Skip to main content

DƯỚI GÓC NHÌN HẬU HIỆN ĐẠI - KỲ 2: “CỐ ĐỊNH MỘT ĐÁM MÂY” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ


DƯỚI GÓC NHÌN HẬU HIỆN ĐẠI - KỲ 2: “CỐ ĐỊNH MỘT ĐÁM MÂY” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ

 [Võ Quốc Việt - Khol V., 2018]
1. Nguyễn Ngọc Tư trong bối cảnh văn học đầu những năm 2000 đến nay

1.1.           Dấu ấn Hậu hiện đại trong đời sống văn học đầu những năm 2000 đến nay
a.      Hậu hiện đại và hoạt động lí luận phê bình văn học
Theo Bùi Văn Nam Sơn:Tâm thức của một thế hệ bộc lộ rõ rệt nhất trong các loại hình nghệ thuật cùng với sự phê bình nghệ thuật và mỹ học. Tuy nhiên, cũng cần đặt nó vào trong bối cảnh chính trị - xã hội rộng hơn của thời đại, để từ đó, có thể hiểu mối quan hệ giữa “hiện đại” và “hậu hiện đại” một cách đúng đắn hơn so với cách hiểu vội vã và đơn giản về chữ “hậu” như nhát cắt về phân kỳ lịch sử…”[1]. Có lẽ ý kiến này đã phần nào cho thấy cái nhìn thiển cận của đa số người “hùa” theo khái niệm Hậu hiện đại như một cái gì hoàn toàn mới và là một bước chuyển tiếp theo đánh dấu sự cáo chung của thời kỳ hiện đại. Hơn hết, khái niệm hiện đại hay hậu hiện đại không hẳn chỉ bó buộc trong phạm vi thời gian mà trong bản thân nó hàm chứ những đặc thù của thời đại. Và những đặc thù này mang tính chất phi thời. CHỉ là khi những đặc thù đó trở lại ở một thời kì phát triển nhất định lại khoác lên một dáng vẻ mới dù bản chất không thay đổi. Chính cái lớp áo mới mẻ đó đã “lòe” được một số người để họ buông ra những nhận định thái quá. Nói đến vấn đề này trong bài viết về Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi muốn xác định dấu ấn Hậu hiện đại như là các đặc thù của tư duy nghệ thuật chứ không phải chỉ ở sự phán kháng lại tính Hiện đại, chối bỏ tính chất Hiện đại để vượt lên một tầm cao mới. Chúng tôi muốn xác định Hậu hiện đại như những đặc thù của tư duy nghệ thuật.
Để đến với Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nghĩ rằng cần quay ngược về khoảng thời gian trước đó một chút. Nhà văn Trần Bảo Định nói rằng: kì thực Nguyễn Ngọc Tư mang dấu ấn lối viết của Lê Xuyên khá rõ nét. Đây cũng là một trong những lí do khiến chúng tôi muốn trở lại với giai đoạn văn học 1954-1975. Bên cạnh đó, sự phát triển và giao lưu với các trào lưu văn học Âu – Mỹ trong thời kì này rất phong phú nên chúng tôi thiết nghĩ việc trở lại với tính chất hiện đại của thời kỳ này như là một bước đà cho việc chúng ta nhìn nhận về Hậu hiện đại như một dấu ấn trong thời đại bây giờ. Ở các đô thị miền Nam 1954- 1975, giới nghiên cứu triết học và văn học, có thể nói, đã đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa Hiện đại và ít nhiều dịch chuyển vào hệ hình chủ nghĩa Hậu hiện đại. Tất nhiên, vấn đề này cần nhiều thời gian hơn để tra cứu. Tuy nhiệ, thông qua một số đại diện tiêu biểu, chúng ta có thể phác lược sơ bộ về việc chuyển dịch vào khuynh hướng Hậu hiện đại. Trước 1975, ở Miền Nam Việt Nam, trong một điều kiện xã hội gần gũi hơn với Phương Tây, đã có nhiều nhà nghiên cứu bước đầu tiếp cận với hậu hiện đại dù họ chưa thật sự sử dụng khái niệm này. Đâu đó, trong các trước tác, ý hướng mà họ dụng đến trong các công trình nghiên cứu đã đụng đạm đến các đặc thù cơ bản của khuynh hướng Hậu hiện đại. Một trường hợp chúng ta có thể nhắc đến ở đây, Phạm Công Thiện.  Trong bài viết “Sự thất bại của cơ cấu luận (Phê bình Levi – Strauss và Jacques Derrida), ông đã nhấn mạnh đến yếu điểm của cơ cấu luận khi nó chấp nhận “sự đánh mất trung tâm: tư tưởng về cơ cấu tính của cơ cấu (la structuralité de la structure) được phục hồi qua sự thất bại của một trung tâm điểm”[2]. Thế thì, trong sự luận giải của Phạm Công Thiện, tính chất phi trung tâm đã bắt đầu lộ diện và được chú ý nhưng một đặc thù của tư tưởng và thời đại.
“Ở Việt Nam, khái niệm “hậu hiện đại” lần đầu tiên được đề cập đến trong nghiên cứu văn học là bài viết Từ văn bản đến tác phẩm văn học và giá trị thẩm mỹ của Trương Đăng Dung, được công bố lần đầu trên Tạp chí Văn học, số 11, 1995, sau đó được tác giả đưa vào công trình Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1998.[3]
Sau đây, chúng tôi muốn liệt kê một số công trình để cho thấy sự phát triển của trào lưu Hậu hiện đại khi sự giao lưu giữa Việt Nam và thế giới rộng mở hơn từ sau đổi mới. Theo Nguyễn Hồng Dũng, Khoa Ngữ văn , ĐH Khoa học Huế: “Phải đến năm 2000 trở đi, từ “hậu hiện đại”, sau một thời gian dài vật vờ ngoài lề của tri thức Việt, mới bắt đầu được dùng phổ biến trong đời sống văn hóa nước nhà, được sự quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu và diễn ra nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến, quan niệm, xu hướng khác nhau”[4]
+ Phương Lựu công bố bài viết Tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại trên Tạp chí Nhà văn, số 8, sau đó được đưa vào bộ sách Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết (2003)
+ Năm 2001, nhà nghiên cứu Phùng Văn Tửu công bố chuyên luận Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh)
+ Vào tháng 9 – 2001, trên Tạp chí Văn học, Nguyễn Văn Dân in bài tiểu luận Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm. Bài này về sau được chỉnh sửa và in lại trên Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3, 2002, được đưa vào bộ sách Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết (2003).
+  Năm 2003, Nhà xuất bản Hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phát hành bộ Văn học hậu hiện đại thế giới. Tập 1 Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết có 7 bài viết của các tác giả Việt Nam, 3 bài của các nhà nghiên cứu trong nước và 4 bài của các nhà nghiên cứu người Việt định cư ở nước ngoài
+  Năm 2004, công trình nghiên cứu nổi tiếng Tác phẩm văn học như là quá trình của Trương Đăng Dung được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội phát hành
+ Cũng trong năm 2004, trong công trình Tự sự học – một số vấn đề lý thuyết, phần 1, Trần Đình Sử chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, bài viết Các kiểu truyện ngắn hậu hiện đại của Lê Huy Bắc đã hệ thống các phong cách truyện ngắn hậu hiện đại, tính đa dạng cũng như kỹ thuật viết đặc trưng của thể loại này. 
+ Năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8 in bài Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại của nhà nghiên cứu Đào Tuấn Ảnh.
+ Năm 2006, có hai công trình triết học của các nhà nghiên cứu Việt Nam được xuất bản, ghi nhận sự quan tâm mang tính toàn xã hội đối với vấn đề hậu hiện đại, và là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu văn học hậu hiện đại. Trong công trình Diện mạo triết học Phương Tây hiện đại của Đỗ Minh Hợp, Nhà xuất bản Hà Nội, ở chương 4 với tiêu đề Triết học xã hội Phương Tây hiện đại, tác giả đã xem xét những quan điểm triết học và những vấn đề đời sông xã hội hậu hiện đại. Trong công trình Chủ nghĩa hậu hiện đại của Trần Quang Thái, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã phác thảo và hệ thống lại lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại thế giới: những tiền đề về triết học, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo…, quan niệm hậu hiện đại như một thực thể của đời sống đương đại, qua đó, bước đầu tổng kết tư tưởng cơ bản của chủ thuyết này.
+ Năm 2007, được xem là năm mà đời sống văn học Việt Nam xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về hậu hiện đại nhất, kể từ trước đó. Đặc biệt, ba bài viết Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài của Lã Nguyên, Những yếu tố hậu hiện đai trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga của Đào Tuấn Ảnh, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đai của Cao Kim Lan đã mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào thực tiễn sáng tác văn học Việt Nam.
+ Năm 2008, trong bộ giáo trình Lý luận văn học (3 tập), Phương Lựu chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, đã đưa chủ nghĩa hậu hiện đại vào tập 3 (Tiến trình văn học), xem đây là một khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới đương đại. 
+  Năm 2009, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành tập tiểu luận – phê bình Tiểu thuyết đương đại của Bùi Việt Thắng.
+  Năm 2010, nhà nghiên cứu Phùng Văn Tửu công bố chuyên luận Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nhà xuất bản Tri thức. Công trình này là bước tiếp nối của hai công trình nghiên cứu về tiểu thuyết trước đó: Tiểu thuyết Pháp hiện đại – những tìm tòi đổi mới và Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, thể hiện mối quan tâm và sự chuyên chú của ông cho thể loại này. Diện khảo sát và nghiên cứu của cuốn sách là khá rộng, và điều lý thú ở cuốn sách này là, sau nhiều năm băn khoăn, giờ đây ông đã sử dụng thuật ngữ hậu hiện đại để lý giải về sự vận động của tiểu thuyết và một số tác giả hậu hiện đại. 
+ Năm 2011, nhà nghiên cứu Phương Lựu công bố công trình Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Đây là công trình lý thuyết hoàn chỉnh đầu tiên về văn học hậu hiện đại của một học giả Việt Nam.
+ Năm 2012, dấu ấn đậm nhất trong hoạt động nghiên cứu về hậu hiện đại ở Việt Nam là công trình Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và tiếp nhận của Lê Huy Bắc, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 
+ Năm 2013, có thể xem là năm bùng nổ của các công trình nghiên cứu hậu hiện đại ở nước ta. Trước hết là cuốn Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận do Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng chủ biên, Nhà xuất bản Văn học. 
Có thể nói, nếu như giai đoạn đầu, giới lí luận phê bình còn khá e dè với các luồng gió mới thì đến những năm 2000 trở đi, Hậu hiện đại có thể nói đã trở thành một trào lưu thời thượng. Không chỉ trong giới nghiên cứu hàn lâm mà trên các phương tiện đại chúng cũng hay được nhắc đến. Các trường đại học cũng khuyến khích sinh viên nghiên cứu về trào lưu này. Các tài liệu sách vở về Hậu hiện đại cũng phong phú hơn. Đặc biệt, nếu như ở những năm 90, Hậu hiện đại chỉ dừng lại ở những bài viết nghiên cứu đơn lẻ thì càng về sau nhiều công trình công phu và hoàn thiện dần được ra mắt và đóng góp rất lớn cho việc nghiên cứu Hậu hiện đại ở Việt Nam. Đó là điều kiện thuận lợi cho giới sáng tác tiếp cận thay đổi tư duy, đồng thời đóng góp nhất định cho hoạt động giáo dục ở bậc đại học và sau đại học.
b.      Hậu hiện đại trong địa hạt sáng tác văn học từ những năm 2000 đến nay
Theo Lã Nguyên: “Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài – những tảng đá hộc xây đắp nền móng”[5]. Có thể nói, thời kỳ đổi mới không chỉ dừng lại ở việc giao lưu tiếp biến mà còn dẫn đến sự thay đổi về cách tư duy và tư tưởng nền tảng. Chính ở sự thay đổi ấy, tư duy nghệ thuật có những bước đột phá mới, đóng góp đáng kể vào sự chuyển mình của nền văn học. Và nếu sự chuyển mình này mang lại giá trị nào đó cho văn học hiện đại Việt Nam thì theo như Lã Nguyên, công của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài là rất lớn.
Một đại diện nữa mà chúng tôi muốn nhắc đến, Đặng Thân. Cái tên còn khá xa lạ với bạn đọc đại chúng, nhưng giới nghiên cứu đã nhìn thấy ở Đặng Thân một kích cỡ lớn và tính chất đột phát về tư duy và bút pháp. “Đặng Thân – một bước ngoặt quyết đoán. Nhưng tình hình bây giờ đã khác đi. Đã có rất nhiều tác phẩm, nhiều tác giả ta có thể xếp hẳn vào văn học hậu hiện đại mà không phải “lăn tăn” gì. Về phương diện này, theo tôi, sáng tác của Đặng Thân, trước hết là tiểu thuyết 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần], là bước ngoặt quyết  đoán của văn học hậu hiện đại Việt Nam. Bước ngoặt này được đánh dấu bằng hàng loạt cách tân vô tiền khoáng hậu mà Đặng Thân đã tạo ra trong cuốn tiểu thuyết”[6]. Chính ở Đặng Thân, văn học đã lấy lại “vị trí hàng đầu cho chức năng trò diễn trong hoạt động thẩm mĩ”.
Trong số những cây viết khuynh hướng Hậu hiện đại, có lẽ trên các mặt báo, người ta nhắc nhiều đến Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà và sau nữa là Nguyễn Ngọc Tư, …. Ở các nhà văn này chất hài hước, nghịch dị và yếu tố nhại được sử dụng một cách phổ biến. Nếu như không nói là những yếu tố này đã trở thành chủ tính cho trang văn. Nghĩa là nó trở thành nguyên tắc tổ chức cấu thành tác phẩm. Bằng cách sử dụng các yếu tố này, Hồ Anh Thái hay Nguyễn Việt Hà lột tả đối tượng và chống lại cái “đơn điệu” nhàm chán thuộc về các mẫu thức của đời sống. Bằng cách đó, học cắt đứt dòng chảy bình ôn và vô vị của đời sống. Thế nên, vừa lột tả vừa chế giễu để cái suồng sã của bình dân chợ búa đi vào các suy tư trừu tượng bác học hàn lâm. Chính ở đó, văn chương cho thấy những hoài nghi về các trật tự đời sống. Thậm chí, đời sống là nghi hoặc và truy vấn. Sự truy vấn trở thành đặc tính cốt lõi của dòng chảy truyện. Truy vấn là biểu hiện của hoài nghi mà cũng là cứu cánh của việc sống nữa.
