CẢM
THỨC HIỆN SINH TRONG “THÚ HOANG” CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ
(Bài này cảm thấy viết chưa kỹ, chưa có phát hiện mới về văn chương của Thụy Vũ. Lại nghĩ ! Có lẽ những kẻ phê với bình như mình đây, kỳ thực, là những kẻ ăn bám tác giả và tác phẩm của họ. Thôi thì, ta chỉ xin làm phận dây leo. Ráng giữ mình không Cà Chớn với trang viết và người viết. Thôi thì, cũng xin quạch cái tẹt lòng mình ra !)
1.
Về cảm thức hiện sinh[1]
Nhắm đến việc làm rõ cảm thức hiện sinh trong
“Thú hoang” của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bài viết của chúng tôi không đi sâu vào
phân tích mổ xẻ triết học hiện sinh và sự phát triển của nó ở địa hạt văn học
đô thị miền Nam. Phần này, chúng tôi chỉ muốn trình bày các vấn đề sơ lược, bao
quát, đóng vai trò định hướng cho sự phân tích ở phần tiếp theo. Qua đó, đi vào
nội tâm tác phẩm “Thú hoang” vừa trình bày cảm thức hiện sinh vừa cho thấy cái
đặc sặc trong văn chương của Nguyễn Thị Thụy Vũ.
a.
Bối
cảnh đô thị miền Nam cho sự hình thành cảm thức hiện sinh
- Bên cạnh
sự rối ren về chính trị là tình hình chiến tranh ngày càng khốc liệt hơn.
-
Không khí đàn áp, khủng bố bao trùm
- tâm
trạng chung của con người là căng thẳng, lo âu, luôn cảm thấy bất an
- cuộc
đấu tranh đòi tự do, dân chủ, dân sinh, dân quyền, đấu tranh bảo vệ văn hóa dân
tộc
-
Triết học hiện sinh du nhập vào đô thị miền Nam khá sớm. Mới trở thành tư trào
sôi nổi ở Pháp thì tại miền Nam Việt Nam, triết học hiện sinh đã được giới
thiệu và nghiên cứu.
- Có 2
giai đoạn khi nói về sự du nhập và phát triển của triết học hiện sinh ở miền
Nam VN:
+ Giai đoạn 1954- 1960:
Từ năm 1955, chủ nghĩa hiện sinh đã có mặt ở đô thị miền
Nam, trong chương trình giáo dục song ngữ (Pháp Việt) ở Văn khoa Sài Gòn, Văn
khoa Huế, Đại học Vạn Hạnh, Đại học Đà Lạt...
Có nhiều học viên cao học, nghiên cứu sinh chọn chủ nghĩa
hiện sinh làm đề tài nghiên cứu.
Nhiều tổ chức văn hoá xã hội đã tổ chức diễn thuyết về
chủ nghĩa hiện sinh như Viện Văn hoá Pháp, Hội Thân hữu Văn khoa, Cơ sở Văn hoá
Á Châu...
Triết học hiện sinh dần dần trở thành trào lưu tư tưởng
có sức hấp dẫn, lôi cuốn với đông đảo trí thức, thanh niên
+ - Giai đoạn 1961 - 1975:
Cuộc chiến
càng khốc liệt khiến chủ nghĩa hiện sinh có điều kiện bám rễ sâu hơn, phát triển
mạnh mẽ hơn trong xã hội. Bởi nó đánh động và khiến con người ý thức một cách
sâu sắc về tồn hữu của chính mình.
Chủ nghĩa
hiện sinh có mối liên hệ nhất định với chủ nghĩa duy linh nhân vị
Trong giai
đoạn này, triết học hiện sinh đi vào sáng tác văn học nhiều hơn, dần trở thành
một trào lưu trong giới văn nghệ sĩ.
- Đánh giá chung về sự ảnh
hưởng của triết học hiện sinh đối với đời sống văn hóa đô thị miền Nam trước
1975:
+ Chủ
nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng rất sâu đậm đến sáng tác văn học đô thị miền Nam
1954- 1975 trên tất cả mọi thể loại, nhưng sâu đậm nhất vẫn là thơ ca và tiểu
thuyết
+ Bên cạnh
thơ ca, tiểu thuyết cũng mang màu sắc hiện sinh rất rõ rệt. Tiểu thuyết là thể
loại "bùng nổ" của văn học đô thị miền Nam, tạo thành một hiện tượng
trong đời sống văn học thời kỳ đó.
+ Với ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, sáng tác văn học đô thị miền Nam nói chung và thể
loại tiểu thuyết nói riêng có sự chuyển mình lớn: sự cảm nhận sâu sắc và đau đớn
về thân phận bi đát của con người trong thế giới đầy phi lý.
+ Chủ
nghĩa hiện sinh ám ảnh trong tiểu thuyết từ nhan đề cho đến nội dung tác phẩm
+ Sự ảnh
hưởng này đã mang lại cho văn học đô thị miền Nam một diện mạo riêng, trong đó
có những bước tiến đáng được ghi nhận và cũng có không ít hạn chế.
b.
