Skip to main content

CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG “THÚ HOANG” CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ


CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG “THÚ HOANG” CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ

 [Võ Quốc Việt - NVTBH, 2018]
(Bài này cảm thấy viết chưa kỹ, chưa có phát hiện mới về văn chương của Thụy Vũ. Lại nghĩ ! Có lẽ những kẻ phê với bình như mình đây, kỳ thực, là những kẻ ăn bám tác giả và tác phẩm của họ. Thôi thì, ta chỉ xin làm phận dây leo. Ráng giữ mình không Cà Chớn với trang viết và người viết. Thôi thì, cũng xin quạch cái tẹt lòng mình ra !)


1.                       Về cảm thức hiện sinh[1]
Nhắm đến việc làm rõ cảm thức hiện sinh trong “Thú hoang” của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bài viết của chúng tôi không đi sâu vào phân tích mổ xẻ triết học hiện sinh và sự phát triển của nó ở địa hạt văn học đô thị miền Nam. Phần này, chúng tôi chỉ muốn trình bày các vấn đề sơ lược, bao quát, đóng vai trò định hướng cho sự phân tích ở phần tiếp theo. Qua đó, đi vào nội tâm tác phẩm “Thú hoang” vừa trình bày cảm thức hiện sinh vừa cho thấy cái đặc sặc trong văn chương của Nguyễn Thị Thụy Vũ.
a.                       Bối cảnh đô thị miền Nam cho sự hình thành cảm thức hiện sinh
- Bên cạnh sự rối ren về chính trị là tình hình chiến tranh ngày càng khốc liệt hơn.
- Không khí đàn áp, khủng bố bao trùm
- tâm trạng chung của con người là căng thẳng, lo âu, luôn cảm thấy bất an
- cuộc đấu tranh đòi tự do, dân chủ, dân sinh, dân quyền, đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc
- Triết học hiện sinh du nhập vào đô thị miền Nam khá sớm. Mới trở thành tư trào sôi nổi ở Pháp thì tại miền Nam Việt Nam, triết học hiện sinh đã được giới thiệu và nghiên cứu.
- Có 2 giai đoạn khi nói về sự du nhập và phát triển của triết học hiện sinh ở miền Nam VN:
+ Giai đoạn 1954- 1960:
Từ năm 1955, chủ nghĩa hiện sinh đã có mặt ở đô thị miền Nam, trong chương trình giáo dục song ngữ (Pháp Việt) ở Văn khoa Sài Gòn, Văn khoa Huế, Đại học Vạn Hạnh, Đại học Đà Lạt...
Có nhiều học viên cao học, nghiên cứu sinh chọn chủ nghĩa hiện sinh làm đề tài nghiên cứu.
Nhiều tổ chức văn hoá xã hội đã tổ chức diễn thuyết về chủ nghĩa hiện sinh như Viện Văn hoá Pháp, Hội Thân hữu Văn khoa, Cơ sở Văn hoá Á Châu...
Triết học hiện sinh dần dần trở thành trào lưu tư tưởng có sức hấp dẫn, lôi cuốn với đông đảo trí thức, thanh niên
+ - Giai đoạn 1961 - 1975:
Cuộc chiến càng khốc liệt khiến chủ nghĩa hiện sinh có điều kiện bám rễ sâu hơn, phát triển mạnh mẽ hơn trong xã hội. Bởi nó đánh động và khiến con người ý thức một cách sâu sắc về tồn hữu của chính mình.
Chủ nghĩa hiện sinh có mối liên hệ nhất định với chủ nghĩa duy linh nhân vị
Trong giai đoạn này, triết học hiện sinh đi vào sáng tác văn học nhiều hơn, dần trở thành một trào lưu trong giới văn nghệ sĩ.
- Đánh giá chung về sự ảnh hưởng của triết học hiện sinh đối với đời sống văn hóa đô thị miền Nam trước 1975:
+ Chủ nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng rất sâu đậm đến sáng tác văn học đô thị miền Nam 1954- 1975 trên tất cả mọi thể loại, nhưng sâu đậm nhất vẫn là thơ ca và tiểu thuyết
+ Bên cạnh thơ ca, tiểu thuyết cũng mang màu sắc hiện sinh rất rõ rệt. Tiểu thuyết là thể loại "bùng nổ" của văn học đô thị miền Nam, tạo thành một hiện tượng trong đời sống văn học thời kỳ đó.
+ Với ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, sáng tác văn học đô thị miền Nam nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng có sự chuyển mình lớn: sự cảm nhận sâu sắc và đau đớn về thân phận bi đát của con người trong thế giới đầy phi lý.