Ở đây, chúng tôi chỉ giới thiệu một số cái viết tiêu biểu qua các thời kỳ. Riêng ở giai đoạn những năm 2000 trở đi, có lẽ chúng ta sẽ dành đến phần sau của bài viết, ở phần nói về Nguyễn Ngọc Tư và Cố định một đám mây để bàn nhiều hơn về dấu ấn Hậu hiện đại trong sáng tác của chị.
1.2.           Nguyễn Ngọc Tư và tâm thức Hậu hiện đại
a.      Về tâm thức Hậu hiện đại
Có lẽ ở Việt Nam, với các hoàn cảnh và điều kiện đặc thù, nên việc chúng ta nói về Chủ nghĩa Hậu hiện đại trong ý nghĩa đầy đủ của nó có vẻ còn khá khập khiễng. Thế nên, khi nói về khuynh hướng này, nhiều nhà nghiên cứu vẫn e dè sử dụng : dấu ấn hoặc khuynh hướng. Đó là sự e dè có lí do và cho thấy các nhà nghiên cứu đã có sự cân nhắc đối với thuật ngữ này. Bởi Hậu hiện đại đã hội tụ một số yếu tố nhất định để dẫn đến sự chuyển dịch trong bối cảnh văn học Âu – Mỹ hậu bán thế kỷ XX. Trong khi đó, ở Việt Nam, sự chuyển dịch và các điều kiện diễn ra rất khác. Do dó, để nói về Chủ nghĩa Hậu hiện đại ở Việt Nam vẫn còn có thể gây ra những lấn cấn và nghi ngại. “Dấu hiệu quan trọng đầu tiên của sự đổi mới tiểu thuyết tiểu thuyết Việt Nam những năm 1986 - 2010 là khi các phạm trù dân tộc, lịch sử, văn hóa và các vấn đề cá nhân, xã hội đương đại được đặt trong sự diễn giải gắn với tâm thức. Các tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Đình Tú, Đặng Thân, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Châu Diên, Phong Điệp, Thuận, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Ngọc Tư… dù khác nhau về quan niệm sáng tác, hệ đề tài và chủ đề, phong cách nghệ thuật, nhưng đều gần gũi nhau ở chỗ đặt định và xem xét tâm thức trong biểu giá trị tinh thần mới - hậu hiện đại, lấy tâm thức làm hạt nhân cho sự triển khai tư tưởng nghệ thuật và quy hiệu ứng thẩm mỹ về vấn đề tâm thức”[7]. Và như ý kiến này, để nói về Hậu hiện đại ở Việt Nam, chúng ta cần tìm kiếm trong tư duy nghệ thuật của người viết. Ở đó, dấu ấn tâm thức biểu hiện sự chuyển dịch hệ giá trị và từ nền tảng cốt lõi đó, ảnh hưởng để hình thành một hệ thi pháp khác. Chúng tôi cho rằng việc dùng hệ thi pháp mới e rằng sẽ gây ra những khập khiễng, bởi sống số vấn đề về thi pháp ở các cây viết Hậu hiện đại gần đây, dường như đang lặp lại và học tập lại các thành tựu thi pháp của văn xuôi đô thị miền Nam trước 1975. Do đó, phải chăng chúng ta nên nói về việc dịch chuyển hệ thi pháp khác. Vừa có tính chất tiếp nói vừa có tính chất đặc thù của thời đương đại. Hơn hết, không khí đương đại đã in hằn và biểu hiện trong tâm thức của người viết. Dù gì đi nữa, họ vẫn là con người của thời bây giờ. Tính chất hậu hiện đại của những cây viết được nhắc đến trong ý kiến trên vẫn là cái bối cảnh hậu hiện đại của con người đang sống đây một cách cụ thể.
Trong bối cảnh đặc thù đó, trên dải đất ngập chìm trong li loạn thì tính chất Hậu hiện đại gắn liền với Hậu thực dân: “Theo Phương Lựu trong công trình Lý thuyết văn học hậu hiện đại và một số nhà nghiên cứu, mà đặc biệt là Đoàn Ánh Dương trong bài Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, tâm thức hậu hiện đại ở Việt Nam có mang dấu ấn của tâm thức “hậu thực dân” (postcolonialism), nhất là trong các tiểu thuyết lịch sử viết về thời kỳ đất nước đang còn là thuộc địa. Tâm thức hậu thực dân trong văn học Việt Nam dẫu không phổ biến, nhưng lại cung cấp nhiều cái nhìn quan trọng, mới mẻ mang tính hậu hiện đại về lịch sử dân tộc, đặc biệt là cảm thức bênh vực và bảo vệ cho những “cái khác”, “cái ngoài lề”, “cái bản địa” so với cái thực dân đóng vai trò như một đại tự sự[8]. Thế nên trong tâm thức hậu hiện đại của một số cây viết được nói đến, phải chăng vẫn còn phảng phất dấu ấn nhược tiểu và sự cưỡng bức về văn hóa. “Nghiên cứu chủ nghĩa hậu thực dân nói chung và văn học hậu thực dân ở Việt Nam nói riêng, theo đó, ngoài ý nghĩa về mặt Việt học, rộng ra là Đông phương học, bởi tính chất tiêu biểu của các quá trình thực dân/ thuộc địa hóa, còn có triển vọng thiết thực đối với các vấn đề của hiện tại ở Việt Nam hậu thuộc đang đối diện thường xuyên với toàn cầu hóa”[9]. Trong cuộc giao lưu đó, Hậu hiện đại đã “tái định cư” ở vùng đất mới dựa trên “thổ nhưỡng” và các dấu ấn lịch sử còn in hằn lại trên mảnh đất ấy.
Trở lại vấn đề tâm thức, vấn đề cốt lõi nhất vẫn là tâm thức hậu hiện đại như là các thủ pháp trong những sáng tác văn học. Và khi người viết thực sự sống trong cái tâm thức đó, thiết lập được một quan hệ với cái tâm thức ấy, thì tác phẩm đó mới là tác phẩm hậu hiện đại hoặc có dấu ấn hậu hiện đại. Điều này là căn để mà chúng tôi bám vào để tìm hiểu tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
Vậy chung quy, tâm thức hậu hiện đại có những khía cạnh hoặc đặc thù như thế nào ?
“Có thể hiểu Hậu hiện đại ra đời vào thập kỉ 60  của thế kỉ 20 như là một sự phản ứng lại với chủ nghĩa hiện đại (cái hiện đại), phản ứng lại những mô thức định sẵn. Post (sau) ở đây không có nghĩa chỉ một tiến trình lịch sử, cái này ra đời thì cái kia biến mất, mà là một sự phản ứng trở lại. Cho nên theo nhiều nhà nghiên cứu, Hậu hiện đại là một khái niệm phi thời, nghĩa là trong bất kì xã hội nào, thời kì nào có sự khủng hoảng tinh thần cũng có thể tồn tại tinh thần hậu hiện đại, có chăng ở những giai đoạn gần đây, tinh thần ấy nổi trội, đậm đặc và ở nhiều nơi trở thành chủ đạo mà thôi. Hậu hiện đại mang tinh thần thời đại chứ không chỉ thuần là văn nghệ như một số trào lưu khác (như tượng trưng, siêu thực chẳng hạn). Là một trạng thái tâm thức (state of mind), nên rất khó để định nghĩa Hậu hiện đại là gì, bởi nó chống lại những khái niệm tuyệt đối, chống lại những nguyên lí bất di bất dịch... và chống lại (hay phá dỡ, phá bỏ) đại tự sự”[10] “Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Có thể nói vắn tắt, đó là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh thần của thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, tính áp đặt của cái chính thống, của các phát ngôn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người… Đấy là tinh thần chung nhất”[11].
