Skip to main content

TỪ BIỂU TƯỢNG TÂM LÝ ĐẾN BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ

TỪ BIỂU TƯỢNG TÂM LÝ ĐẾN BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ

[VÕ QUỐC VIỆT - KHOL V., 2012]


1. Về khái niệm biểu tượng
Biểu tượng: - Greek: symbolon (συμβλον); - Latin: symbolus/symbolum; - French:  symbole[1]. Theo Từ điển Latin của Charlton T. Lewis: symbolus là kí hiệu hoặc phù hiệu mà nó mang lại một cái khác, nhằm để hiểu thấu bất cứ gì đằng sau nó[2]. Còn theo Henry G. Liddell và Robert Scott[3]: (συμβλον) có nghĩa là: 1- là một kí hiệu hoặc dấu hiệu mà từ nó cho biết hoặc suy ra/ hàm ý một thứ khác; 2- Vật tượng trưng hoặc phù hiệu; 3 – là dấu hiệu bên ngoài của ý thức hoặc cảm giác; 4 - ở Athens, còn có nghĩa là vé, ngân phiếu, bàn tính. Có thể nói thêm rằng, biểu tượng trong nguồn gốc Hy Lạp có nghĩa đen là dẫn đến, so sánh với một thứ khác, “token, pledge, sign by which one infers a thing”[4]. Nó bắt chúng ta đặt một giả thuyết ngay từ đầu về một nội dung nào đó phía sau, những ý nghĩa được mang vào cho nó. Nghĩa là biểu tượng cho phép và tạo điều kiện cho chúng ta bắt được mối liên kết với những gì đứng phía sau nó. Biểu tượng là cái thứ nhất cho việc nắm bắt các khái niệm phía sau.
Chung quy, biểu tượng thuộc về tính ngụ ý một cái gì đó lớn hơn, ám chỉ một điều gì đó chưa nói hết[5], mang khả năng truyền chuyển đến một thế thống ý nghĩa trong văn bản cụ thể. Hay biểu tượng là tiêu biểu, đại diện cho một hình dung trừu tượng, một khái niệm còn mơ hồ chẳng hạn hay một nhận thức có nhiều mối quan hệ phức tạp. Bản thân sự hình dung trừu tượng ấy là quá tải trong chính bản thân nó, nên nó cần tiếp chuyển bởi một vật thể hay một ý niệm nào đó. Nó cần đến biểu tượng để có thể biểu hiện nó đầy đủ nhất có thể. Nhưng biểu tượng nhất là biểu tượng trong văn học lại không nhất thiết có những bờ rào vững chắc. Điều đó phụ thuộc vào sự hình thành của biểu tượng. Biểu tượng, do đó, chỉ là một sinh thể mở không ngừng trao dồi nghĩa, đồng thời tương tác lẫn nhau trong toàn thể các biểu tượng khác cùng tồn tại trong tác phẩm.

Qua phần trên, chúng tôi đã phác họa phần nào những quan niệm chính về biểu tượng. Tiếp theo, chúng tôi trình bày quan niệm của Phân tâm học. Chính ở đây, nghiên cứu biểu tượng có được nhiều thành tựu đáng kể và sâu sắc. Như S. Freud(1856-1939): “Chúng ta gọi những mối liên hệ bất biến giữa môi trường giấc mơ và sự chú giải của nó là “symbolic”. Những yếu tố trong mơ tự nó đã là biểu tượng của những suy tưởng mộng mơ thuộc về vô thức”[6]. Với suy nghĩ này, có vẻ Freud đánh đồng toàn bộ hình ảnh xuất hiện trong mơ với biểu tượng. Tất nhiên, ông vẫn có cái lí của mình. Ông cho rằng bất kì một chi tiết nào nảy nở trong giấc mơ đều là sự giải phóng hay vụt thoát của bản ngã (id) trước tình trạng lỏng lẻo của tay kị sĩ tự ngã (ego). Giấc mơ do đó là lúc bản ngã mang tính chất của một “tiểu quỷ” thể hiện rõ rệt và mạnh mẽ nhất. Thế nên, bất kì một chi tiết nào của giấc mơ cũng là những chiêu trò của “tiểu quỷ”, nó luôn mang một hàm ý nào đó, chứa đựng trong nó một dung lượng nghĩa nhất định. Ý kiến của Erich Kahler nói rõ thêm quan điểm của Freud: “Trương độ của phương thức hình ảnh, “những tưởng tượng hư cấu” có nguồn cội sâu xa hơn trong tâm lý người, hoặc giả xa hơn nữa là trong tâm thức thú hoang. Trong tiềm thức của nó, cơ chế hoạt động tự phát trong giấc mơ đã trở thành tâm điểm chú ý của nhà tâm lý học từng sử dụng thuật ngữ “symbolize” (biểu tượng hóa) về sự chuyển đổi vô thức của cá nhân hoặc một ý nghĩ mơ mộng thuộc về cổ mẫu (archetype) trong những hình ảnh mơ mộng riêng lẽ (theo như cách dùng từ của Freud) và đó gọi là những hình ảnh kết quả hay biểu tượng”[7]. Và giữa “biểu tượng” với nội dung phía sau nó có một mối liên hệ vừa gần gũi vừa tượng trưng. Chẳng hạn, dẫn theo Phương Lựu, Freud cho rằng chi tiết leo cầu thang trong mơ là biểu tượng cho ước ao dục tình, là cơn bộc phát của những người đói khát tình dục. Và hình ảnh leo cầu thang do đó đã là biểu tượng cho hàm ý về hoạt động tính dục ở con người. Kì thực, cách hiểu về biểu tượng của Freud còn dừng lại ở những trường hợp bệnh lý và mang nặng màu sắc tính dục. Điều này gần như ai cũng dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc kí thác nghĩa cho một hình ảnh để trở thành biểu tượng thì giữa kí hiệu, phù hiệu và biểu tượng cơ hồ chẳng còn ranh giới nữa. Trong khi, Biểu tượng không chỉ là một kí hiệu. Về sự phân định ranh giới giữa biểu tượng và kí hiệu xin gác lại phần sau sẽ trình bày cụ thể hơn. Riêng ở đây, phải ghi nhận, sự khẳng định nguồn cội tâm lí của biểu tượng mà Freud có lẽ là người đầu tiên đề đặt một cách vững chắc và có lập luận hoàn thiện là nền tảng cho những khám phá tiếp theo ở C. Jung.