+ Chủ nghĩa hiện sinh ám ảnh trong tiểu thuyết từ nhan đề cho đến nội dung tác phẩm
+ Sự ảnh hưởng này đã mang lại cho văn học đô thị miền Nam một diện mạo riêng, trong đó có những bước tiến đáng được ghi nhận và cũng có không ít hạn chế.
b.                       Các khía cạnh của cảm thức hiện sinh dựa trên các vấn đề cơ bản của thuyết hiện sinh
-   Cảm thức vong thân (đánh mất bản thân, xa lạ với hiện hữu của chính mình)
-   Cảm thức sa đọa (sống trong sự phản kháng lật đổ các nền tảng luân lí cố cựu)
-   Cảm thức lưu đày (sống ở một thế giới xa lạ và bị ép buộc phải lưu trú ở thế giới khiến cho mình khó chịu, đi ngược lại ý muốn, không thể giãy thoát mà cứ phải chấp nhận và chịu đựng)
-   Cảm thức buồn nôn, phi lí
-   Cảm thức hư vô, tự vẫn ( hư vô đến tuyệt đối, trống rỗng đến mức muốn tận tuyệt)
-   Cảm thức phản tính (ưu tư và lo âu, tự nhận thức về giá trị đời sống và giá trị hiện hữu của chính mình)
-   Cảm thức tự quyết, tự do, lựa chọn (buộc phải tự quyết, tự chọn tự hình thành giá trị hiện sinh của chính mình)
-   Cảm thức phản kháng, nổi loạn
-   Cảm thức dấn thân, hành trình, xê dịch


2.                       Hình tượng nhân vật – một phương diện biểu hiện cảm thức hiện sinh trong tác phẩm “Thú hoang”.
a.                       Con người lạc loài, cô đơn
Xin dẫn ra mấy lời của Nietzsche để bắt đầu phần này: “Sau cùng, Zarathustra buồn bã nhủ lòng: Ta đã nhận ra số phận của ta rồi. Nào ! Ta đã sẵn sàng. Nỗi cô đơn tối hậu của ta vừa mới khởi đầu”[2]. Đúng như vậy ! Con người ta tỉnh ngộ, chợt thức dậy giữa ảo mộng ấu thơ để mà bước chân vào cuộc hình trình cô đơn của tuổi trưởng thành theo nghĩa là tuổi làm người trọn vẹn. Sự cô đơn tối hậu sẽ vây quanh và trở thành yếu tính của tồn hữu con người. Mỗi nhân vật của Thụy Vũ là một tinh cầu cô độc. Sự kết thông là một níu kéo, một gắng gượng yếu ớt và càng chứng tỏ lòng người vô vọng giữa miền xa thăm thẳm cô đơn.
Truyện dài “Thú hoang” của Nguyễn Thị Thụy Vũ là mảnh đất, là khung trời của những con người lạc loài cô độc. Từ những người đàn bà luống tuổi tìm đến trường học để chạy trốn cuộc đời thất bại đầy rẫy đau thương như bà Lý đến người đàn bà chán chê ông chồng điên dại tìm đến lớp học để rồi rơi vào mối quan hệ mờ ám với đồng nghiệp như chuyện bà Hảo với ông Biểu, rồi nào là các cô cậu học trò. Khi những xao động đầu đời đánh bật họ khởi chân trời thuần khiết tuổi nhỏ. Chính những khát khao và xúc cảm mới nguyên đã gây ra bão nổi trong tâm tưởng họ. Sự cô đơn bản chất trỗi dậy trong lòng. Nhất là Liễu, cô gái nhiều u uất nhưng lại bị kìm nén hơn hết. Chính ở đó, tâm hồn trẻ trung của Liễu đã trở thành minh chứng cho hành trình lưu đày vào cõi cô đơn của người con gái đa sầu, nhạy cảm nhưng cũng không kém phần cuồng nhiệt.