Các
khía cạnh của cảm thức hiện sinh dựa trên các vấn đề cơ bản của thuyết hiện
sinh
-
Cảm thức
vong thân (đánh mất bản thân, xa lạ với hiện hữu của chính mình)
-
Cảm thức
sa đọa (sống trong sự phản kháng lật đổ các nền tảng luân lí cố cựu)
-
Cảm thức
lưu đày (sống ở một thế giới xa lạ và bị ép buộc phải lưu trú ở thế giới khiến
cho mình khó chịu, đi ngược lại ý muốn, không thể giãy thoát mà cứ phải chấp nhận
và chịu đựng)
-
Cảm thức
buồn nôn, phi lí
-
Cảm thức
hư vô, tự vẫn ( hư vô đến tuyệt đối, trống rỗng đến mức muốn tận tuyệt)
-
Cảm thức
phản tính (ưu tư và lo âu, tự nhận thức về giá trị đời sống và giá trị hiện hữu
của chính mình)
-
Cảm thức tự
quyết, tự do, lựa chọn (buộc phải tự quyết, tự chọn tự hình thành giá trị hiện
sinh của chính mình)
-
Cảm thức
phản kháng, nổi loạn
-
Cảm thức
dấn thân, hành trình, xê dịch
2.
Hình tượng nhân vật – một phương diện biểu hiện
cảm thức hiện sinh trong tác phẩm “Thú hoang”.
a.
Con
người lạc loài, cô đơn
Xin dẫn ra mấy lời của Nietzsche để bắt đầu
phần này: “Sau cùng, Zarathustra buồn bã nhủ lòng: Ta đã nhận ra số phận của ta
rồi. Nào ! Ta đã sẵn sàng. Nỗi cô đơn tối hậu của ta vừa mới khởi đầu”[2]. Đúng như vậy ! Con người ta tỉnh ngộ, chợt
thức dậy giữa ảo mộng ấu thơ để mà bước chân vào cuộc hình trình cô đơn của tuổi
trưởng thành theo nghĩa là tuổi làm người trọn vẹn. Sự cô đơn tối hậu sẽ vây
quanh và trở thành yếu tính của tồn hữu con người. Mỗi nhân vật của Thụy Vũ là
một tinh cầu cô độc. Sự kết thông là một níu kéo, một gắng gượng yếu ớt và càng
chứng tỏ lòng người vô vọng giữa miền xa thăm thẳm cô đơn.
Truyện dài “Thú hoang” của Nguyễn Thị Thụy Vũ
là mảnh đất, là khung trời của những con người lạc loài cô độc. Từ những người
đàn bà luống tuổi tìm đến trường học để chạy trốn cuộc đời thất bại đầy rẫy đau
thương như bà Lý đến người đàn bà chán chê ông chồng điên dại tìm đến lớp học để
rồi rơi vào mối quan hệ mờ ám với đồng nghiệp như chuyện bà Hảo với ông Biểu, rồi
nào là các cô cậu học trò. Khi những xao động đầu đời đánh bật họ khởi chân trời
thuần khiết tuổi nhỏ. Chính những khát khao và xúc cảm mới nguyên đã gây ra bão
nổi trong tâm tưởng họ. Sự cô đơn bản chất trỗi dậy trong lòng. Nhất là Liễu,
cô gái nhiều u uất nhưng lại bị kìm nén hơn hết. Chính ở đó, tâm hồn trẻ trung
của Liễu đã trở thành minh chứng cho hành trình lưu đày vào cõi cô đơn của người
con gái đa sầu, nhạy cảm nhưng cũng không kém phần cuồng nhiệt.