Đến với C. Jung(1875-1961): “vì thế một từ hay một hình ảnh là biểu tượng khi nó cung cấp một thứ gì đó hơn cả chính ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp của nó”[8]. Và theo Jung, quá trình hình thành biểu tượng gắn liền với vô thức hay chính xác hơn là vô thức tập thể. Có thể, đó là một phần của tôn giáo hay có nguồn gốc từ thần thoại và truyền thuyết cổ đại, những niềm tin dân gian, dần dà trở thành mặc định trong cộng đồng hay một nhóm người nào đó. Ở điểm này, Jung lí giải sự hình thành biểu tượng dựa trên “những dấu vết cổ xưa” hay từ vô thức tập thể khác với sự luận giải của Freud dựa trên dục năng libido. Sự khác biệt này bắt nguồn từ cách hiểu về libido của Jung thoáng và cởi mở hơn Freud[9]. Có vẻ suy nghĩ này tích cực và dàn hòa được những ai lên tiếng phản đối màu sắc tính dục ở học thuyết của Freud. Quan niệm của Jung về biểu tượng gắn liền với kí ức của nhân loại. Trước đấy, F. Engels cũng có ý kiến gần gũi với điểm này: “Nếu lịch sử tiến hóa của cái bào thai trong bụng mẹ chỉ là sự tái diễn thu ngắn lại của hàng triệu năm lịch sử tiến hóa  về thể chất của loài vật tổ tiên chúng ta, thì sự tiến hóa về trí tuệ của một em bé cũng vậy. Nó chỉ là sự tái diễn thu ngắn lại hơn nữa của sự tiến hóa trí tuệ của tổ tiên ấy, hay ít ra cũng là của những tổ tiên gần đây nhất”[10]. Vậy thì biểu tượng không chỉ là một hình ảnh đơn thuần xuất hiện trong mơ, mang hàm ý tính dục và tuân thủ nguyên tắc thõa mãn đơn thuần. Mà hơn thế, biểu tượng là sự tái sinh và hiển hiện ở một trương độ khác của những dấu vết tiến hóa về mặt tinh thần của tổ tiên hình thành trong suốt chiều dài lịch sử giống nòi. Cơ bản, biểu tượng cũng là những hình ảnh được tái hiện lại trong cảm tính, đặc biệt là trong giấc mơ và khởi đi từ vô thức (vô thức tập thể), rồi được nâng cấp thành kí hiệu nhờ một hàm ý nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình đó, biểu tượng lại tách ra khỏi phạm vi của kí hiệu ở tính chất phi lí tính. Biểu tượng thoát khỏi vòng kiểm soát của lí trí, và luôn luôn trong quá trình tái cơ cấu dung lượng nghĩa. Biểu tượng, cụ thể hơn là biểu tượng trong giấc mơ, là kết quả tương tác thường xuyên giữa động năng ý thức di truyền từ tổ tiên với cuộc sống của chính bản thân mỗi con người. Là cuộc va chạm giữa hai vũ trụ riêng và chung, giữa vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Do thế, mà biểu tượng luôn luôn trên hành trình xác định ý nghĩa hay nói khác đi là quá trình ý nghĩa gồm thâu trong một biểu tượng diễn ra vô tận. Mối quan hệ giữa biểu tượng và hệ thống nghĩa của nó không còn mang tính chất võ đoán, quy ước như kí hiệu mà là mối quan hệ thuộc về trường liên tưởng khởi đi từ hai cơ chế dồn nén-hoán vị[11]. Tất nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò chi phối của siêu ngã (superego) – đại diện là những lý tưởng chung và riêng -  đối với sự hình thành biểu tượng và đặc tính của nó. Tuy nhiên, yếu tố này không là chính yếu, không là chủ đạo, thậm chí rất hạn chế.
2. Về biểu tượng trong hoạt động của tâm lý người
Sau nữa, chúng tôi nói đến sự hình thành biểu tượng tâm lý.
Tại sao chúng ta cần có biểu tượng, phải tư duy bằng biểu tượng ? Thực tế, như quan niệm của Jung, tâm thần người vẫn chưa có độ vững vàng cần thiết cho những suy lí tiên tục và logic. Sự liên tục về tư duy mà chúng ta hình dung kì thực là sự lắp ghép về mặt tuyến tính thời gian. Họa chăng, sự liên lục mà chúng ta có trong ý thức chỉ tồn tại ở phạm vi nhỏ hẹp. Về cơ bản, ý thức chúng ta vẫn là một chuỗi phân cách – gãy gập – đứt đoạn. “Không còn nghi ngờ gì nữa, trong cái mà ta gọi là trình độ văn hóa cao thực ra, tâm trí con người cũng chưa đạt được một trình độ liên tục mỹ mãn. Tâm thần con người vẫn còn bị thương tổn và dễ bị phân đoạn”[12]. Trong khi, thế giới là một thể toàn vẹn thống nhất, các mối liên hệ là phổ quát. Thế nên, trong hoạt động tư duy, chúng ta luôn vướng phải những chi tiết “không nói nên lời”, không sao nói hết, nói cho đến tận cùng vấn đề. Từ đó, đời sống ý thức của chúng ta đòi hỏi phải có một phương thức nào đó giúp cho việc hình dung về những khía cạnh trừu tượng của thế giới. Với những đặc trưng đã trình bày, đó chính là phương thức biểu tượng – hay biểu tượng hóa (symbolizing). Có thể sẽ có thêm một phương thức nào đó thỏa mãn nhu cầu biểu hiện tính toàn vẹn của thế giới bên cạnh “phương thức biểu tượng”. Tuy nhiên, với bài viết này, chúng tôi xin phép không đào sâu thêm nữa vấn đề này.