Những cô cậu học trò chưa nếm mùi cô độc một cách sâu sắc đã loáng thoáng nhận ra nỗi cô độc của người lớn. Cô độc không phải trạng thái “ở nhà một mình”. Cô độc ở đây là cái cô độc bản chất mà Maurice Blanchot cũng đã từng nói đến trong “Không gian văn chương”. Còn ở đây, các cô cậu học trò vô tình rơi vào chân trời cô độc như một trải nghiệm mơ hồ nhưng ám ảnh. “Bà vẽ cho chúng tôi viễn ảnh rùng rợn trong niềm cô độc triền miên của bà. Bà bắt đầu sợ hãi tuổi già, lo âu cho tấm nhan sắc còn vương đôi chút tươi mát, có thể làm nổi sóng gió trong lòng những người đàn ông vây quanh bà. Bà lợi dụng những người đàn ông chạy theo bà và biến họ thành những tay sai đắc lực, nhưng bà không hề ban bố chút ân huệ ái tình nào, trừ ông Chung là người được bà đem lên ngôi vị sủng ái”. (TH-119). Sự cô đơn của bà Lý – người đàn bà từng là nữ sinh Áo Tím với cuộc đời chìm nổi giang truân. Bà biết cách sử dụng lợi thế tuổi thanh xuân còn rơi rớt như ánh hào quang phát tỏa lần cuối trước khi chiều tàn. Nhưng trong chính sự gắng gượng và kiêu hãnh ảo tưởng đó, bà vẫn không chối được nỗi cô đơn của mình mặc dù ông Chung hay đến trong đêm và bà vờ đọc tiểu thuyết khi nghe thấy tiếng xe của ông, dù ông có đưa bà lên chiếc giường ngập đầy bóng tối, mặc cho…., bà vẫn đắm chìm trong nỗi cô đơn không thể trốn tránh. Mỗi khi có dịp hàn huyên bên các cô nữ sinh, trong mỗi lần chuyện trò về mấy lão ve vãn, ẩn đằng sau vẻ kêu hãnh vẫn là nỗi sợ hãi một dự cảm tan tàn, thui chột, cô độc, trơ vơ của tuổi già. Ám ảnh của tuổi già còn là ám ảnh của hư vô. Và khi người ta trôi về phía hư vô, người ta càng chìm vào cô đơn. Vì hư vô hóa cắt tiệt mọi kết nối hiện sinh của ngã thể và tha thể.
“Kinh nghiệm về sự cô độc đã gây ra những nỗi lo âu trong tâm hồn. Quả thực sự cô độc là nguyên ủy mọi nỗi lo âu. Cô độc nghĩa là bị cắt đứt, không có khả năng để xử dụng quyền làm người của mình nữa….Do đó, cô độc là nguyên ủy của nỗi lo âu kinh hoàng. Ngoài ra, tình cảnh đó còn gây ra cảm thức bị bỏ rơi và đầy tội lỗi”[3]. Chuyện Liễu hay nghĩ về cảm giác đầu đời trong vườn cam với Nam là một ám ảnh phấn khích nhưng mang đầy mặc cảm tội lỗi như vậy. Liễu luôn chối bỏ việc mình dấn thân vào cuộc đụng độ tình ái với Đức. Rằng nàng không muốn đối đầu với cô bạn nối khố từ tấm bé, càng không có hi vọng gì hoặc nghĩ ngợi về việc yêu Nam. Nam chỉ là cái cớ để khơi dậy những trắc ẩn ái tình, sự phiêu lưu cảm xúc của buổi đầu trỗi dậy tim non. Và Liễu chối bỏ. Nhưng mỗi khi mọi người chọc khuấy đến chuyện ông Chung bà Lý hay những cặp đôi khác, Liễu vẫn sôi sục cảm giác với Nam trong vườn cam. Con người ta cảm thấy lạc lỏng, người ta cần kết nối. Nhưng sự kết nối đẩy người ta vượt ra ngoài ranh giới cấm kị của lí trí. Người ta chối bỏ. Điều đó tạo thành cảm thức tội lỗi. Quả là những tội lỗi ngọt ngào và mãnh liệt. Đó là vòng lẩn quẩn. Cô đơn nên cần phải vượt thoát khởi cô đơn, nhưng càng vượt thoát càng cô đơn. Đời là phi lí. Cô đơn chính là biểu hiện của sự phi lí đó.

b.                       Con người ưu tư, phản tỉnh và vong thân
