri Thức, H. 2013, tr.236-237.
[13] https://tuoitre.vn/tu-bo-mot-truyen-ngan-cua-nguyen-ngoc-tu-20180201094828494.htm
[14] https://tuoitre.vn/tu-bo-mot-truyen-ngan-cua-nguyen-ngoc-tu-20180201094828494.htm

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...