Có thể nói, tư duy trực quan của chúng ta đã tạo nên những hình ảnh. Hình ảnh được sử dụng để giúp tư duy người nắm bắt những sự vật hiện tượng cụ thể. Nhưng với những khái niệm trừu tượng hơn, phương thức hình ảnh đã trở nên bất lực. Hình ảnh cần có sự vận động để có thể biểu hiện cho cái trừu tượng. Sự vận động đó làm nó biến đổi. Hình ảnh dần có tính tượng trưng. Tiền thân của biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng ấy. Phần lớn sẽ hình thành trong giấc mơ, hoặc những lúc lơ đễnh vượt ngoài vòng ý thức. Thông qua cuộc sống hằng ngày, ý thức chúng ta bắt gặp và xử lí vô số tác động từ thế giới bên ngoài. Trong số đó, hẳn có những ảnh hưởng cấm kị đối với ý thức, hoặc sẽ bị ý thức từ chối tiếp nhận. Phần lớn trong số đó là những cái mới lạ hoặc đi ngược lại mặt bằng chung của ý thức chúng ta đúng ngay lúc tác động ấy xảy ra. Chúng ta cứ tưởng tác động ấy trôi qua mà không để lại gì trong tâm trí. Nhưng “giấc mơ sẽ tố cáo những cảm giác mà ta ghi nhận một cách vô tâm, chúng không xuất lộ dưới hình thức hữu lý, nhưng dưới hình thức một hình ảnh tượng trưng”[13]. Kì thực, những phản ứng mà ý thức chúng ta cho là tiêu cực và khước từ đã được địa hạt phi ý thức ghi nhận mà chúng ta không hay biết. Những điều đó chôn sâu vào tầng vô thức – tiềm thức, chờ đợi cơ hội xâm lấn ngược trở lại ý thức. Và giấc mơ là không gian thích hợp cho những tạp ghi “mới lạ - mãnh liệt – phi thường” ấy thể hiện tầm ảnh hưởng của nó đối với ý thức và hành vi của chúng ta. Những hình ảnh đó không có chung ngôn ngữ với ý thức (đây cũng là một vấn đề quan trọng mà chúng ta cần tìm hiểu tiếp theo). Chúng xuất hiện dưới dạng những hình ảnh tượng trưng và đó là “tiền biểu tượng” trong địa hạt tâm lý. Biểu tượng bắt nguồn từ những hình ảnh tượng trưng khởi đi từ vô số ảo giác thoáng qua, mơ hồ, và dị biệt. Nhưng cũng như biểu tượng nói chung, biểu tượng tâm lý cũng chỉ được xác định trong môi trường của nó. Biểu tượng cần có điều kiện xác định để có thể truyền dẫn đến nội dung phía sau nó. Biểu tượng tâm lý chỉ có thể hình thành trong điều kiện nhất định.
Như đã trình bày, hình ảnh trên con đường trở thành biểu tượng đã phát triển theo hướng tượng trưng hóa. Từ đó, biểu tượng định hình khi thâu nạp thêm vào bản thân nó những nội dung mang tính trừu tượng. “Như vậy, một chữ hay một hình ảnh sẽ trở thành một biểu tượng khi nào gợi đến cái gì khác ngoài ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp. Chữ ấy hay hình ảnh ấy có một khía cạnh không thể ý thức được, sâu rộng hơn, chưa bao giờ được xác định phân minh, được giải thích đầy đủ”[14]. Hay “chúng ta luôn dùng những biểu tượng để hình dung những khái niệm mà chúng ta không thể định nghĩa và hiểu biết đầy đủ”[15]. Nhưng làm thế nào một hình ảnh trở nên có tính chất tượng trưng và trở thành biểu tượng trong tâm lý người. “Trong số những kỷ niệm đã quên đi ta thấy nhiều sự kiện đã ghi nhận nhưng không ý thức được vì chúng có vẻ khó chịu và không thích hợp với thế giới tâm tưởng của ta, (chúng ta không thể nhớ lại theo ý muốn được). Các nhà tâm lý học gọi hiện tượng ấy là dồn nén”[16]. Sau nữa, đó là cơ chế hoán vị - liên tưởng. Nói khác đi, “Trong khi những yếu tố của ý thức có thể biến vào tiềm thức thì những yếu tố mới có thể xuất hiện ra trong ý thức”[17]. “Nhưng có lẽ nó đã giúp ta hiểu được vóc dáng của những cảm giác phi ý thức từ đó có thể đột nhiên xuất hiện những biểu tượng của giấc mơ”[18]. Những hình ảnh chồng chất trong lãnh địa phi ý thức không mất đi, thậm chí còn trở đi trở lại thường xuyên. Và nó thường nhắc nhở ta về những gì đã tiếp xúc. Chính ở đây, hình ảnh đã bắt đầu thay đổi. Hình ảnh khiến trí não ta lây lan đến những miền đất xung quanh nơi hình ảnh đó đang sống. Nó không chỉ nói về nó, hình ảnh còn chỉ tay về hướng khác; khiến ta liên tưởng – liên hệ - bắc quan hệ với những khu vưc xung quanh nó. Hình ảnh cây đa không đơn giản biểu hiện chính bản thân nó. Sau nhiều năm trôi qua, cây đa tưởng mất đi, đã bị lãng quên. Nhưng đột nhiên, câu ca dao ai đó có nhắc nhở về gốc đa. Chúng ta bị rơi vào miền liên tưởng của hình ảnh ấy. Cây đa – sân đình; cây đa – giếng nước ; cây đa – hội hè tuổi thơ ; cây đa – hò hẹn lứa đôi. Vậy là cây đa – hình ảnh ấy  - giúp ta thiết lập miền liên tưởng xung quanh nó. Nó truyền dẫn đến những nội dung khác. Và rõ ràng nó biểu thị cho những gì nằm ngoài sự biểu thị rõ ràng – trực tiếp – và hiển nhiên của nó. Hình ảnh đó trở nên có tính tượng trưng. Và từ đó sẽ hình thành ở mỗi người những biểu tượng cây đa với nội dung khác nhau. Điều chúng tôi muốn trình bày ở đây, đó là những hình ảnh tượng trưng ấy đã trở thành biểu tượng qua cơ chế dồn nén – hoán vị, hay quá trình thiết lập miền liên tưởng xung quanh các hình ảnh.