Trong văn học đô thị miền Nam, có lẽ các triết gia Pháp như J.P.Sartre hay A. Camus được nhắc đến nhiều hơn cả. Trong đó, Sartre như một bóng hình thời thượng dẫu có những khen chê trái chiều trong giới học thuật đại học (như việc Trần Thái Đỉnh dường như có ý phê phán triết học Sartre trong quyển Triết học hiện sinh); nhưng khuynh hướng hiện sinh vô thần của Sartre dường như hợp “gout” với giới văn nghệ sĩ Saigon thời bấy giờ. Trong nghiên cứu của Bochenski có nhắc đến tư tưởng Sartre: “Tự do tính tự bộc lộ trong ưu tư. Ưu tư là con người khởi thức về tự thể của mình, tự thể xuất hiện như là vô thể, nghĩa là khởi thức về tự do do tính. Con người chạy trốn ưu tư và khi làm thế, không những nó, chỉ tìm cách chạy trốn tự tính của nó, nghĩa là trốn tương lai, mà còn chạy trốn quá khứ của nó. Bởi vì nó ưa coi quá khứ này như một nguyên lý tự do tính của nó, mặc dù nó được hoàn thành một lần rồi thôi, bất động và xa lạ. Nhưng con người không thể thoát khởi ưu tư, vì nó chính là ưu tư của nó. Như thế sự xuất hóa thứ nhất của thể vị ngã thiết yếu bị định đoạt là phải thất bại”[4]. Đó là sự thất bại hoàn toàn. Con người tưởng như ngã vào hố thẳm ưu tư. Con người sợ hãi và chạy trốn như thể chạy trốn vùng tăm tối trong lòng mình. Mỗi nhân vật với diễn biến trong đời sống tâm hồn, đặc biệt là khi nhà văn diễn tả các băn khoăn hay xáo trộn trong tâm tư của các cô gái đã không ngừng trưng ra các góc tối trong tâm khảm, các vết thương tâm lý, các chân trời mộng ảo và cả những ảo tưởng mê hoặc; đó là các khoảng tối mờ mịt trong tâm hồn mà thường khi con người sợ hãi dấn thân. Nhưng khi nỗi sợ hãi đó xua đuổi con người chạy trốn ưu tư thì nỗi ưu tư và cái vấn nạn ưu tư đó càng trở nên lớn hơn. Ý thức nghĩa là ưu tư. Con người đúng là con người nghĩa là con người bị kết án ưu tư. Và ưu tư là cái định mệnh nghiệt ngã có được từ tự do tính. Con người bị sập bẫy tự do. Thế nên, ý thức là một thất bại toàn diện. Càng dấn thân, con người càng lún sụt vào tâm tư của chính mình. Giá như Liễu không khởi sự băn khoăn. Nhưng không có nỗi băn khoăn ưu hoài thì không thể xác lập Liễu như là Liễu. Vậy thì sự ưu tư và cấp độ ưu tư quy định ý thức Liễu và sự trải nghiệm đời Liễu mà Liễu tiến hành. Liễu mãi mãi không bao giờ thoát khởi ưu tư của chính mình. Vì ưu tư chính là Liễu mất rồi. Con người trong cảm thức hiện sinh của Thú hoang là một thất bại toàn diện như thế. Cho nên nói, văn chương của Thụy Vũ là một cơn mưa nhưng không phải một cơn mưa lành, đó là cơn mưa dầm dề miền nhiệt đới, trải từ Vĩnh Long đến Saigon, từ miền tỉnh lẻ u uất đến chốn phồn hoa nặng nỗi niềm riêng.
Từ chỗ ưu tư bất khả, con người lạc vào chốn mê cung của việc sống. Đến nỗi, con người cảm thấy xa lạ. Trước hết đó chính là sự xa lạ với chính mình (vong thân), không hẳn đây là sự đánh mất bản thân, mà kì thực đó là những ưu tư. Vì ưu tư nên phản tỉnh mà phản tỉnh thì vong thân. Vì sao ? Vì phản tỉnh là ngoái lại, lật ngược chiều cái nhìn để mình nhìn lại chính mình; nhìn lại mình (phản) để nhận ra mình (tỉnh). Tỉnh ngộ ! Tỉnh rồi phải ngộ. Tỉnh rồi nhận ra chân tướng hiện hữu của mình. Thế nên, trong toàn bộ tác phẩm Thú hoang, không có trang nào không là sự phản tỉnh giàu ưu tư như thế. Ưu tư ở đây khác với nỗi băn khoăn khi người ta gặp một bài toán hay một luận đề hóc búa, ưu tư ở đâu là sự băn khoăn bản chất. Là những câu hỏi cơ bản về kiếp người, về sống, về yêu, về chân tướng của cảm thức. Ưu đó không phải để trả lời một cách triệt để mà cơ bản không thể trả lời. Thế nên, ưu tư chính là sự khởi đầu cho cuộc hành trình dấn thân của tuổi trẻ. Nào là Đức, Kim, Liễu, Sáo….nào là Nam, Tín, Quan, Huấn,….Ôi những tâm hồn trẻ giàu suy tư.