Những cô cậu học trò chưa nếm mùi cô độc một
cách sâu sắc đã loáng thoáng nhận ra nỗi cô độc của người lớn. Cô độc không phải
trạng thái “ở nhà một mình”. Cô độc ở đây là cái cô độc bản chất mà Maurice
Blanchot cũng đã từng nói đến trong “Không gian văn chương”. Còn ở đây, các cô
cậu học trò vô tình rơi vào chân trời cô độc như một trải nghiệm mơ hồ nhưng ám
ảnh. “Bà vẽ cho chúng tôi viễn ảnh rùng rợn trong niềm cô độc triền miên của
bà. Bà bắt đầu sợ hãi tuổi già, lo âu cho tấm nhan sắc còn vương đôi chút tươi
mát, có thể làm nổi sóng gió trong lòng những người đàn ông vây quanh bà. Bà lợi
dụng những người đàn ông chạy theo bà và biến họ thành những tay sai đắc lực,
nhưng bà không hề ban bố chút ân huệ ái tình nào, trừ ông Chung là người được
bà đem lên ngôi vị sủng ái”. (TH-119). Sự cô đơn của bà Lý – người đàn bà từng
là nữ sinh Áo Tím với cuộc đời chìm nổi giang truân. Bà biết cách sử dụng lợi
thế tuổi thanh xuân còn rơi rớt như ánh hào quang phát tỏa lần cuối trước khi
chiều tàn. Nhưng trong chính sự gắng gượng và kiêu hãnh ảo tưởng đó, bà vẫn không
chối được nỗi cô đơn của mình mặc dù ông Chung hay đến trong đêm và bà vờ đọc
tiểu thuyết khi nghe thấy tiếng xe của ông, dù ông có đưa bà lên chiếc giường
ngập đầy bóng tối, mặc cho…., bà vẫn đắm chìm trong nỗi cô đơn không thể trốn
tránh. Mỗi khi có dịp hàn huyên bên các cô nữ sinh, trong mỗi lần chuyện trò về
mấy lão ve vãn, ẩn đằng sau vẻ kêu hãnh vẫn là nỗi sợ hãi một dự cảm tan tàn,
thui chột, cô độc, trơ vơ của tuổi già. Ám ảnh của tuổi già còn là ám ảnh của
hư vô. Và khi người ta trôi về phía hư vô, người ta càng chìm vào cô đơn. Vì hư
vô hóa cắt tiệt mọi kết nối hiện sinh của ngã thể và tha thể.
“Kinh nghiệm về sự cô độc đã gây ra những nỗi
lo âu trong tâm hồn. Quả thực sự cô độc là nguyên ủy mọi nỗi lo âu. Cô độc
nghĩa là bị cắt đứt, không có khả năng để xử dụng quyền làm người của mình nữa….Do
đó, cô độc là nguyên ủy của nỗi lo âu kinh hoàng. Ngoài ra, tình cảnh đó còn
gây ra cảm thức bị bỏ rơi và đầy tội lỗi”[3]. Chuyện Liễu hay nghĩ về cảm giác đầu đời
trong vườn cam với Nam là một ám ảnh phấn khích nhưng mang đầy mặc cảm tội lỗi
như vậy. Liễu luôn chối bỏ việc mình dấn thân vào cuộc đụng độ tình ái với Đức.
Rằng nàng không muốn đối đầu với cô bạn nối khố từ tấm bé, càng không có hi vọng
gì hoặc nghĩ ngợi về việc yêu Nam. Nam chỉ là cái cớ để khơi dậy những trắc ẩn
ái tình, sự phiêu lưu cảm xúc của buổi đầu trỗi dậy tim non. Và Liễu chối bỏ.
Nhưng mỗi khi mọi người chọc khuấy đến chuyện ông Chung bà Lý hay những cặp đôi
khác, Liễu vẫn sôi sục cảm giác với Nam trong vườn cam. Con người ta cảm thấy lạc
lỏng, người ta cần kết nối. Nhưng sự kết nối đẩy người ta vượt ra ngoài ranh giới
cấm kị của lí trí. Người ta chối bỏ. Điều đó tạo thành cảm thức tội lỗi. Quả là
những tội lỗi ngọt ngào và mãnh liệt. Đó là vòng lẩn quẩn. Cô đơn nên cần phải
vượt thoát khởi cô đơn, nhưng càng vượt thoát càng cô đơn. Đời là phi lí. Cô
đơn chính là biểu hiện của sự phi lí đó.
b.
Con
người ưu tư, phản tỉnh và vong thân
Trong văn học đô thị miền Nam, có lẽ các triết
gia Pháp như J.P.Sartre hay A. Camus được nhắc đến nhiều hơn cả. Trong đó,
Sartre như một bóng hình thời thượng dẫu có những khen chê trái chiều trong giới
học thuật đại học (như việc Trần Thái Đỉnh dường như có ý phê phán triết học
Sartre trong quyển Triết học hiện sinh); nhưng khuynh hướng hiện sinh vô thần của
Sartre dường như hợp “gout” với giới văn nghệ sĩ Saigon thời bấy giờ. Trong
nghiên cứu của Bochenski có nhắc đến tư tưởng Sartre: “Tự do tính tự bộc lộ
trong ưu tư. Ưu tư là con người khởi thức về tự thể của mình, tự thể xuất hiện
như là vô thể, nghĩa là khởi thức về tự do do tính. Con người chạy trốn ưu tư
và khi làm thế, không những nó, chỉ tìm cách chạy trốn tự tính của nó, nghĩa là
trốn tương lai, mà còn chạy trốn quá khứ của nó. Bởi vì nó ưa coi quá khứ này
như một nguyên lý tự do tính của nó, mặc dù nó được hoàn thành một lần rồi
thôi, bất động và xa lạ. Nhưng con người không thể thoát khởi ưu tư, vì nó
chính là ưu tư của nó. Như thế sự xuất hóa thứ nhất của thể vị ngã thiết yếu bị
định đoạt là phải thất bại”[4]. Đó là sự thất bại hoàn toàn. Con người tưởng
như ngã vào hố thẳm ưu tư. Con người sợ hãi và chạy trốn như thể chạy trốn vùng
tăm tối trong lòng mình. Mỗi nhân vật với diễn biến trong đời sống tâm hồn, đặc
biệt là khi nhà văn diễn tả các băn khoăn hay xáo trộn trong tâm tư của các cô
gái đã không ngừng trưng ra các góc tối trong tâm khảm, các vết thương tâm lý,
các chân trời mộng ảo và cả những ảo tưởng mê hoặc; đó là các khoảng tối mờ mịt
trong tâm hồn mà thường khi con người sợ hãi dấn thân. Nhưng khi nỗi sợ hãi đó
xua đuổi con người chạy trốn ưu tư thì nỗi ưu tư và cái vấn nạn ưu tư đó càng
trở nên lớn hơn. Ý thức nghĩa là ưu tư. Con người đúng là con người nghĩa là
con người bị kết án ưu tư. Và ưu tư là cái định mệnh nghiệt ngã có được từ tự
do tính. Con người bị sập bẫy tự do. Thế nên, ý thức là một thất bại toàn diện.