3. Sự hình thành biểu tượng thẩm mỹ
Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về con đường dẫn đến biểu tượng thẫm mỹ. Những biểu tượng tâm lý, nói chung, đã hình thành trong đời sống tư duy của con người. Tuy nhiên, chỉ một số ít trong đó thực sự là những biểu tượng thẫm mỹ, và thậm chí những người tạo ra nó cũng không hiểu được hết và kiểm soát triệt để những biểu tượng do mình tạo ra.
Biểu tượng có tiếng nói riêng của nó. Đặc biệt biểu tượng thẫm mỹ luôn giàu có ý nghĩa, và nó sẽ nói không ngừng, một dòng chảy ý nghĩa vô tận (cũng có thể hiểu gần như quá trình phân giải văn bản)[19]. Chúng ta đặt vấn đề rằng: biểu tượng thẫm mỹ sẽ nói như thế nào ? Chìa khóa đầu tiên để cho biểu tượng tâm lý trở thành biểu tượng thẫm mỹ, đó là khi nó sử dụng một ngôn ngữ hoàn toàn khác – ngôn ngữ giấc mơ[20]. Nghĩa là khi đó, biểu tượng tâm lý không còn là một hệ thống được quy ước chặt chẽ, bao gồm cả ý nghĩa là nó đã vượt ra ngoài địa hạt ý thức. “Một câu chuyện do ta ý thức hẳn hoi mà kể lại sẽ có nhập đề, tình tiết và kết luận. Giấc mơ thì không thế. Kích thước không gian và thời gian của giấc mơ hoàn toàn khác biệt”[21]. Như thế, ngôn ngữ mà ý thức ta sử dụng hằng ngày khác về cơ bản với ngôn ngữ biểu tượng – ngôn ngữ giấc mơ. Có vẻ như ngôn ngữ giấc mơ thiếu đi cái mà chúng ta hay gọi “logic”. Sự khác biệt ấy có thể đến từ chỗ sai biệt về trục không- thời gian. “Người nằm mơ bị bao vây bởi những hình ảnh có vẻ lố lăng và mâu thuẫn nhau, ý niệm thời gian không còn, cái gì nhàm chán nhất cũng có thể hiện ra vẻ quyến rũ hay đáng sợ”[22]. Bằng cách phủ định không thời gian thường nghiệm[23] tồn tại trong ý thức cộng đồng, biểu tượng tâm lý có ngữ pháp riêng và bên cạnh nét mê hoặc chung, vẫn còn có “nét rườm” cá nhân. Đó cũng là cơ chế hoạt động của biểu tượng tâm lý hình thành như những giấc mơ. Cũng chính ở đấy, biểu tượng tâm lý đã trở thành biểu tượng thẫm mỹ với khả năng quyến rũ, mê hoặc và yếu tố “lạ”[24] làm gián đoạn dòng chảy nhàm chán của tư duy thường nghiệm. Với ngôn ngữ như một hệ quy ước, chúng ta nhận thấy ở nó không gian “ba chiều” tuân theo hiểu biết của vật lí học cổ điển hầu như áp dụng cho mọi người và thời gian tuyến tính đơn giản, một chiều. Trong khi đó, ngôn ngữ giấc mơ khước từ không-thời gian ấy. Đó là thời gian liên tưởng, trường liên tưởng về mặt hình ảnh. Âm vị là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ sử dụng trong địa hạt ý thức, nhưng ở đây trong ngôn ngữ của biểu tượng thẫm mỹ, hình ảnh là đơn vị cơ bản nhất[25]. Còn không gian, chúng ta nhận thấy các chiều không gian hầu như được lắp ghép và đôi khi chồng chéo, xen lẫn, khẳng định hoặc loại trừ nhau. Điều đó xuất phát từ mối quan hệ tiềm ẩn mà những biểu tượng thẫm mỹ ấy xác lập với các yếu tố xung quanh nó trong chỉnh thể đối tượng nghệ thuật (một bức tranh, một bản nhạc, hay một tác phẩm văn học chẳng hạn). Có thể những điều hoang tưởng của đời sống hằng ngày hoàn toàn vừa vặn trong không gian giấc mơ và thời gian về những linh hồn ở thế giới bên ngoài không phải lúc nào cũng bất khả và vô nghĩa. Giấc mơ và những cơn mộng du ban ngày có thể xác nhận rất nhiều điều không tưởng đối với ý thức. Thực ra, nhiều sự việc được chúng ta sắp sếp khuôn sáo trong lúc tỉnh thảo thường ít chuẩn xác vì nó chịu tác động của khá nhiều yếu tố bên ngoài.