c.                       Con người nổi loạn
Sự nổi loạn không hẳn là chống lại. Nổi lên (sự bốc phát) nghĩa là từ chỗ im lìm và chấp nhận, nhân vật ưu tư và nhận ra sự phi lí. Phí lí nên không thể chấp nhận, cần phải nổi dậy. Nhưng nổi dậy, gào lên mà không thể thoát được nên đành rơi vào “loạn”. Nổi thành ra loạn là như vậy. Đó là ông Biểu bà Hảo, ông Chung bà Lý. Những mối quan hệ bất chánh, vượt rào luân lý. Nhưng cũng là những xao xuyến tinh khiết mà ranh giới thiện ác đã bị xóa nhòa. Sự nổi loạn vì thế không hẳn được hiểu như một sự phát ngôn đi ngược lại giá trị chung, hoặc một cuộc chống đối vũ lực, nổi loạn đôi khi chỉ là sự lao về hố thẳm một cách ma mị và ngu độn như thế. Biết là không có lối thoát (làm sao thoát được hố thẳm) nhưng vẫn lào về nó như mê hoặc. Nổi loạn vì thể là biểu hiện của khao khát hiện sinh. Là biểu hiện của tiếng lòng căn bản và chân thực của con người. Suy cho cùng, ông Biểu bà Hảo, ông Chung bà Lý là nạn nhân của chính cuộc hiện sinh của họ.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thanh Xuân: “Trong một lần được Du Tử Lê phỏng vấn, Nguyễn Thị Thụy Vũ nói là “Hình như tôi thường nghiêng nặng về những nhân vật cynique hơn là những nhân vật sống hợp lý với cuộc đời...”. Một câu trả lời quá chân thành và can đảm. Chân thành vì đúng là nhà văn của chúng ta say mê dõi theo những nhân vật có cái nhìn thẳng, thậm chí xấc xược, với những quy ước xã hội, những quy tắc đạo đức phi tự nhiên. Can đảm, bởi trong ý nghĩa thông thường của tiếng Việt, cynique có nghĩa là vô liêm sỉ. Nguyễn Thị Thụy Vũ làm ta nhớ đến Hồ Xuân Hương ở cái cynique vượt ra ngoài ý nghĩa hẹp hòi, thông tục. Đó là khát vọng muốn đạt đến tự do, vượt qua những hệ lụy, những thứ bậc, những cấm kỵ sáo mòn, giả dối”[5]. Qua trích dẫn của Nguyễn Thị Thanh Xuân, chúng tôi lại nhìn thấy một trắc diện khác của cảm thức hiện sinh ở trường hợp Nguyễn Thị Thụy Vũ. Phải chăng, sự nổi loạn của các mối quan hệ bất chánh và những bão tố trong tâm tưởng học trò là biểu hiện của vũ trụ Dyonisos, bóng dáng ‘người hùng’ của Nietzsche. Đó là một chân trời xô lệch, sụp đổ, ngổn ngang, bất định. Cuộc đời phô ra hết tất cả khía cạnh hoang dại và trần rụi của nó.

d.                       Con người lưu đày
Sự lưu đày không phải ở nhân vật mà là chính ở kẻ viết. Bản thân Thụy Vũ cũng là một kiếp lưu đày.
“Bất kể số mệnh ta là gì, bất luận những cuộc phiêu lưu nào đang chờ đợi ta, ta vẫn luôn luôn thấu đó là một cuộc lữ hành, một chuyến đăng sơn: rốt cuộc thì mỗi người chỉ sống điều mà họ cưu mang sẵn trong tự thân”[6]. Ôi đời người là một bản án. Ai là quan tòa và ai là nguyên đơn, là bị đơn. Là Nó cả. Con người tự kết án nó. Vì sao phải tự kết án nó, vì nó không thể hư vô hóa. Nó thiết tha hiện hữu. Hiện hữu nghĩa là hiện hữu cho, hiện hữu trong, hiện hữu tại, hiện hữu vì, hiện hữu như thế và như thế, hiện hữu là, ….ôi trăm mớ tơ hồng ràng buộc. Con người buộc phải đi trên chuyến hành trình từ hư vô đến hữu hiện. Sống luôn là một cuộc hành trình mà ít khi con người chủ động và dễ chịu trên chuyến đi. Hơn nữa, chuyến đi đến hiện hữu đầy rẫy nhưng vết thương mà mỗi người phải tự cưu mang. Vậy thì hỏi : Liệu có vứt đi được không ? Bởi vì ngay cả sự vứt đi cuộc đời kia cũng lại là 1 cưu mang mà kẻ chết vắt lại trên ách cổ người còn sống. Cơ bản: sống là một chuyến lưu đày.