Càng dấn thân, con người càng lún sụt vào tâm tư của chính mình. Giá như Liễu
không khởi sự băn khoăn. Nhưng không có nỗi băn khoăn ưu hoài thì không thể xác
lập Liễu như là Liễu. Vậy thì sự ưu tư và cấp độ ưu tư quy định ý thức Liễu và
sự trải nghiệm đời Liễu mà Liễu tiến hành. Liễu mãi mãi không bao giờ thoát khởi
ưu tư của chính mình. Vì ưu tư chính là Liễu mất rồi. Con người trong cảm thức
hiện sinh của Thú hoang là một thất bại toàn diện như thế. Cho nên nói, văn
chương của Thụy Vũ là một cơn mưa nhưng không phải một cơn mưa lành, đó là cơn
mưa dầm dề miền nhiệt đới, trải từ Vĩnh Long đến Saigon, từ miền tỉnh lẻ u uất
đến chốn phồn hoa nặng nỗi niềm riêng.
Từ chỗ ưu tư bất khả, con người lạc vào chốn
mê cung của việc sống. Đến nỗi, con người cảm thấy xa lạ. Trước hết đó chính là
sự xa lạ với chính mình (vong thân), không hẳn đây là sự đánh mất bản thân, mà
kì thực đó là những ưu tư. Vì ưu tư nên phản tỉnh mà phản tỉnh thì vong thân.
Vì sao ? Vì phản tỉnh là ngoái lại, lật ngược chiều cái nhìn để mình nhìn lại
chính mình; nhìn lại mình (phản) để nhận ra mình (tỉnh). Tỉnh ngộ ! Tỉnh rồi phải
ngộ. Tỉnh rồi nhận ra chân tướng hiện hữu của mình. Thế nên, trong toàn bộ tác
phẩm Thú hoang, không có trang nào không là sự phản tỉnh giàu ưu tư như thế. Ưu
tư ở đây khác với nỗi băn khoăn khi người ta gặp một bài toán hay một luận đề
hóc búa, ưu tư ở đâu là sự băn khoăn bản chất. Là những câu hỏi cơ bản về kiếp
người, về sống, về yêu, về chân tướng của cảm thức. Ưu đó không phải để trả lời
một cách triệt để mà cơ bản không thể trả lời. Thế nên, ưu tư chính là sự khởi
đầu cho cuộc hành trình dấn thân của tuổi trẻ. Nào là Đức, Kim, Liễu, Sáo….nào
là Nam, Tín, Quan, Huấn,….Ôi những tâm hồn trẻ giàu suy tư.
c.
Con
người nổi loạn
Sự nổi loạn không hẳn là chống lại. Nổi lên
(sự bốc phát) nghĩa là từ chỗ im lìm và chấp nhận, nhân vật ưu tư và nhận ra sự
phi lí. Phí lí nên không thể chấp nhận, cần phải nổi dậy. Nhưng nổi dậy, gào
lên mà không thể thoát được nên đành rơi vào “loạn”. Nổi thành ra loạn là như vậy.