Như vậy, một vấn đề mới phát sinh. Chúng ta sẽ giải thích những biểu tượng thẫm mỹ sử dụng ngôn ngữ giấc mơ ấy bằng cách nào ? Mặc cho sự khác biệt của nó, ngôn ngữ giấc mơ, như bất cứ một ngôn ngữ nào khác, là một một phương thức truyền tải thông tin và ý nghĩa. Thế thì một âm vị /ɣ/ chẳng hạn, làm sao có khả năng thể hiện vai trò và vị trí của nó, chứ chưa nói gì đến truyền tải thông tin. Chắc hẳn cần phải có thêm những âm vị âm đầu khác (/b, m, f, v, t, t’, d, n, z, ʐ, s, ş, c, ʈ, ɲ, l, k, χ, ŋ, ɣ, h, ʔ/) để khẳng định sự khu biệt của mỗi âm vị. Đó luôn là cách mà ngôn ngữ triển khai được ý nghĩa của nó. Qua ví dụ này, chúng ta nhận thấy mỗi âm vị cũng như mỗi chi tiết trông ngôn ngữ giấc mơ của biểu tượng thẫm mỹ cũng chỉ có thể xác định được thông qua những chi tiết khác trong cùng hệ thống của nó. “Các suy luận như thế đưa tôi đến kết luận chỉ có những hình ảnh và ý tưởng thuộc thành phần của giấc mơ là được dùng để giải thích giấc mơ ấy”[26]. Và ở đây, biểu tượng thẫm mỹ với ngôn ngữ giấc mơ, cần được đặt trong chính hoàn cảnh (condition/situation) tồn tại của nó, trong môi trường hoạt động và thể hiện của nó như là bộ phận của một hệ thống chỉnh thể (tác phẩm văn học chẳng hạn). Khi đó, chúng ta mới có được sự lí giải xác đáng. Biểu tượng “Trăng” trong thơ Hàn Mặc Tử chỉ nên nắm bắt và thấu hiểu khi chúng ta đặt nó vào vũ trụ thơ và đời sống của chính nó trong toàn bộ hệ thống tác phẩm liên quan (tập Thơ điên, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí…và không gian thơ 1932-1945)[27].
Chung quy, biểu tượng trong tâm lý chúng ta đã trở thành biểu tượng thẫm mỹ qua cơ chế hoạt động của vô – tiềm thức. Những biến cố xảy ra sẽ được ghi lại “hoặc vì sự khích động giác quan yếu ớt quá không thể để lại một cảm giác có ý thức. Tuy nhiên tiềm thức của ta đã ghi nhận. Những cảm giác vô ý thức đó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của chúng ta. Chúng ảnh hưởng đến cách phản ứng của chúng ta trước sự vật và hành động của người khác”[28]. Cuộc sống hàng ngày diễn ra với tất cả những tác động được ghi nhận một cách ý thức hoặc vô thức. Và đối với nhà thơ – người sáng tạo nghệ thuật nói chung – sự xâm lấn của vô-tiềm thức là hết sức mạnh mẽ. Chính môi trường đó ảnh hưởng đến sự hình thành tính thẫm mỹ - độc đáo – khác lạ không chỉ ở ngôn ngữ mà ở tận cội rễ của tư duy nghệ thuật (Chúng ta có thể nghĩ về Hàn Mặc Tử như một ví dụ dễ thấy nhất). Sở dĩ, vô – tiềm thức hình thành được những đặc tính ấy cho biểu tượng vì nó sử dụng trục không-thời gian hoàn toàn khác ý thức.
4. Vài nét nổi bật ở biểu tượng thẩm mỹ
Chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp theo về trục Không-thời gian của biểu tượng thẫm mỹ. Ở đây chúng tôi trình bày về cơ chế hoạt động và tổ chức của trục không-thời gian. Vấn đề này cho thấy rõ sự khác biệt (dẫn đến nét mới lạ - độc đáo – quyến rũ cho biểu tượng) với những biểu tượng có nguồn gốc tâm lý khác. Có thể nói hình ảnh luôn là kết quả đầu tiên mà các giác quan mang lại cho chúng ta. Chúng ta suy tư, tư duy – nói khác đi là chúng ta không ngừng thiết lập mối quan hệ giữa/với các bộ phận của thế giới xung quanh. Hoạt động này không ngừng diễn ra trong quá trình sống. Các thao tác mà chúng ta hay sử dụng nhất: ẩn dụ, phúng dụ, hoán dụ, nhân hóa, giễu nhại, hình tượng hóa, biểu tượng hóa ....Chung quy, các thao tác ấy cuối cùng để giúp ta thiết lập mối quan hệ giữa các đối tượng và chủ thể (theo ý nghĩa tương đối, vì tất cả chỉ là hiện tượng). Và trong số những thao tác ấy, việc làm đầu tiên, đó là việc cần phải thiết lập môi trường với trục không-thời gian nhất định.