Sự lưu đày ! Cái gì lưu đày những con người trong câu chuyện này. Đó là tự do, tự quyết, là sự thực hiện cuộc hiện sinh của nó. Họ buộc phải như thế. Tất cả, không loại trừ một ai. Ai cũng phải sống, dù đắng cay, dù nghiệt ngã. Phải sống ! Đó là một bản án. Họ phỉ bị lưu đày trong chính cuộc sống của mình. Như con người bị kết án tự do. Họ bị kết án phải sống dù cám cảnh chống chịu bi kịch. Đó là Kim cô gái bị thằng con trai chủ nhà trọ cưỡng hiếp mang bầu. Huấn ra tay cứu giúp nhưng anh lại bỏ đi chiến khu. Kim cũng như chị em trong nhà, buộc phải sống trong mối tình vô vọng và lọt thỏm giữa cuộc hiện sinh đầy rẫy vết thương. Đó là bà Hảo, người đàn bà sống với ông chồng gàn dở, bị ngộ chữ và suốt ngày nói những điều vớ vẩn (giảng luân lí cho con ních một cách hỗn loạn). Ngay cả ‘sự đàn bà’ của bà Hảo cũng không được thực hiện. Giá như bà Hảo không lựa chọn trở thành một người đàn bà với đúng nghĩa khao khát đàn bà thì chắc bà đã khác. Nhưng không, bà có quyền chọn. Chọn trở thành đàn bà với đầy đủ khát khao chính đáng của một người đàn bà. Nhưng bà không thể giãy thoát, vẫn phải sống với ông chồng ngộ chữ, và lén lút tư thông với ông Biểu – người có thể cho bà những giây phút diễm ảo. Cuộc lưu đày là sự lưu đày tự quyết của một người đàn bà biết mình là đàn bà một cách trọn vẹn. Còn Liễu, từ kí ức trong khu vườn cam và hình bóng Nam còn lởn vởn mãi trong trí não, cô gái vẫn không thôi đắn đó. Bên cạnh những ưu từ về xúc cảm và sự thức nhận về cuộc sống dưới nhãn quan nữ giới, cô còn mãi ưu tư về thực trạng xã hội về những phi lí rải rắc chung quanh. Theo tiếng gọi của Đức, cô bỏ đi Saigon mà trong lòng còn chưa biết sẽ như thế nào. Đó là cuộc lưu đày mà chính nàng lao vào. Lưu đày vì thế không phải vì bị ép buộc, lưu đày là kết quả của ưu tư và tự quyết. Đó là cái bi kịch bản chất. Mà muốn làm thành đời, thì các nhận vật không thể không lao vào giông bão đời mình. Vì ‘cuộc đời’ nghĩa là: ‘đời’ từ chỗ ‘cuộc’ mà ra. Cuộc gì ? Cuộc lưu đày thể tính.


3.                       Sự cảm nhận thế giới dưới góc nhìn nữ giới hay cảm thức hiện sinh của người nữ
“Người ta đã hỏi nhau, bàn tán, phê bình về bút pháp cũng như nội dung mỗi truyện của Thuỵ Vũ, vì nó không nằm trong khuôn nếp thông thường của một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ đạo dự tưởng”[7]. Thụy Vũ không hẳn là nhà văn nữ quyền. Nhưng không thể chối bỏ, “tính đàn bà” đậm đặc và cá tính, sự cá tính lao vào các đề tài “khó nhằn” đã tạo nên tính cách riêng cho văn phong của bà.
a.                       Phản tỉnh dưới góc nhìn nữ
Như đã trình bày ở trên, sự phản tinh bắt nguồn từ ưu tư. Ưu tư nổi dậy từ chỗ phi lí. Phi li khi có sự xáo trộn và thay đổi. Sự so sánh và sự trỗi dậy của những nhận thức (khác hoặc mới mẻ) trong tâm tưởng nhân vật. Các nhân vật là giáo sư, sự phản tỉnh của người nữ biểu hiện ở bà Hảo và bà Lý (tác giả ít nói đến ông Biểu và ông Chung). Nhưng không phải nói về nhân vật nữ mà chúng ta nói là cảm nhận dưới góc nhìn nữ giới. Mà ở chính các nhân vật nữ đó, nhà văn đã dùng hệ quy chiếu của người nữ để luận giải và thấu cảm. thế nên, tâm lý của bà Hảo, bà Lý hiện lên một cách thuyết phục và chân thực. Đó là lối văn tinh ròng không màu mè, không làm dáng, không thèm giả đò, giả bộ của Thụy Vũ. Đời nó thế thôi thì bày ra thế thôi. Kiểu cách màu mè để làm gì.
b.                       Người nữ bị kết án (sống, yêu, chết)
“Sự xuất hiện của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ như một kỳ lạ, giữa khung trời nghệ thuật miền Nam Việt Nam. Thuỵ Vũ viết truyện ngắn với nhiều thể tài, mỗi thể tài đều hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ trong vấn đề tình yêu, cũng như nỗi nhức mỏi về thân phận, thân phận người con gái với những ước mơ táo bạo về dục tình”[8]. Có nhận định cho rằng các tác phẩm của nhà văn nữ trước 1975 ở Saigon nặng về tình dục và những vấn đề liên quan đến xác thịt. Chuyện đàn bà không ngoài chuyện xác thịt chăn gối. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, chính những cảm xúc dục tình ấy lại là con đường trực diện dẫn chúng ta nhìn thấu vào cuộc hiện sinh của kiếp người. Thụy Vũ có cái hay là bằng dục tình, bà đưa người đọc vào cuộc viễn du suy tưởng. Không làm cho người đọc sa đà vào mộng tưởng xác thịt mà đẩy nó đến việc trầm ngâm về thân phận và lờ mờ mở ra cho người đọc câu hỏi truy vấn tại sao con người hiện hữu tại thế như thế. Thế nên, tác phẩm của bà không dừng lại ở những chiêu thức câu khách rẻ tiền. Mà thường sau đó, câu chữ của bà vẫn ám ảnh và in hằng vào tâm thức người đọc.