Đó là ông Biểu bà Hảo, ông Chung bà Lý. Những mối quan hệ bất chánh, vượt rào
luân lý. Nhưng cũng là những xao xuyến tinh khiết mà ranh giới thiện ác đã bị
xóa nhòa. Sự nổi loạn vì thế không hẳn được hiểu như một sự phát ngôn đi ngược
lại giá trị chung, hoặc một cuộc chống đối vũ lực, nổi loạn đôi khi chỉ là sự
lao về hố thẳm một cách ma mị và ngu độn như thế. Biết là không có lối thoát
(làm sao thoát được hố thẳm) nhưng vẫn lào về nó như mê hoặc. Nổi loạn vì thể
là biểu hiện của khao khát hiện sinh. Là biểu hiện của tiếng lòng căn bản và
chân thực của con người. Suy cho cùng, ông Biểu bà Hảo, ông Chung bà Lý là nạn
nhân của chính cuộc hiện sinh của họ.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thanh Xuân:
“Trong một lần được Du Tử Lê phỏng vấn, Nguyễn Thị Thụy Vũ nói là “Hình như tôi
thường nghiêng nặng về những nhân vật cynique hơn là những nhân vật sống hợp lý
với cuộc đời...”. Một câu trả lời quá chân thành và can đảm. Chân thành vì đúng
là nhà văn của chúng ta say mê dõi theo những nhân vật có cái nhìn thẳng, thậm
chí xấc xược, với những quy ước xã hội, những quy tắc đạo đức phi tự nhiên. Can
đảm, bởi trong ý nghĩa thông thường của tiếng Việt, cynique có nghĩa là vô liêm
sỉ. Nguyễn Thị Thụy Vũ làm ta nhớ đến Hồ Xuân Hương ở cái cynique vượt ra ngoài
ý nghĩa hẹp hòi, thông tục. Đó là khát vọng muốn đạt đến tự do, vượt qua những
hệ lụy, những thứ bậc, những cấm kỵ sáo mòn, giả dối”[5]. Qua trích dẫn của Nguyễn Thị Thanh Xuân, chúng
tôi lại nhìn thấy một trắc diện khác của cảm thức hiện sinh ở trường hợp Nguyễn
Thị Thụy Vũ. Phải chăng, sự nổi loạn của các mối quan hệ bất chánh và những bão
tố trong tâm tưởng học trò là biểu hiện của vũ trụ Dyonisos, bóng dáng ‘người
hùng’ của Nietzsche. Đó là một chân trời xô lệch, sụp đổ, ngổn ngang, bất định.
Cuộc đời phô ra hết tất cả khía cạnh hoang dại và trần rụi của nó.
d.
Con
người lưu đày
Sự lưu đày không phải ở nhân vật mà là chính ở
kẻ viết. Bản thân Thụy Vũ cũng là một kiếp lưu đày.
“Bất kể số mệnh ta là gì, bất luận những cuộc
phiêu lưu nào đang chờ đợi ta, ta vẫn luôn luôn thấu đó là một cuộc lữ hành, một
chuyến đăng sơn: rốt cuộc thì mỗi người chỉ sống điều mà họ cưu mang sẵn trong
tự thân”[6]. Ôi đời người là một bản án. Ai là quan tòa
và ai là nguyên đơn, là bị đơn. Là Nó cả. Con người tự kết án nó. Vì sao phải tự
kết án nó, vì nó không thể hư vô hóa. Nó thiết tha hiện hữu. Hiện hữu nghĩa là
hiện hữu cho, hiện hữu trong, hiện hữu tại, hiện hữu vì, hiện hữu như thế và
như thế, hiện hữu là, ….ôi trăm mớ tơ hồng ràng buộc. Con người buộc phải đi
trên chuyến hành trình từ hư vô đến hữu hiện. Sống luôn là một cuộc hành trình
mà ít khi con người chủ động và dễ chịu trên chuyến đi. Hơn nữa, chuyến đi đến
hiện hữu đầy rẫy nhưng vết thương mà mỗi người phải tự cưu mang. Vậy thì hỏi :
Liệu có vứt đi được không ? Bởi vì ngay cả sự vứt đi cuộc đời kia cũng lại là 1
cưu mang mà kẻ chết vắt lại trên ách cổ người còn sống. Cơ bản: sống là một
chuyến lưu đày.
Sự lưu đày ! Cái gì lưu đày những con người
trong câu chuyện này. Đó là tự do, tự quyết, là sự thực hiện cuộc hiện sinh của
nó. Họ buộc phải như thế. Tất cả, không loại trừ một ai. Ai cũng phải sống, dù
đắng cay, dù nghiệt ngã. Phải sống ! Đó là một bản án. Họ phỉ bị lưu đày trong
chính cuộc sống của mình. Như con người bị kết án tự do. Họ bị kết án phải sống
dù cám cảnh chống chịu bi kịch. Đó là Kim cô gái bị thằng con trai chủ nhà trọ
cưỡng hiếp mang bầu. Huấn ra tay cứu giúp nhưng anh lại bỏ đi chiến khu. Kim
cũng như chị em trong nhà, buộc phải sống trong mối tình vô vọng và lọt thỏm giữa
cuộc hiện sinh đầy rẫy vết thương. Đó là bà Hảo, người đàn bà sống với ông chồng
gàn dở, bị ngộ chữ và suốt ngày nói những điều vớ vẩn (giảng luân lí cho con
ních một cách hỗn loạn). Ngay cả ‘sự đàn bà’ của bà Hảo cũng không được thực hiện.