Tựu trung, tâm thức hậu hiện đại, cốt lõi là hoài nghi và phủ định. Nếu như Hiện đại đặc trưng bởi tính thống nhất hóa, trung tâm hóa, cấu trúc chặt chẽ và có thức bậc rõ rệt thì Hậu hiện đại hướng đến phi trung tâm hóa, lắp ghép ngẫu nhiên, trò chơi, sự nhại lại và kết hợp lỏng lẻo giữa các thành tố. Để thông qua đó, nó thể hiện một vũ trụ luận hỗn độn, một thế giới quan sụp đổ, phá bỏ các lằn rành và mẫu thức. Cuộc đảo hoán các hệ giá trị và dự trình cho một cuộc chuyển địch hệ giá trị khác.
b.      Về Nguyễn Ngọc Tư
Khi nói về Nguyễn Ngọc Tư, điều mà chúng tôi băn khoăn hơn cả là sự khập khiễng giữa việc tiếp xúc với tác phẩm của chị cùng thực tế “thi phi chê bai tán tụng” về chị. Những người khen thì khen quá mức mà khen bừa. Những người chê thì chê trệch thượng và chê ẩu. Thế nên, về Nguyễn Ngọc Tư, hãy xem đó là một hiện tượng hoàn toàn riêng biệt của tâm thức kẻ đọc. Và sự tiếp xúc với thế giới văn xuôi Ngọc Tư hãy để cho cái thiên tư đó giao hòa và bộc lộ các thể tính trần trụi nhất của Ngọc Tư trong mỗi con người.
Về mặt truyền thông, lối kể của Nguyễn Ngọc Tư vừa có sức hút ở cốt truyện thường khi giật gân lại vừa rất hiện đại, cốt truyện luôn bị chìm đi bởi những yếu tố/chi tiết ngoài cốt truyện. Có lẽ vì lí do như thế nên văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư có khả năng dung chưa và địa vực của tác phẩm được mở rộng đa chiều. Phải chăng người viết đã cố ý để lại những khoảng mờ/ điểm trắng và chờ đợi một hữu thể lấp đầy. Đó là khả thể của người đọc tiềm ẩn ở tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
Ở một số truyện ngắn thuở mới vào nghề viết (Ngọn đèn không tắt, Giao thừa) chủ yếu xoay xung quanh đề tài tình cảm chân chất quê nhà thì về sau, lồng trong câu chuyện là vấn đề thời sự: vấn đề môi trường, vấn đề đô thị hóa, công nghiệp hóa, kéo theo đó là sự thay đổi, sụp đổ của các thiết chế văn hóa truyền thống. Ở đó, tình người như những nhát dao cắt vào lòng người đọc.
Một điểm nổi bật dễ thấy ở những nhân vật mà nhà văn lựa chọn thể hiện. Những kẻ cô đọc, thê thảm và đứ đừ vì số phận. Các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường rất cô độc hoặc thậm chí buộc phải cô độc không lối thoát. Giữa dòng chảy đời sống và sự thay đổi của cơ chế xã hội, lòng dạ con người bỗng dưng bơ vơ, sự lạc lỏng từ chỗ đánh mất mà ra. Vì đánh mất nên không có cuộc đời, không có cuộc đời nên ngơ ngác. Cô độc toàn diện.  Họ mất kết nối với cộng đồng hoặc từ chối gắn kết với cộng đồng vì một niềm đau năm cũ (Đau gì như thể…)
 Một khía cạnh khác mà chúng ta có thể bắt gặp mà từ đó có thể liên hệ với tinh thần hậu hiện đại chính là bóng dáng của những kẻ lạc loài, có những niềm đau mãi mãi chôn hằng trong tâm tưởng. Những nỗi đau đặc thù bất khả luận giải, mà thường thì nhà văn để cho nhân vật tự trải nghiệm niềm đau mà không đi vào lí giải nó. Sự truy vấn đặt ra cho nhân vật là một kinh nghiệm hữu thể để “ngã-tôi” trở thành tại thế thể một cách chân thực. Trong vòng vây của niềm đau, tửng mảng lớn tâm hồn vỡ ra. Những sự đổ vỡ đó được nhà văn chuyển tải một cách “nhẹ hều” đến bất ngờ. Nguyễn Ngọc Tư thường làm cho người đọc ngã ngửa ra như vậy.
Có lẽ, vài nét như thế cũng đủ để thiết lập trạng huống dẫn dắt chúng ta vào việc khai thác dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của chị. Và trong bài viết này, chúng tôi khảo sát truyện ngắn Cố định một đám mây, một sáng tác mới toanh của chị.

2.       Từ Phi trung tâm hóa đến Đại lộ Hư vô hay cõi người sụp đổ (Truy vấn Hữu thể - con đường lưu đày ngoại biên bất khả luận giải của nỗi hoài nghi và sụp đổ)
2.1.           Tra vấn là gì ? (sự bắt đầu của chuyến đi ngoại biên hóa)
Ở vấn đề này, chúng tôi trở lại và sử dụng thao tác truy vấn của Martin Heidegger để cho thấy sự dịch chuyển về phía ngoại biên của tư duy sáng tạo Nguyễn Ngọc Tư.
Heidegger phát hiện ra sự ngớ ngẩn của triết học Tây phương hàng thiên kỷ. Tất cả bắt nguồn từ câu hỏi và cách đặt vấn đề về hữu thể. Và đối với Heidegger, đó là cái hữu thể trong chân không, trong phòng thí nghiệm; khô cứng và chết. Sự tra vấn về hữu thể gần như không được đặt ra, hoặc đã bị đặt ra một cách sai lệch và từ đó xây dựng một truyền thống hữu thể học cổ điển phát triển cô lập với đời sống hiển hiện sinh động; và do đó hoàn toàn vô vị và vô bổ. Nhưng chúng ta cũng không thể chối sự cần thiết của một câu hỏi hữu thể toàn diện và triệt để.