Dục tình trở thành mồi nhử để chúng ta nhận ra các vết thương in hằng vào kiếp đời. Đó là tổn thưởng của Đức, của Kim, của Liễu. Các nhân vật nữ trong Thú hoang đa phần là nạn nhân của xác thịt, nếu không cũng bị ám ảnh bởi kí ức ban đầu của những khao khát bản năng. Nhưng tất cả dục tình, ái lụy, xác thịt đều là cái cớ để tác giả cho thấy cái bản án mà mỗi nhân vật phải gánh chịu. Bản án mà họ phải chịu, phải bị lưu đày. Họ bị kết án phải sống, phải yêu và trối chạy trong sự chết (sự vô vọng, hư vô hóa).
Liễu là cô gái nhạy cảm giàu mơ mộng, có tâm hồn giàu trắc ẩn và suy tư. Có lẽ đây là nhân vật đi vào “cõi người ta” sớm hơn chúng bạn. Vì sao ? Vì những xung động đậm tính người trỗi dậy sớm hơn cả trong lòng nàng. Nhất là những đêm khuya, những khoảng trống mênh mông trong lòng nàng cũng trở nên rộng lớn vô cùng. Lòng nàng tưởng như rộng hoác, tương như mở ra tan hoang và chờ đợi khát khao, đầy rên siết và mãnh liệt. Hơn bao giờ hết, người nữ với những suy tư của mình về dục tính đã trở thành chiếc cầu nối, trở thành cửa để người nữ tự trôi vào hiện hữu của mình. Đó là lối đi đến thân phận nữ, cái thân phận đàn bà mà cụ Nguyễn Du trước cũng có nhắc đến. Người ta không sinh ra là đàn bà, người ta trở thành đàn bà – có một nữ văn sĩ Pháp đã có nói như thế. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự trở thành đàn bà của những cô gái mới lớn, giàu tâm hồn, nhạy cảm và khát khao. Nếu so với cánh đàn ông, có lẽ nữ giới thường là người đi vào miền hoan lạc và khai phá mảnh đất cảm xúc dục tính sớm hơn. Tâm hồn của người đàn bà có lẽ vì thế cũng tinh tế và nhạy bén hơn.
Bất cứ một cảnh tình ý tưởng gì của đời sống cũng dễ dàng khơi màu cho những diễm tình mộng ảo sinh sôi, rạo rực. “Đêm đó, như có một cái gì thao thức trong tôi khi tôi ôm choàng chiếc gối giữa đùi. Những chuỗi hôn trên màn bạc lẫn cặp môi của ông Chung xoắn lấy cặp môi chờ đợi của bà Lý in vào đầu óc tôi như một vết xâm trên da. Tôi lăn trở mãi trong bóng tối và những tiếng động mơ hồ làm tôi không chợp mắt được. Trên máng xối, hai con mèo đuổi nhau, gào thét, rên siết một cách khoái trá, thê thảm. Lấy chiếc mền mỏng trùm lên tận đầu, tôi cố xua đuổi những hình ảnh của ông Chung, bà Lý. Tôi nhắm nghiền mắt và bắt đầu đếm thầm – một phương pháp dỗ giấc hữu hiệu nhất của tôi. Tôi nghĩ tới Nam và tôi gọi thầm tên chàng. Phải gặp Nam sáng mai”. (TH-126). Nam trở thành một dự phóng cho cuộc khám phá “sự trở thành đàn bà”. Liễu không sao xua đuổi ý nghĩ đó. Đó vừa là sự lưu đày như đã nói ở trên, đó còn là định mệnh. Bởi Liễu không thể giãy thoát khỏi “sự trở thành đàn bà” đó. Giả sử Liễu làm được việc đó. Nghĩa là không trở thành đàn bà. Vậy Liễu sẽ trở thành cái gì ? Hư vô ! Điều đó còn phí li hơn sự phi lí của hiện hữu. Từ cái phi lí này, va vào cái phi lí khác. Liễu không còn con đường nào khác. Liễu phải thực hiện cuộc đời mình với cái thiên hướng dường như cơ trời đã đặt định. Đây không phải là quan niệm thiên mệnh của Nho giáo. Đây là thể tính của hiện hữu mang tính nữ. Yêu, sống và chết là các vấn nạn mà người nữ phải xông vào trên cuộc hiện sinh của mình.