Giá như bà Hảo không lựa chọn trở thành một người đàn bà với đúng nghĩa khao
khát đàn bà thì chắc bà đã khác. Nhưng không, bà có quyền chọn. Chọn trở thành
đàn bà với đầy đủ khát khao chính đáng của một người đàn bà. Nhưng bà không thể
giãy thoát, vẫn phải sống với ông chồng ngộ chữ, và lén lút tư thông với ông Biểu
– người có thể cho bà những giây phút diễm ảo. Cuộc lưu đày là sự lưu đày tự
quyết của một người đàn bà biết mình là đàn bà một cách trọn vẹn. Còn Liễu, từ
kí ức trong khu vườn cam và hình bóng Nam còn lởn vởn mãi trong trí não, cô gái
vẫn không thôi đắn đó. Bên cạnh những ưu từ về xúc cảm và sự thức nhận về cuộc
sống dưới nhãn quan nữ giới, cô còn mãi ưu tư về thực trạng xã hội về những phi
lí rải rắc chung quanh. Theo tiếng gọi của Đức, cô bỏ đi Saigon mà trong lòng
còn chưa biết sẽ như thế nào. Đó là cuộc lưu đày mà chính nàng lao vào. Lưu đày
vì thế không phải vì bị ép buộc, lưu đày là kết quả của ưu tư và tự quyết. Đó
là cái bi kịch bản chất. Mà muốn làm thành đời, thì các nhận vật không thể
không lao vào giông bão đời mình. Vì ‘cuộc đời’ nghĩa là: ‘đời’ từ chỗ ‘cuộc’
mà ra. Cuộc gì ? Cuộc lưu đày thể tính.
3.
Sự cảm nhận thế giới dưới góc nhìn nữ giới
hay cảm thức hiện sinh của người nữ
“Người ta đã hỏi nhau, bàn tán,
phê bình về bút pháp cũng như nội dung mỗi truyện của Thuỵ Vũ, vì nó không nằm
trong khuôn nếp thông thường của một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ đạo dự tưởng”[7]. Thụy Vũ không hẳn là nhà
văn nữ quyền. Nhưng không thể chối bỏ, “tính đàn bà” đậm đặc và cá tính, sự cá
tính lao vào các đề tài “khó nhằn” đã tạo nên tính cách riêng cho văn phong của
bà.
a.
Phản
tỉnh dưới góc nhìn nữ
Như đã trình bày ở trên, sự phản tinh bắt nguồn
từ ưu tư. Ưu tư nổi dậy từ chỗ phi lí. Phi li khi có sự xáo trộn và thay đổi. Sự
so sánh và sự trỗi dậy của những nhận thức (khác hoặc mới mẻ) trong tâm tưởng
nhân vật. Các nhân vật là giáo sư, sự phản tỉnh của người nữ biểu hiện ở bà Hảo
và bà Lý (tác giả ít nói đến ông Biểu và ông Chung). Nhưng không phải nói về
nhân vật nữ mà chúng ta nói là cảm nhận dưới góc nhìn nữ giới. Mà ở chính các
nhân vật nữ đó, nhà văn đã dùng hệ quy chiếu của người nữ để luận giải và thấu
cảm. thế nên, tâm lý của bà Hảo, bà Lý hiện lên một cách thuyết phục và chân thực.
Đó là lối văn tinh ròng không màu mè, không làm dáng, không thèm giả đò, giả bộ
của Thụy Vũ. Đời nó thế thôi thì bày ra thế thôi. Kiểu cách màu mè để làm gì.
b.
Người
nữ bị kết án (sống, yêu, chết)
“Sự xuất hiện của Nguyễn Thị
Thuỵ Vũ như một kỳ lạ, giữa khung trời nghệ thuật miền Nam Việt Nam. Thuỵ Vũ viết
truyện ngắn với nhiều thể tài, mỗi thể tài đều hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi
trẻ trong vấn đề tình yêu, cũng như nỗi nhức mỏi về thân phận, thân phận người
con gái với những ước mơ táo bạo về dục tình”[8]. Có nhận định cho rằng các
tác phẩm của nhà văn nữ trước 1975 ở Saigon nặng về tình dục và những vấn đề
liên quan đến xác thịt. Chuyện đàn bà không ngoài chuyện xác thịt chăn gối. Tuy
nhiên, phải thừa nhận rằng, chính những cảm xúc dục tình ấy lại là con đường trực
diện dẫn chúng ta nhìn thấu vào cuộc hiện sinh của kiếp người. Thụy Vũ có cái
hay là bằng dục tình, bà đưa người đọc vào cuộc viễn du suy tưởng. Không làm
cho người đọc sa đà vào mộng tưởng xác thịt mà đẩy nó đến việc trầm ngâm về
thân phận và lờ mờ mở ra cho người đọc câu hỏi truy vấn tại sao con người hiện
hữu tại thế như thế. Thế nên, tác phẩm của bà không dừng lại ở những chiêu thức
câu khách rẻ tiền. Mà thường sau đó, câu chữ của bà vẫn ám ảnh và in hằng vào
tâm thức người đọc.