Từ đó, Heidegger trở lại với việc đặt câu hỏi về hữu thể. Đó là một quá trình tri thức. Truy vấn nghĩa là tìm và phải tìm thấy, nghĩa là đã có một chiều hướng từ trước khi triển khai cuộc tìm kiếm ấy. Hướng của tra vấn xuôi về đâu ? “Tra vấn là một tìm kiếm nhằm tri thức hiện vật trong hiện hữu và yếu tính của nó”[12]. Vậy chúng ta tra vấn, chúng ta đi và sống, đi về phía nào; chúng ta tìm yếu tính của hiện thể trong hiện hữu của nó. Chúng ta không nhấc nó ra khỏi bối cảnh và đời sống của nó. Thế mà, chúng ta cũng như rất nhiều người khác, thường bị cách li hoặc bị giam giữ trong môi trường giáo dục niềm tin mù quáng của tôn giáo, của quy phạm xã hội, của truyền thống, của văn hóa, của “bầy đồng loại” chung quanh. Ở trường hợp của Nguyễn Ngọc Tư chính là sự phát hiện và cắt đứt. Cắt đứt dòng chảy vô tư niệm của đời sống thường ngày. Trong Cố định một đám mây, dường như mỗi nhân vật bị đặt vào tình thế phải ưu tư, dù chưa thật sự nhận thức một cách rõ ràng về nỗi ưu tư đó. Một niềm đau siêu hình. Cơ hồ, cuộc đời bị bóp méo hoặc ít nhất không còn đúng là cuộc sống của ta nữa. Trong hiện trạng như thế, chúng ta không thể lần hồi về yếu tính chính mình được nữa. Làm sao ? Chúng ta phải tra vấn, gột rửa và rũ bỏ những vướng mắc che lấp con người ta giữa đời sống.
Và như đã biết, tra vấn là tra vấn về hay “xét như là tìm kiếm tra vấn đòi hỏi một hướng chiều đi trước từ cái được tìm kiếm”[13]. Thế thì dường như ý nghĩa của hữu thể là một tiền giả định hiện hữu đối với kẻ tra vấn. Nguyễn Ngọc Tư thấy được hoặc ít nhất cảm nhận được điều gì đó lờ mờ xuất hiện trong tâm hồn. Chị biết nó có đấy, nghĩa là những câu hỏi; biết rằng nó chắc chắn hiển hiện trong mọi ngóc ngách đời sống. Chỉ là, nhiều khi nó ngô nghê hoặc hoàn toàn vớ vẩn, nhưng, chỉ đến khi chúng ta chạm tay vào nó, đòi hỏi và khát khao trả lời nó; chúng ta hoàn toàn thất bại. Vì lúc đó, ai ai cũng bị lôi tuột vào hố thẳm của chính nó – những câu hỏi – không ai có thể thoát khỏi được. Chúng ta giẫy giụa, vì thực tế lúc đó, chúng ta hoàn toàn thấy mình bất lực và bị động (Bìa Nước Mặt là cái hố thẳm tù động, một bản án của con người nơi đó. Phải chăng mỗi chúng ta cũng đang phải gánh chịu bản án của cuộc đời).
Khi đứng trước những tra vấn đại loại như: Đời bạn là gì ? Bạn là ai ? Bạn có thể làm được những gì ? Những gì mà bạn có thể tin thật được ? Bạn có thể chắc điều gì ? Bạn là gì tiếp theo và như thế là để làm gì ? Chúng ta hoàn toàn biết những câu hỏi đại loại thế hầu như sẽ bị gạt hẳn đi. Những nhà bác học thông thái nhất có thể sẽ quát tháo vì cho rằng bạn đặt ra những câu hỏi ngớ ngẩn hòng chọc gheo ông ta. Và chắc chắn, tất cả dòng người đương vận chuyển giữa đời sống sẽ cho rằng bạn phát điên vì những câu hỏi như thế. Nhưng nếu bạn không trả lời được, hoặc ít nhất không đặt ra một cách nghiêm túc, cuộc sống trở nên lố bịch và vô nghĩa. Bạn chỉ là một trò hề. Những tra vấn về hữu thể căn cựu như hơi thở, thế nên, nó hầu như vô hình trước mắt người đời. Nhưng không có nghĩa rằng nó không có và không có nghĩa. Và dấu ấn Hậu hiện đại chính là sự trở lại với nhứng câu hỏi thâm căn cố đế như vậy. Thậm chí có một bản án hữu thể lửng lơ treo trên đầu mỗi chúng ta. Chỉ là chúng ta vờ đi và tự nhủ mình có được hạnh phúc và có được cuộc đời. Thực tế, hoàn toàn không, chúng ta chưa phập phồng ngực thở hòa vào đời sống nếu không nhìn nhận thẳng thắn những tra vấn như thế về trước hết là chính sự hiện diện của mình. Đáp án đã ngay cạnh câu hỏi.Vì câu hỏi chính là đáp án. Các nhân vật của Ngọc Tư là một dạng người đau đáu tư niệm về một viễn đích mơ hồ như thế. Đến nỗi, chỉ còn nỗi ưu tư là có thực.
Sự tra vấn nằm trong lòng cái được tra vấn hay “chúng ta không biết hữu thể có nghĩa gì. Nhưng ngay khi chúng ta tra vấn “hữu thể là gì”, chúng ta đã ở trong sự am hiểu nào đó về tiếng “là” mà chúng ta không thể xác định cách ý niệm tiếng “là” này có nghĩa gì”[14]. Tra vấn cơ hồ là ánh sáng rọi chiếu vào màn sương lạnh lẽo, là tiếng quạ xé toạt màn chiều nghĩa trang, lay động những xác chết rệu rã vẫn im ỉm giữa nấm mồ cô độc. Tra vấn nghĩa là đã hiểu. Vì tra vấn là tra vấn về, chúng ta dường như đã thấy được phương và hướng của sự vận động tư duy đó. Nghĩa là chúng ta đã nằm trong sự hiểu biết ít nhiều về cái mà mình tra vấn. Ở đó, tính mệnh lưu đày lộ diện. Việc hoài nghi về lẽ thường chính là cú giáng trước tiên cho những mẫu thức trung tâm và nỗi ưu tư mơ hồ là bước đi của sự phá vỡ đó. Chúng ta chỉ thực sự tra vấn khi mình đã mơ hồ nhận thấy một đáp án hoặc ít nhất là thấy rằng có một đáp án. Người ta chỉ tìm những gì mình tin là có. Cũng như Ái tin về một cuộc đời khác dù chưa biết cuộc đời khác ấy như thế nào, chỉ là cái ý hướng về cuộc đời khác ấy. Không phải niềm tin ấy xác tín sự chân thật của đáp án, mà chính rằng cảm giác thôi thúc không thể chối cãi được của những “chiếc răng bé xíu” ngấu nghiến hằng ngày, của những đòi hỏi bản thể, chính cảm giác đó buộc chúng ta thú tội và thừa nhận rằng có một khoảng trống thẳm sâu giữa tâm hồn cần được lắp đầy. Về căn bản, ưu tư nghĩa là đã li khai, đi về phía ngoại biên sinh thế chưa biết rõ. Hoài nghi trung tâm và di chuyển về phía ngoại biên bằng cái niềm tin mơ hồ đó. Đôi khi có vài ba kẻ trở lại Bìa Nước Mặn để củng cố cho một số kẻ còn do dự, củng cố cái niềm tin mơ hồ về một tính mệnh khác.Thế nên, truy vấn nghĩa là đã trả lời một nửa.