Với biểu tượng thẫm mỹ, vốn xuất phát từ những hình ảnh trong hoạt động phi ý thức, do đó, chúng tôi đi từ trục không-thời gian của chúng để hiểu về cơ chế thể hiện của biểu tượng. Như đã biết, “người trong mơ bị bao vây bởi những hình ảnh có vẻ lố lăng và mâu thuẫn nhau, ý niệm thời gian không còn, cái gì nhàm chán nhất cũng có thể hiện ra vẻ quyến rũ hay đáng sợ”[29]. Vậy ra, trong sự hoạt động của nó, hình ảnh tượng trưng trước tiên phá hỏng hầu như toàn bộ trục không-thời gian của ý thức. Trong đó, không gian và thời gian hòa nhập vào nhau, chúng chỉ còn tồn tại trong “môi trường”[30], không còn trật tự tuyến tính, không còn quan hệ ngữ nghĩa (bao gồm cả mặt từ vựng). Chúng hoạt động theo quy luật liên tưởng. Xếp đặt, gán ghép mọi thứ có vẻ ngẫu nhiên, nhưng giữa chúng vẫn có mối liên hệ. Mối liên hệ có được từ kí ức cá nhân và kí ức tập thể.
Khái niệm thời gian hay không gian vốn dĩ mang tính xã hội thuần túy. Chúng ta quy định sự tồn tại của không gian và thời gian trong quá trình phát triển và vận động của chính mình. Ai ai cũng lớn lên, ai cũng từng chạy nhảy từ đầu làng đến cuối xóm. Đó là những ý niệm thời gian và không gian sơ khai của chúng ta. Hay nói khác đi, là việc nắm bắt thế giới theo trục ngang và trục dọc phân định trên cơ sở tồn tại người. Thế thì với vũ trụ sẽ như thế nào ? Vốn dĩ cũng không có thời gian và không gian. Vì vũ trụ vẫn thế, có đấy, toàn diện và tĩnh lặng. Sự náo loạn của các động hướng khuynh đảo đời sống vũ trụ. Các hố đen thu nạp vật chất và cho đến khi căng tràn, hố trắng được mở ra trong tức khắc và tạo ra một miền không gian mới. Vậy nên vốn dĩ không gian là sự chồng chất, xâm lấn, song hành với nhau. Hố đen-trắng đóng vai trò như những đường thông của các miền vũ trụ. Vậy chỉ xét riêng từng miền vũ trụ đơn lẻ, như vũ trụ của chúng ta chẳng hạn. Các đơn vị vật chất đủ lớn gây ra độ cong của không- thời gian (hệ quả từ thuyết tương đối rộng), cũng giống như mỗi chất điểm trên mạng lưới vũ trụ. Điều này khẳng định một điều rằng, chỉ có sự tồn tại vật chất mới gây ra không-thời gian và chúng chưa bao giờ tách biệt nhau. Thế thì khái niệm thời gian tuyến tính – như một dòng sông mải miết – không còn phù hợp nữa. Vì sự bất cập và yếu đuối của trĩ não ta mà chúng ta đã chia cách thời gian và không gian. Không - thời gian cũng là hai khía cạnh cố cựu của vật chất. Khoa học đã chứng minh, thời gian ở những hành tinh có khối lượng lớn thường chậm hơn thời gian ở những hành tinh có khối lượng nhỏ. Khối lượng ở đây là độ tập trung vật chất. Độ tập trung vật chất càng lớn ảnh hưởng càng nhiều đến độ cong của không-thời gian. Trở lại với không - thời gian của lý trí – của con người, sự ý thức đó gắn liền với quá trình lớn lên và di chuyển của chúng ta. Chúng ta, bằng ý thức ngày càng áp đặt và xa rời bản chất nguyên ủy của không – thời gian. Ở ven sông Amazon, bộ tộc Amondawa không hề có một khái niệm thời gian như xã hội văn minh. Họ nghĩ về thời gian như là sự thay đổi của hình hài, của tên gọi và vị trí xã hội. Mà như thế, thời gian vốn dĩ không cần đến tuyến tính, thậm chí có vẻ như một vòng tròn khép kín. Đó là thời gian của buổi đầu sơ khai. Là thời gian chưa tách rời không gian, không gian người. Và cũng từ đó, không gian người – nghĩa là không gian của người – không nhất thiết tuân thủ các mối liên hệ vật chất cho việc tạo dựng không gian ấy. Hóa ra, không – thời gian là một, và nó tùy thuộc vào chất điểm mà từ đó nó có được sự tồn tại. Chính chất điểm đó quy định tính chất của không-thời gian. Ở vô – tiềm thức, nơi mà hoạt động tinh thần của con người phản ánh trung thành nhất những gì diễn ra với tâm hồn người, ở đó, không-thời gian cũng vượt ra ngoài việc thiết lập liên hệ như những vật chất thông thường. Đó là không-thời gian với khả năng đa tầng đa chiều về không gian, phức hợp và phức hướng về thời gian. Đây cũng là trục không-thời gian của biểu tượng thẫm mỹ hình thành trong địa hạt phi ý thức.
Đến đây, chúng tôi đã phần nào trình bày về biểu tượng tâm lý và biểu tượng thẩm mỹ trong một quá trình biến chuyển khăng khít. Qua đây, rất mong đã mang lại những suy nghĩ cởi mở hơn về một hướng nghiên cứu văn học, nhìn chung, còn sơ khởi và chưa có được nền tảng lí luận vững vàng ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.      Freud Sigmund (1920), A General Introduction to Psychoanalysis, Boni and Publishers, New York.
2.      Jung Carl G. (1968), Man and his Symbols, Dell Publishing, USA.

3.      Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4.      R. Wellek và A. Warren (2009), Lý luận văn học, NXB Văn Học, Hà Nội.







[1] Xem Charlton T. Lewis (2002), A Latin Dictionary, The Clarendon Press, Oxford. Webster’s New World Dictionary of the American Language, the World Publishing Company, Cleverland and New York, 1960.  Henry G. Liddell and Robert Scott (1883), The Greek-English Lexicon, Harper & Brothers, New York. Henry R. Hamilton (1868), An English-Greek Lexicon, ?, London.
[2] Charlton T. Lewis (2002), A Latin Dictionary, Clarendon Press, Oxford.