Dục tình trở thành mồi nhử để
chúng ta nhận ra các vết thương in hằng vào kiếp đời. Đó là tổn thưởng của Đức,
của Kim, của Liễu. Các nhân vật nữ trong Thú hoang đa phần là nạn nhân của xác
thịt, nếu không cũng bị ám ảnh bởi kí ức ban đầu của những khao khát bản năng.
Nhưng tất cả dục tình, ái lụy, xác thịt đều là cái cớ để tác giả cho thấy cái bản
án mà mỗi nhân vật phải gánh chịu. Bản án mà họ phải chịu, phải bị lưu đày. Họ
bị kết án phải sống, phải yêu và trối chạy trong sự chết (sự vô vọng, hư vô
hóa).
Liễu là cô gái nhạy cảm giàu
mơ mộng, có tâm hồn giàu trắc ẩn và suy tư. Có lẽ đây là nhân vật đi vào “cõi
người ta” sớm hơn chúng bạn. Vì sao ? Vì những xung động đậm tính người trỗi dậy
sớm hơn cả trong lòng nàng. Nhất là những đêm khuya, những khoảng trống mênh
mông trong lòng nàng cũng trở nên rộng lớn vô cùng. Lòng nàng tưởng như rộng
hoác, tương như mở ra tan hoang và chờ đợi khát khao, đầy rên siết và mãnh liệt.
Hơn bao giờ hết, người nữ với những suy tư của mình về dục tính đã trở thành
chiếc cầu nối, trở thành cửa để người nữ tự trôi vào hiện hữu của mình. Đó là lối
đi đến thân phận nữ, cái thân phận đàn bà mà cụ Nguyễn Du trước cũng có nhắc đến.
Người ta không sinh ra là đàn bà, người ta trở thành đàn bà – có một nữ văn sĩ
Pháp đã có nói như thế. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự trở thành đàn bà của những
cô gái mới lớn, giàu tâm hồn, nhạy cảm và khát khao. Nếu so với cánh đàn ông,
có lẽ nữ giới thường là người đi vào miền hoan lạc và khai phá mảnh đất cảm xúc
dục tính sớm hơn. Tâm hồn của người đàn bà có lẽ vì thế cũng tinh tế và nhạy
bén hơn.
Bất cứ một cảnh tình ý tưởng
gì của đời sống cũng dễ dàng khơi màu cho những diễm tình mộng ảo sinh sôi, rạo
rực. “Đêm đó, như có một cái gì thao thức trong tôi khi tôi ôm choàng chiếc gối
giữa đùi. Những chuỗi hôn trên màn bạc lẫn cặp môi của ông Chung xoắn lấy cặp
môi chờ đợi của bà Lý in vào đầu óc tôi như một vết xâm trên da. Tôi lăn trở
mãi trong bóng tối và những tiếng động mơ hồ làm tôi không chợp mắt được. Trên
máng xối, hai con mèo đuổi nhau, gào thét, rên siết một cách khoái trá, thê thảm.
Lấy chiếc mền mỏng trùm lên tận đầu, tôi cố xua đuổi những hình ảnh của ông
Chung, bà Lý. Tôi nhắm nghiền mắt và bắt đầu đếm thầm – một phương pháp dỗ giấc
hữu hiệu nhất của tôi. Tôi nghĩ tới Nam và tôi gọi thầm tên chàng. Phải gặp Nam
sáng mai”. (TH-126). Nam trở thành một dự phóng cho cuộc khám phá “sự trở thành
đàn bà”. Liễu không sao xua đuổi ý nghĩ đó. Đó vừa là sự lưu đày như đã nói ở
trên, đó còn là định mệnh. Bởi Liễu không thể giãy thoát khỏi “sự trở thành đàn
bà” đó. Giả sử Liễu làm được việc đó. Nghĩa là không trở thành đàn bà. Vậy Liễu
sẽ trở thành cái gì ? Hư vô ! Điều đó còn phí li hơn sự phi lí của hiện hữu. Từ
cái phi lí này, va vào cái phi lí khác. Liễu không còn con đường nào khác. Liễu
phải thực hiện cuộc đời mình với cái thiên hướng dường như cơ trời đã đặt định.
Đây không phải là quan niệm thiên mệnh của Nho giáo. Đây là thể tính của hiện hữu
mang tính nữ. Yêu, sống và chết là các vấn nạn mà người nữ phải xông vào trên
cuộc hiện sinh của mình.
KẾT LUẬN
Xin kết lại bài viết bằng nhận
xét của Tạ Tỵ: “Nguyễn thị Thụy Vũ, cây viết trẻ, đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ
của riêng mình về cuộc sống tình cảm cũng như xã hội. Nhiều ý tưởng táo bạo, mạnh
mẽ như những nhát búa đập thẳng vào trí não người đọc làm choáng váng mặt mày.