2.2.           Sự am hiểu hữu thể từ quá trình tra vấn ? (Ngoại biên và sự li khai, chối bỏ)
Trước hết, “sự am hiểu hữu thể trung bình và mơ hồ là một sự kiện”[15]. Có lẽ tôi – Nguyễn Ngọc Tư - chưa lĩnh hội được hữu thể là gì, nhưng khi nảy sinh minh nhiên sự tra vấn trong tôi về hữu thể thì sự am hiểu hữu thể gì đó trong tôi đã bắt đầu lao về hướng mà hữu thể có thực. Tôi thực hiện một bước ngoặt chuyển biến. Tôi giống như kẻ đắm mê nhận ra vòng vây bó buộc mình bấy lâu nay. Phải chăng Ái đã nhìn ra điều đó bắt đầu chối bỏ để ra đi để Biền ở lại.
Tôi – Nguyễn Ngọc Tư - ngoi mình lên khỏi bức màn đời ảo thuật và lừa bịp. Lúc đó tôi mới bắt đầu thở những nhịp đầu tiên và sống thực vào cuộc đời bản chất của mình. Đó là một sự kiện. Chúng ta có thể thực hiện được một khả dĩ vươn đến nó. Thực tế, nếu trước đó, tôi là tôi, thì khi có được sự am hiểu hữu thể trung bình (dẫu là một hồ), tôi trở thành “siêu tôi”. Nhà văn của chúng ta cảm thẩy ê chề cho những ngày tháng cũ nằm mê trong cái ao từ Nước Mặn.
Đâu đó, Ngọc Tư đã phát hiện ra sự khốn cùng của đời sống, đồng thời, phát hiện ra một sự thật mơ hồ còn lẩn khuất phía sau đời sống. Chị liên tiếp đặt ra những câu hỏi. Những tra vấn căn cựu nhất ồ ạt xuất hiện trên trang viết và nó xúi giục nhu cầu ra đi. Nhưng nhà văn chỉ mới vén bức mành che giả tạo của việc thực hiện sống của con người, nhưng ở phía sau đó, nhà văn trước và chúng ta sau, nhìn thấy cả trời sương vô vàn mờ ảo. Cái chân lý, cái sự thật được chời đợi tìm thấy lại là một chân trời bất định. Chúng ta nhận ra cái yếu tính ấy của bản nguyên “việc sống”. Sự am hiểu đó là có nhưng “sự am hiểu hữu thể này có thể còn rất trôi nổi, lẫn lộn và di động rất gần với giới tuyến của một tri thức ba hoa đơn thuần”[16]. Đó là tính chất nhị nguyên, tương đối. Không có chân lý tuyệt đối. Không có hệ giá trị bất di bất dịch cho một hữu thể chung chung. Khi chúng ta đặt ra câu hỏi và tra vấn yếu tính của “sống” chúng ta đứng trên lằn ranh giữa sự am hiểu thông thường (nghĩa là hiểu một cách lừa dối, hiểu mà chẳng hiểu hoặc chưa hiểu gì cả) với sự am hiểu trung bình về yếu tính hiện thể hay chính mình đấy. Và đó, chúng ta di dộng trên lằn ranh đó. Sự am hiểu của chúng ta thực tế vẫn cứ nhập nhằng, chệch choạng trên bờ vực giữa sống và chưa sống, giữa thấy và chưa thấy. Thế nên, tìm kiếm sự am hiểu hữu thể trung bình không phải là khởi điểm của kiến giải hữu thể đích thực. Sự am hiểu hữu thể trung bình chỉ cho chúng ta biết, soi sáng cho chúng ta về việc có thực của sự hình thành ý nghĩa hữu thể. Chúng ta và trước đó là Nguyễn Ngọc Tư đã biết đến sự cần thiết của câu hỏi hữu thể và việc tìm kiếm nó. Nhưng cái biết đó không giúp ích gì nhiều trong việc truy tìm điều chúng ta mong muốn. Chúng ta biết, nhưng không bám vào cái biết đó, mà ngược lại, tung vào nó, phá toang nó, lăn xả vào đời sống. Thế nên lưu đày và sụp đổ. Trong quá trình đó, nhà văn lắng nghe sự ứng phối từ con người mình. Lắng nghe sự vang dội ngấm ngầm của tâm hồn mình, như thế, chị tin và thực vậy, chị nhẹ nhàng phá toang bức mành che nặng trịch áp đặt lên cuộc đời. Như vậy, ở đoạn này chúng ta đã cố gắng trình bày như thế nào là sự am hiểu hữu thể và vai trò của nó trên con đường tra vấn hữu thể để cho thấy tâm thức Hậu hiện đại thể hiện trong tư duy nghệ thuật cua nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Tiếp theo, thiết nghĩ, chúng ta cần bám sát hơn với thực tế tác phẩm. Nhà văn đặt ra những vấn đề phi lí nhưng không thể luận giải. Truy vấn là cứu cánh của hoài nghi. “Mười bốn tuổi, Thản làm nên mớ nghịch lý mà dân Nước Mặn không làm sao chấp nhận được: giàu và chết, trẻ và chết, con nít và mộ lớn. Bù đắp cho cuộc đời ngắn ngủi của nó, người ta xây cho nó ngôi mộ tráng lệ, ngói lợp mái che, chung quanh ốp gạch men, bia đục từ đá hoa cương, nền mộ rộng đủ cho chục ngoài người ngồi bày tiệc”[17]. Người dân Nước Mặn đã quen với lệ thường, ấy nên khi thằng Thản chết, sự kiện đó cắt đứt cuộc sống thường tình của nó, khiến họ bắt đầu ưu tư. Sự ưu tư bắt đầu khi cái nhìn về thế giới bị tác động, khiến cho đối tượng phải sắp xếp lại. Cố định một đám mây chính là phủ nhận sự cố định. Tính mệnh của mây là trôi đi, bay biến. Cắt đứt lẽ thường của đám mây chính là xét lại tính mệnh của mây. Và chính ở chỗ ưu tư ấy, hoài nghi bắt đầu, truy vấn bắt đầu. Chỉ là, thời bây giờ là chân trời truy vấn viễn đích hạn tuyệt, bất khả kì cùng. Bao trùm toàn bộ câu chuyện là hoài nghi, thất vọng, tuyệt lộ, hư vô, trống rỗng, vô vọng.
Biền, Ái và những thanh niên khác luôn tìm cách ra đi. Đi đâu ! Không ai biết cũng không cần biết, chỉ là phải ra đi, chỉ phải đi thôi. Đi như là định mệnh. Mệnh số lưu đày. Cho nên vấn đề phi trung tâm hóa ở đây không chỉ là cái nhìn hướng về ngoại biên xóa bỏ ranh giới của người viết mà còn là tâm thế phá bỏ ranh giới và vượt thoát của những con người bị cột chặt vào lệ thường, họ giãy thoát để rời bỏ cái gốc cội thâm căn cố đế vốn dĩ ru ngủ tính mệnh của họ vào chỗ tù đọng. Và sự ra đi ở đây là hành trình ngoại biên hóa lưu đày. Một ý hướng căn cơ bất khả di dịch và bất khả luận giải. Chỉ đơn giản là đi. Sống nghĩa là phải trào thoát khỏi Nước Mặn. Sống giữa một sinh thế bi đát, tuyệt lộ và vô vọng, người ta không còn nghĩ được gì khác ngoài việc thoát khỏi nó. Và việc lí giải để trừ khử vận mệnh tuyệt lộ của Nước Mặn càng hoang đường hơn chính sự hoang đường của nó. Nước Mặn có thể là bất cứ đâu. Ai cũng có thể là một phần của Bìa Nước Mặn – cõi xứ li khai. Bìa Nước Mặn là ý hướng đoạn tuyệt và chối bỏ vốn dĩ vẫn ẩn nấp trong tâm hồn của con người thời bây giờ. Con người của ra đi vĩnh tuyệt. Và rất có thể bọn con người ấy đang lê lết trong một cuộc đời, một thế giới như là Bìa Nước Mặn. Một thứ chủ nghĩa xê dịch của thời Hậu hiện đại. Nếu như xê dịch trong tinh thần Hiện đại là con đường vạn kiếp tìm lại chính mình, xác định mình thì xê dịch Hậu hiện đại là nguyệt mộ lưu đày để từ khước và rũ bỏ tính mệnh của mình.