[3] Henry G. Liddell and Robert Scott (1883), The Greek-English Lexicon, Harper & Brothers, New York.
[4] “cái biểu hiện, vật làm tin, dấu hiệu mà từ nó có thể suy luận/suy ra/ gợi ý/ hàm ý thứ gì đó”. Webster’s New World Dictionary of the American Language, the World Publishing Company, Cleverland and New York, 1960. (p.1477)
[5] R. Wellek và A. Warren (2009), Lý luận văn học, NXB Văn Học, Hà Nội.
[6] Sigmund Freud (1920), A General Introduction to Psychoanalysis, Boni and Publishers, New York, p.123.
[7] The Nature of the Symbol by Erich Kahler, see Rollo May (1961), Symbolism in Religion and Literature, George Braziller, New York, p.58.
[8] Carl G. Jung (1968), Man and his Symbols, Dell Publishing, USA, p.4
[9] Freud cho rằng libido là dục năng thúc đẩy các cơ chế hành vi ở người. Nhưng Jung không dừng lại ở đó, ông cho rằng Libido còn hơn thế, là cái động năng sống nói chung, không chỉ có màu sắc tính dục đơn thuần. (Động năng sống ở đây khác với cái đà sống – élan vital - ở Henri Bergson).
[10] F. Engels, “Phép biện chứng của tự nhiên”, Dẫn theo Trần Đức Thảo (2003), Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức ( Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.99-100.
[11] Ý kiến này, Jung đã tiếp thu từ Freud. “Theo Freud, sự sáng tạo bắt đầu với sự huyễn tưởng. Đó là trạng thái mà vô thức và tiềm thức trở nên có hiệu lực với việc thể hiện sáng tác. Tiếp theo là cơ chế thay thế - hoán vị và sự bứt phá của dồn nén”. (Dẫn theo: Nhiều tác giả (2000), Phân Tâm học và Văn hóa Nghệ thuật, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội).
[12] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.113.
[13] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.110.
[14] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.108.
[15] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.108.
[16] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.127.
[17] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.129.
[18] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.129.
[19] Năm 1970, S/Z cho thấy Barthes quan niệm cấu trúc hoàn chỉnh Cái biểu đạt (CBĐ) và Cái được biểu đạt (CĐBĐ) đã lỗi thời. Vì CBĐ cho phép tìm đến CĐBĐ, nhưng đến lượt nó, CĐBĐ trở thành CBĐ’ àCĐBĐ’ àCBĐ’’ à CĐBĐ’’ à CBĐ’’’à CĐBĐ’’’….có n CBĐ và CĐBĐ. Hết sức tự giác, đó là một quá trình chủ động triển khai con đường phát triển vận động của tác phẩm như một cấu trúc nảy nở bội phân. “Vấn đề của phê bình gia là tách chúng ta thành những khối tạo nghĩa, từng đơn vị đọc (lexies) và thâm nhập vào quá trình tạo nghĩa của nó. Có thể là một số từ, câu, nửa câu, miễn là có thể phát hiện những nghĩa chồng chất bên trong. Cụ thể, cấu trúc tác phẩm bị tháo rời, đặt vào một hệ thống khác và lại tháo rời. Thế là tác phẩm văn học trở thành một cấu trúc đa tầng và hoàn toàn rộng mở” (Phương Lựu). Cấu trúc nội tại của tác phẩm chỉ là hệ thống ý nghĩa thứ nhất, còn hệ thống ý nghĩa thứ “n” là do người đọc trong đó có giới phê bình hình thành. Theo Barthes, muốn khám phá được những nghĩa bên trong cần trải qua khai quật 5 mã sau: - Mã trần thuật; - Mã thuyết minh; - Mã văn hóa; - Mã tượng trưng; - Mã nội hàm. Tác phẩm, do đó, “không phải để đọc mà là để viết lại”. Có thể thấy, quan niệm này là bước chuyển biến mạnh mẽ của chủ nghĩa cấu trúc à hậu cấu trúc. Ở đây, người đọc hay người đọc lí tưởng – nhà phê bình – trở nên quan trọng đối với đời sống tác phẩm. “Tác phẩm chỉ là một thể chế chính trị bù nhìn”. Nó ở trung tâm nhưng không phải là đích đến. Cấu trúc là cái chủ yếu được nắm bắt nhưng ngay cả cấu trúc cũng là cái bị lợi dụng. Có lẽ, sự phân giải kiệt cùng CĐBĐ của cấu trúc văn bản khiến hậu cấu trúc xa rời văn học.
[20] Chúng ta đang nói về sự hình thành biểu tượng thẫm mỹ ở khía cạnh “ngôn ngữ” mà nó sử dụng – ngôn ngữ giấc mơ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là toàn bộ biểu tượng thẫm mỹ điều hình thành trong khi nhà thơ hay nhà văn ấy có những cơn mộng mị kéo dài. Giấc mơ ở đây có thể hiểu là những lúc địa hạt phi ý thức thể hiện tầm ảnh hưởng của mình đối với cách suy nghĩ và hành vi của con người. Từ đó, khi những “ức chế” đã nhuốm màu giấc mơ, khi nó triển khai ý nghĩa của chính nó bằng cách mà giấc mơ thể hiện, khi đó, những biểu tượng tâm lý dần dần hình thành. Nhưng chỉ khi nào những biểu tượng tâm lý vừa thành hình vượt thoát khỏi giấc mơ, khỏi chế độ độc tài của ý thức, và bằng cách thể hiện – triển khai ý nghĩa theo kiểu “giấc mơ” thì nó mới thực sự là biểu tượng thẫm mỹ. Biểu tượng thẫm mỹ không nhất thiết tồn tại duy nhất trong địa hạt nghệ thuật. Có thể chúng ta vẫn bắt gặp nó đâu đó trong cuộc sống. Một anh chàng mắc chứng suy nhược thần kinh đôi khi phát ngôn như một nhà thơ. Trường hợp như thế, các bác sĩ tâm lý sẽ bắt gặp thường xuyên hơn chúng ta.