Nhà văn chẳng cần giữ ý, chẳng cần úp mở với những vấn đề được đề cập tới trong
tác phẩm. Ý hướng sáng tạo của Thụy Vũ giống như một thác nước cao đổ ào ạt xuống
triền sâu mặc cho sức đập phá và cuốn theo bao nhiêu cỏ cây hoa lá, cũng như rải
rác trôi xuôi theo dòng đời muôn vạn ngả”[9]. Sau gần 50 năm ẩn dật, có
lẽ cái tên Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn còn là nỗi ám ảnh trong văn giới đô thị miền
Nam. Bởi sự táo bạo và trực diện mà ngòi bút của bà xộc thẳng vào. Phải chăng
đây là sự thẳng tính của người Nam Bộ. “Có làm sao thì nói ra làm vậy”. Không
quanh co ! Hơn nữa, sự thẳng thắn của bà lại ở trong những đề tài vốn dĩ còn bị
quy trục là đồi bại trong xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, cũng chính ở chỗ dễ
gây hiểu lầm đó mà văn chương của Thụy Vũ có sức thu hút và phơi mở ra chân trời
của những ưu tư choáng ngợp về yêu-sống-chết.
Thú hoang là một tác phẩm về
lứa tuổi học trò. Nhưng trải dài từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường đến
khi mỗi nhân vật dấn thân vào đời theo nhiều ngả đường khác nhau, câu chuyện đã
xoáy đúng vào giai đoạn mang tính chất quyết định. Quyết định ở đây bao gồm sự
tự quyết và định hướng cho bản chất hiện hữu của từng đối tượng. Mỗi trải nghiệm
từ thời học trò cho đến các tổn thương sau này, cái kinh nghiệm đời sống ô hợp
đó là quy định bản chất của ý thức hiện hữu. Sự cô đơn – nổi loạn – ưu tư –
vong thân trong tâm hồn của những cô gái tuổi còn thanh xuân giữa cuộc đời tỉnh
lẻ như ao tù quẫng bách. Không thể ! Hoàn toàn phi lí ! Hoàn toàn thất bại !
Nhưng chính vì thế, câu chuyện khép lại những vẫn không thể khép lại. Và cơ bản
là không thể khép lại. Kiểu như Thụy Vũ dỡ một mảng “đời” rồi bê vào trang
sách, bày nó ra thế, đời như thế, và chỉ thế thôi. Không bắt đầu, không kết
thúc. Kết thúc nhưng không khép lại. Cảm thức hiện sinh trong Thú hoang của
Nguyễn Thị Thụy Vũ, do đó, vẫn luôn luôn ở thì hiện tại tiếp diễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. I. M. Bochenski (1969), Triết học tây phương hiện đại (Tuệ Sỹ dịch), Ca dao xuất bản,
Saigon, tr.285-286.
2. Erich Fromm (1969), Phân tâm học về tình yêu (Thụ Nhân dịch), Nhị Nùng xuất bản,
Saigon.
3. F. Nietzsche (2014), Zarathustra đã nói như thế (Trần Xuân Kiêm dịch và giới thiệu), Nxb
Văn học, Hà Nội.
4. Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối
xuất bản, Saigon.
5. Nguyễn Thị Thụy Vũ (2016), Thú hoang (truyện dài), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
6.http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6348-nguy%E1%BB%85n-th%E1%BB%8B-th%E1%BB%A5y-v%C5%A9-%C4%91%C3%A3-tr%E1%BB%9F-l%E1%BA%A1i.html
[1] Dựa trên nghiên cứu của Nguyễn
Thị Việt Nga (2017), VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975 (23): Sự hiện diện của triết học
và văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954- 1975. Nguồn:https://nhatbaovanhoa.com/p4152a5362/3/nguyen-thi-viet-nga-van-hoc-mien-nam-1954-1975
[2] F. Nietzsche (2014),
Zarathustra đã nói như thế (Trần Xuân Kiêm dịch và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà
Nội,tr.255.
[3] Erich Fromm (1969), Phân tâm học về tình yêu (Thụ Nhân dịch),
Nhị Nùng xuất bản, Saigon, tr.24-25.
[4] I. M. Bochenski (1969), Triết học
tây phương hiện đại (Tuệ Sỹ dịch), Ca dao xuất bản, Saigon, tr.285-286.
[5]
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6348-nguy%E1%BB%85n-th%E1%BB%8B-th%E1%BB%A5y-v%C5%A9-%C4%91%C3%A3-tr%E1%BB%9F-l%E1%BA%A1i.html
[6] F. Nietzsche (2014), Zarathustra đã nói như thế (Trần Xuân Kiêm dịch
và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội,tr.253.
[7] Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối ấn hành
lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.155.
[8] Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối ấn hành
lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.158.
[9] Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối ấn hành
lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.209.
Comments
Post a Comment