Nỗi khao khát mà Biền muốn nhập vào làm một với Ái càng cho thấy sự phân rã toàn cục, phân rã triệt để, không thể lấp đầy. Tình ái đã vô vọng và sẽ còn mãi vô vọng. Tình ái càng cho thấy sự vô vọng và rã nát toàn diện của đời người. Tình yêu trở thành bi kịch của tính mệnh. Căn để của tình yêu là bằng chứng cho thấy sự cô độc triệt để của lòng người. Tình yêu là đền đài sụp đổ giữa lòng thế giới. “Nhưng chẳng phải ở cùng nhau thì mọi chuyện sẽ ổn sao, Biền nghĩ vậy, lúc áp mặt vào cổ Ái, nơi duy nhất nó không cắn xé trong những khoảnh khắc tuyệt vọng. Thấy mình có cố vào sâu đến mức nào cũng không sao nhập hai đứa thành một khối. Dải da thịt non xanh của con nhỏ cứ rời ra, trôi đi. Ngờ là do nền đá hoa cương dát trên mộ nọ quá trơn, thử quắp nhau ở những ngôi mộ trơ bê tông hoặc gạch dát đã nứt lở, giữ Ái bằng mọi cách nhưng Biền vẫn cảm giác cô đang chuội khỏi nó”[18].
Trong truyện ngắn này, chúng ta cũng có thể chú ý đến khía cạnh biểu tượng, mà ở đó dấu ấn Hậu hiện đại cũng hiện lên khá rõ nét. Và tâm thức Hậu hiện đại chính là căn nguyên dựng xây các biểu tượng. Để cho hình ảnh hình tượng đi vào con đường biểu tượng hóa. Nghĩa là thiết lập các đường dẫn chuyên chở ý niệm trừu tượng trên con đường thâm nhập vào hoạt động tri nhận của người đọc. Và chính ở điều đó, tâm thức Hậu hiện đại ở tư duy nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra những biểu tượng của một thế giới hỗn độn trong trạng thái sụp đổ, vừa mơ hồ vừa tận thế. Tưởng như Bìa Nước Mặn đang giãy chết và sống những ngày cuối cùng trên bờ vực Hư vô. Bìa Nước Mặn chính là biểu tượng cho một thế giới sụp đổ, tiêu biến, hư vô không rõ nguồn cơn. Người ở Bìa Nước Mặn luôn tìm cách ra đi, không rõ nguồn cơn. Họ tìm cách ra đi một cách không thể hiểu được. Chỉ đơn giản là đi, như một kẻ liều mình trốn khỏi số phận dù cho rằng có thể phải lao vào một số phận khác. Số phận khác đôi khi còn nghiệt ngã hơn cả cái số phận mà họ đang vướng phải. “Trạc tuổi Biền, Thản là đứa duy nhất tỉnh bơ, không cồn cào tính chuyện rời khỏi mảnh đất hình ụ mối nằm tách biệt bởi một cửa sông, hình như bị thất lạc khỏi lục địa, trong tư thế sẵn sàng hiến thân cho biển. Đám thanh niên còn lại mỗi đêm nằm nghe tiếng còi xe ướt mềm quốc lộ, nghĩ một nơi chốn xa lạ nào đó, mà tụi nó nay mai sẽ văng mình vào”[19].
3.             Dấu ấn Hậu hiện đại trong một vài khía cạnh của nghệ thuật trần thuật
3.1.      Lựa chọn và xây dựng chi tiết
Câu chuyện là một thế giới tan rã mà ở đó chi tiết rục rịt nói lên tiếng nói của nó, như một cuộc hòa âm nhưng tan vỡ; chẳng khác gì những tiếng nhói lên giữa mênh mông lạc hướng:
+ nhị tì
+ cây tẻ nhạt đến mức phi thường
+ lá hoa nghèo nàn
+ mọc tung tóe khắp nơi
+ hàng rào bọc lấy trống không
+ bàn tay nuôi giấu nỗi tuyệt vọng riêng
+ mắt ngó ngôi mộ trong khi làm tình
+ thịt da non xanh của con nhỏ cứ rời ra, trôi đi
+ giàu và chết, trẻ và chết, con nít và mộ lớn
+ chỉ người chết mới chịu ở lại cái đất này
+ không thể nhổ ngôi nhà theo
Điều này làm chúng ta nhận ra: mục đích của Nguyễn Ngọc Tư không phải nhằm kể một câu chuyện mà kì thực chị xây dựng các ấn tượng trên dòng chảy của câu chuyện. Thế nên điều còn đọng lại sau khi câu chuyện đã tan biến chính là nỗi ám ảnh mà chi tiết gây ra. Người viết chú trọng đến các ấn tượng thẩm mỹ hơn là nội dung câu chuyện.
3.2.      Giọng điệu luận lý quê mùa
Nếu so sánh với giọng điệu lúc Nguyễn Ngọc Tư viết Cánh đồng bất tận, có lẽ nhiều bạn đọc sẽ nhận ra sự thay đổi của chị. Ở Cố định một đám mây, tính bình dân kết hợp tính bác học. Hơi hướm quê mùa đi kèm giọng điệu luận lý (nhiều người cho là sự nửa mùa quá độ chưa tới của chị Tư). Kì thực, chính ở khía cạnh đó, sự giễu nhại kín đáo của chị có thể làm cho chúng ta bất ngờ. Vì rằng, sự giễu nhại đến kì cùng chính là không cố gắng giễu nhại mà thành ra giễu nhại. Chuyện Ái và Biền làm tình trên chính nơi yên giấc ngàn thu của thằng Thản, hay chuyện ái chung đụng với Biền mà mắt cứ ngó khu nhị tì. Hay rất có thể một đứa bé sẽ ra đời ở ngay chỗ mà cái chết ngự trị - lò thiêu. Tất cả là sự sắp xếp cố tình hay vô ý những đã tạo nên tính nghịch dị (lạ hóa) mà người đọc buộc phải xốc lại tinh thần. Nhại và nghịch dị đi liền với nhau. Và để chuyển tải việc này, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng một giọng điệu hết sức bình thản.
3.3.      Kiểu nhân vật mắc kẹt và li khai
Hình ảnh những kẻ nhập nhoạng, mờ hóa nhân vật. Các hình ảnh chồng lấn, lồng vào nhau, xóa nhòa ranh giới giữa con người và đồ vật (thủ pháp mờ hóa, đồ vật hóa nhân vật).