KẾT LUẬN
Xin kết lại bài viết bằng nhận xét của Tạ Tỵ: “Nguyễn thị Thụy Vũ, cây viết trẻ, đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của riêng mình về cuộc sống tình cảm cũng như xã hội. Nhiều ý tưởng táo bạo, mạnh mẽ như những nhát búa đập thẳng vào trí não người đọc làm choáng váng mặt mày. Nhà văn chẳng cần giữ ý, chẳng cần úp mở với những vấn đề được đề cập tới trong tác phẩm. Ý hướng sáng tạo của Thụy Vũ giống như một thác nước cao đổ ào ạt xuống triền sâu mặc cho sức đập phá và cuốn theo bao nhiêu cỏ cây hoa lá, cũng như rải rác trôi xuôi theo dòng đời muôn vạn ngả”[9]. Sau gần 50 năm ẩn dật, có lẽ cái tên Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn còn là nỗi ám ảnh trong văn giới đô thị miền Nam. Bởi sự táo bạo và trực diện mà ngòi bút của bà xộc thẳng vào. Phải chăng đây là sự thẳng tính của người Nam Bộ. “Có làm sao thì nói ra làm vậy”. Không quanh co ! Hơn nữa, sự thẳng thắn của bà lại ở trong những đề tài vốn dĩ còn bị quy trục là đồi bại trong xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, cũng chính ở chỗ dễ gây hiểu lầm đó mà văn chương của Thụy Vũ có sức thu hút và phơi mở ra chân trời của những ưu tư choáng ngợp về yêu-sống-chết.
Thú hoang là một tác phẩm về lứa tuổi học trò. Nhưng trải dài từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường đến khi mỗi nhân vật dấn thân vào đời theo nhiều ngả đường khác nhau, câu chuyện đã xoáy đúng vào giai đoạn mang tính chất quyết định. Quyết định ở đây bao gồm sự tự quyết và định hướng cho bản chất hiện hữu của từng đối tượng. Mỗi trải nghiệm từ thời học trò cho đến các tổn thương sau này, cái kinh nghiệm đời sống ô hợp đó là quy định bản chất của ý thức hiện hữu. Sự cô đơn – nổi loạn – ưu tư – vong thân trong tâm hồn của những cô gái tuổi còn thanh xuân giữa cuộc đời tỉnh lẻ như ao tù quẫng bách. Không thể ! Hoàn toàn phi lí ! Hoàn toàn thất bại ! Nhưng chính vì thế, câu chuyện khép lại những vẫn không thể khép lại. Và cơ bản là không thể khép lại. Kiểu như Thụy Vũ dỡ một mảng “đời” rồi bê vào trang sách, bày nó ra thế, đời như thế, và chỉ thế thôi. Không bắt đầu, không kết thúc. Kết thúc nhưng không khép lại. Cảm thức hiện sinh trong Thú hoang của Nguyễn Thị Thụy Vũ, do đó, vẫn luôn luôn ở thì hiện tại tiếp diễn. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      I. M. Bochenski (1969), Triết học tây phương hiện đại (Tuệ Sỹ dịch), Ca dao xuất bản, Saigon, tr.285-286.
2.      Erich Fromm (1969), Phân tâm học về tình yêu (Thụ Nhân dịch), Nhị Nùng xuất bản, Saigon.
3.      F. Nietzsche (2014), Zarathustra đã nói như thế (Trần Xuân Kiêm dịch và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.
4.      Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối xuất bản, Saigon.
5.      Nguyễn Thị Thụy Vũ (2016), Thú hoang (truyện dài), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
6.http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6348-nguy%E1%BB%85n-th%E1%BB%8B-th%E1%BB%A5y-v%C5%A9-%C4%91%C3%A3-tr%E1%BB%9F-l%E1%BA%A1i.html


[1] Dựa trên nghiên cứu của Nguyễn Thị Việt Nga (2017), VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975 (23): Sự hiện diện của triết học và văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954- 1975. Nguồn:https://nhatbaovanhoa.com/p4152a5362/3/nguyen-thi-viet-nga-van-hoc-mien-nam-1954-1975
[2] F. Nietzsche (2014), Zarathustra đã nói như thế (Trần Xuân Kiêm dịch và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội,tr.255.
[3] Erich Fromm (1969), Phân tâm học về tình yêu (Thụ Nhân dịch), Nhị Nùng xuất bản, Saigon, tr.24-25.
[4] I. M. Bochenski (1969), Triết học tây phương hiện đại (Tuệ Sỹ dịch), Ca dao xuất bản, Saigon, tr.285-286.
[5] http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6348-nguy%E1%BB%85n-th%E1%BB%8B-th%E1%BB%A5y-v%C5%A9-%C4%91%C3%A3-tr%E1%BB%9F-l%E1%BA%A1i.html
[6] F. Nietzsche (2014), Zarathustra đã nói như thế (Trần Xuân Kiêm dịch và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội,tr.253.
[7] Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối ấn hành lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.155.
[8] Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối ấn hành lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.158.
[9] Tạ Tỵ (1972), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối ấn hành lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.209.

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...