[21] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.118.
[22] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.131.
[23] “Thế nhưng, tuy mọi nhận thức của ta đều bắt nguồn (anhebt) từ kinh nghiệm, song không phải vì thế mà tất cả đều bắt nguồn (entspringt) từ kinh nghiệm.........thật có chăng một nhận thức độc lập với kinh nghiệm và với mọi ấn tượng của giác quan ? Ta gọi các nhận thức như vậy là tiên nghiệm (A priori) và phân biệt chúng với các nhận thức thường nghiệm (empirisch) có nguồn gốc hậu nghiệm ( A posteriori), tức là từ trong kinh nghiệm”(Immanuel Kant (2006), Phê phán lý tính thuần túy, NXB Văn học, Hà Nội, tr. 77-78). Thường nghiệm ở đây được sử dụng với ý nghĩa hậu nghiệm và gắn liền với sự tiếp nhận các ấn tượng quan năng. Đó là những dữ liệu thu nhặt được từ thực tại, từ đó, kích thích sự vận hành của trí não. Hay nói khác đi, chính hoạt động của giác tính chúng ta thực hiện các sự vận so sánh, nối kết hay tách rời, để có thể xử lí, giải quyết và sắp xếp các thông tin. Vì các yếu tố của giác năng thu nhận được diễn ra trên trục thời gian cố định trên tư duy của vật lí học cổ điển và chúng thuộc về khía cạnh giống loài và xã hội nên thành ra phổ quát cho tư duy người. Chính sự phổ quát ấy gây nên sự nhàm chán và thiếu sức sống ở những dữ liệu thu nhặt được. Vượt thoát khỏi tính phổ quát ấy, biểu tượng, bất kể có nguồn gốc hậu nghiệm hay tiên nghiệm, mới có thể trở nên thu hút và kích thích khả năng thẫm mỹ cho biểu tượng ấy.
[24] Sự “lạ” ở đây không giống với  “Lạ hoá (tiếng Nga: octpanenue, tiếng Anh: defamiliarization) lần đầu tiên  được V. Skhlovsky – một thành viên quan trọng của trường phái hình thức Nga đầu thế kỷ XX đề xuất”. Vì sự “lạ hóa” của Skhlovsky được “quan niệm như là toàn bộ “những thủ pháp trong nghệ thuật được dùng để đạt đến một hiệu quả nghệ thuật””(Xem http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=4329). Trong khi, lạ ở biểu tượng không thuộc về phạm trù thường nghiệm như đã nói, thoát khỏi tư duy, nghĩa là không hoàn toàn ý thức được trọn vẹn. Biểu tượng không thể là một thủ pháp, mà được hình thành từ những đổi thay cội rễ của tâm hồn. Hàn Mặc Tử là ví dụ cụ thể nhất.
[25] Về sự phân biệt và xác định mối liên hệ giữa hình ảnh với biểu tượng, chúng ta đã trình bày ở phần trên.
[26] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.119.
[27] Qua ví dụ ở phạm vi “rộng” như trên, chúng tôi tự nhận thấy cách nghĩ này không có gì mới mẻ, nhưng chúng tôi cho rằng với công việc nghiên cứu biểu tượng thẫm mỹ luôn cần thiết xác định rõ ràng. Vì hầu như người ta thường sử dụng những yếu tố bên ngoài hệ thống tác phẩm, bên ngoài đời sống của biểu tượng để lí giải nó.
[28] Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.126.
[29] Sđd, tr.131
[30] Môi trường mang ý nghĩa là cái để cho các bộ phận của giấc mơ hay các hình ảnh – biểu tượng tồn tại và hoạt động.  Môi trường là cái gì mênh mông và bao la, có đấy, luôn luôn ở đấy, dung chứa hết thảy. Không gian và thời gian không còn ý nghĩa gì với môi trường. 

Comments

Popular posts from this blog

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO. QUYỀN LỰC. NHÂN TÍNH

  Loạt bài: TỪ DỊCH NHÂN LUẬN ĐẾN HẬU NHÂN LUẬN *** Kỳ 2: TRÍ TUỆ NHÂN TẠO. QUYỀN LỰC. NHÂN TÍNH (Võ Quốc Việt) Cuộc chạy đua trí tuệ nhân tạo cho thấy đằng sau đó cuộc chạy đua quyền lực với tham vọng bá chủ thế giới (chí ít cũng “tiểu cường”) với chiêu bài tự vệ hoặc chiêu bài bảo vệ hòa bình công lý. Các nhà khoa học và các nhà kinh doanh với tâm thế lạc quan về AI: hoặc là kẻ ấu trĩ về quyền lực hoặc là kẻ cố tình dối mình dối người buông ra những lời xảo trá. Lợi ích mà AI mang lại hầu như hiển nhiên, điều đáng nói là mang lại ích lợi cho ai? Liệu AI có thể trở thành công cụ để một số ít người “thuộc địa hóa”, “nô lệ hóa” con người ở cấp độ tiên tiến hơn hay không? Chưa ai dám trả lời chắc chắn câu hỏi này. Nhưng thay vì trả lời câu hỏi này, bạn có thể thử nghiệm lại: từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đến nay, tần suất xảy ra chiến sự, tranh chấp tăng hay giảm; mức độ quy mô phạm vi của chiến sự và tranh chấp ấy tăng hay giảm; và hiện nay số cuộc chiến đang di...

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...