Trừu tượng hóa nhân vật: gọi tên nhân vật bằng cách gán cho nó những ý niệm trừu tượng một cách vô tình mà hữu ý. (Thản – sự yên lặng tuyệt đối; Biền – bìa, ngoại biên, tỉnh lẻ, vùng sâu vùng xa, rơi rụng lại, heo hút, bị bỏ rơi (mẹ bỏ, rồi bồ bỏ); Ái – yêu nhưng lại rũ bỏ tình yêu).
3.4.      Cốt truyện và kết cấu trong việc thể hiện thế giới quan hỗn độn
Mở đầu truyện bằng một phát ngôn như ném vào lòng người đọc. Đó lá cách bắt đầu của đời sống. Bởi người ta bị ném ra ở đời, người ta không có sẵn ở đời. Cuộc đời thành ra là một cái gì đó vạn bất đắc dĩ. (Làm biếng quá, k viết nữa !)

Kết luận
Chung quy, việc áp dụng góc nhìn Hậu hiện đại với trường hợp Nguyễn Ngọc Tư đâu đó vẫn có sự khập khiếng. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng góc nhìn này chúng ta có thể soi rọi đến những khía cạnh khác trong sáng tác của chị. Trước hết là tính chất phản biện hay phủ định mà căn để là sự hoài nghi đã giúp chúng ta có thể căn cứ để nhìn nhận về sự bất khả luận giải, chối bỏ sự luận giải trong truyện ngắn Cố định một đám mây cũng như một số truyện ngắn gần đây trong tập sách cùng tên. Tất nhiên, những ý kiến trong bài viết này đâu đó vẫn còn có thêm thời gian để minh xét.
Những vấn đề đáng lưu ý ở đây, là thông qua góc nhìn Hậu hiện đại, chúng ta có thể khai mở phần nào con đường hư vô hay nói khác đi là sự truy vấn không thôi trong tâm tưởng của nhân vật và kẻ đó. Ở đó, chúng ta nhìn thấy một phương trời hoài nghi choáng ngợp. Để toàn cục, người đọc sẽ thiết dựng cho chính mình một cõi người sụp đổ mà ở đó, tiếng vọng của hư vô vẫn réo gọi bản thể tính mệnh của mỗi con người.
Có thể Nguyễn Ngọc Tư không tiếp xúc nhiều với tư tưởng Hậu hiện đại và thực sự rất khó để xác định rằng nhà văn có định hướng gì về Hậu hiện đại khi bắt tay viết tác phẩm hay không nhưng đâu đó trong thân xác của tác phẩm, dấu ấn Hậu hiện đại đã in hằn lên cách tư duy, các ấn tượng mang lại và những khía cạnh khác nhau của thi pháp trần thuật.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này, chúng tôi không có nhiều điều kiện để mổ xẻ các vấn đề. Thế nên, chủ yếu, bài viết vẫn mang tinh thần gợi mở và đề xuất các quan điểm. Trong đó, việc chú ý đến khía cạnh trần thuật chưa có điều kiện để khảo sát kĩ lưỡng hơn. Tuy nhiên, dù chỉ phác qua vài ý nhưng ít nhiều đã mang lại thêm cái nhìn về chân dung một Nguyễn Ngọc Tư của thời bây giờ - nghĩa là một tâm hồn tiệm cận với tính chất đương đại của đời sống. Chính ở khía cạnh này, phải chăng, tâm hồn Nguyễn Nguyễn Tư đã tiệm cận với tâm thức Hậu hiện đại.

Tài liệu tham khảo
1.      Đoàn Ánh Dương: Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong Mẫu Thượng Ngàn của  Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9/2010, tr. 109.
2.      Heidegger M., 1973. Hữu thể và thời gian I. Sài Gòn: Quê hương.
3.      Bùi Văn Nam Sơn: Lyotard với tâm thức và hoàn cảnh hậu hiện đại(trong sách Hoàn  cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch). Nxb. Tri thức, H., 2008, tr.9 - 13.
4.      Phạm Công Thiện. 1969). Sự thất bại của cơ cấu luận (Phê bình Lévi-Strauss và Jacques Derrida). Tạp chí Tư Tưởng (chuyên đề Những vấn đề cơ cấu luận)  SỐ 6 {9} (01-11-1969, khổ 16-24, 156tr). Sài Gòn: Viện Đại học Vạn Hạnh , tr.85.
5.      Nguyễn Ngọc Tư. 2018. Cố định một đám mây. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng.
6. http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5631%3Aedweesd&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=vi
8.      http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c357/n24144/Tam-thuc-hau-hien-dai-trong-tieu-thuyet-Viet-Nam-1986-2010.html


[1] Bùi Văn Nam Sơn: Lyotard với tâm thức và hoàn cảnh hậu hiện đại(trong sách Hoàn  cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch). Nxb. Tri thức, H., 2008, tr.9 - 13.
[2] Phạm Công Thiện. 1969). Sự thất bại của cơ cấu luận (Phê bình Lévi-Strauss và Jacques Derrida). Tạp chí Tư Tưởng (chuyên đề Những vấn đề cơ cấu luận)  SỐ 6 {9} (01-11-1969, khổ 16-24, 156tr). Sài Gòn: Viện Đại học Vạn Hạnh , tr.85.
[3]http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5631%3Aedweesd&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=vi
[4]http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5631%3Aedweesd&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=vi
[5] https://phebinhvanhoc.com.vn/van-xuoi-hau-hien-dai-viet-nam-quoc-te-va-ban-dia-cach-tan-va-truyen-thong/
[6] https://phebinhvanhoc.com.vn/van-xuoi-hau-hien-dai-viet-nam-quoc-te-va-ban-dia-cach-tan-va-truyen-thong/
[7] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c357/n24144/Tam-thuc-hau-hien-dai-trong-tieu-thuyet-Viet-Nam-1986-2010.html
[8] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c357/n24144/Tam-thuc-hau-hien-dai-trong-tieu-thuyet-Viet-Nam-1986-2010.html
[9] Đoàn Ánh Dương: Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong Mẫu Thượng Ngàn của  Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9/2010, tr. 109.
[10] http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/liluan-phebinh/693-tn-mn-v-hu-hin-i-va-i-t-s-trong-vn-hc-vit-nam
[11] https://phebinhvanhoc.com.vn/dau-an-hau-hien-dai-trong-van-hoc-viet-nam-sau-1986/
[12] Heidegger M., 1973. Hữu thể và thời gian I. Sài Gòn: Quê hương, tr.8.
[13] Heidegger M., 1973. Hữu thể và thời gian I. Sài Gòn: Quê hương, tr.8.
[14] Heidegger M., 1973. Hữu thể và thời gian I. Sài Gòn: Quê hương, tr.8.
[15] Heidegger M., 1973. Hữu thể và thời gian I. Sài Gòn: Quê hương, tr.9.
[16] Heidegger M., 1973. Hữu thể và thời gian I. Sài Gòn: Quê hương, tr.9.
[17] Nguyễn Ngọc Tư. 2018. Cố định một đám mây. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, tr.52-53.
[18] Nguyễn Ngọc Tư. 2018. Cố định một đám mây. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, tr.54-55.
[19] Nguyễn Ngọc Tư. 2018. Cố định một đám mây. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, tr.53.

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...