Skip to main content

Trích "Từ BẾP LỬA đến ĐÊM NGỦ Ở TỈNH hay vấn đề Tiểu thuyết mới".



(Ghi vội tóm lược - Xu hướng tiểu thuyết mới được thể hiện qua Cốt truyện hay dòng chảy của sự trải ra, trôi qua - diễn trình của kinh nghiệm. Xu hướng tiểu thuyết mới được thể hiện qua tính khách quan của diễn trình kinh nghiệm, không lí giải, không biện minh, lạnh lùng, vô cảm, trống trơn và trống rỗng).
Khi được hỏi về tính chất phi lý, liệu tiểu thuyết của Alain Robbe Grillet có phải là nhằm mục đích diễn tả tính chất phi lý của cuộc đời hay không ? Nhà văn này đã dứt khoát khẳng định: “Không phải như vậy. Những gì tôi làm, theo tôi, rất giản đơn, rất ít tính cách trí thức. Tôi tự cảm thấy có vẻ “nông dân” hơn những nhà văn hiện sinh, hơn các người viết trẻ trong nhóm Tel Quel hay là với những người khác. Tôi từ chối không suy nghĩ gì về cuộc đời này dưới hình thức phân tách. Tôi chỉ nghĩ đến những chất thể. Tiểu thuyết của tôi không phải là tư tưởng. Nó là cuộc đời”[54] . Chính câu nói này của Grillet đã trả lại tính chất cố nhiên của tiểu thuyết. Đã bấy lâu, tiểu thuyết buộc phải thần phục một tư tưởng nào đó, hay có thể ví von tiểu thuyết như một dạng nhập đồng. Mà một tư tưởng hay những ý niệm hiện hữu nào đó đã dựa nhập vào văn thể tiểu thuyết và do đó tiểu thuyết buộc phải lên tiếng cho những tư tưởng ấy. Tinh xảo và khéo léo đến mức người ta tưởng rằng tiểu thuyết cố nhiên đều mang tính tư tưởng. Tư tưởng là một phần của đời sống nhưng đời sống không chỉ có tư tưởng. Ép buộc tiểu thuyết phải mang tính tư tưởng là bó hẹp cuộc đời vào các ý niệm thiên tư nào đó. Thế nên, Grillet đã trả lại bản chất cố nhiên của tiểu thuyết. Tiểu thuyết chỉ có thể và chỉ cần là cuộc đời thôi. Cuộc đời trong tính chất bản hiện vốn dĩ của nó.
Không có mô tả ảnh.
Một cuốn sách không bao giờ hoàn thành, khởi sự viết nghĩa là phải lưu đày trong cõi viết đến biệt xứ hằng hà luôn luôn. Không có điểm dừng cho sự viết. Sự chết chỉ đánh dấu sự im lặng của sự viết. Lúc bấy giờ sự viết sẽ đi vào im lặng nhưng không có nghĩa là dừng lại và hoàn tất. Thanh Tâm Tuyền ý thức một cách rõ rệt về sự thể đó khi đến với văn xuôi (Ông hay dùng từ văn chương thay cho văn xuôi). “Anh không biết, hoặc anh bị đầy viết mãi, viết dài dài theo đời quẩn quanh vài ba câu, có khi một câu viết mãi chẳng xong … Người viết nào cũng sống với một quyển sách sẽ viết, quyển sách không bao giờ viết được. Và đến cùng, thành thật đến cùng, là đối mặt với nỗi bất lực yếu nhược”[55] . Bất lực khi phát hiện ra sự viết cũng chính là khai triển của những kinh nghiệm. Mà các kinh nghiệm này nối tiếp nhau như mối nhợ rối rắm vương vít quấn chặt vào nhau. Và khi viết là bóc tách, căng trải là đụng chạm từng cái một. Nhưng viết nghĩa là bóc tách nó trong chính cách thế của nó. Thế thì lúc đó, hắn – kẻ viết, sẽ phải bóc tách nó trong muôn vàn liên đới của nó. Cuối cùng, viết là sự khải triển vô lượng giới.
“Câu chuyện dĩ nhiên cũng không thể bình thường, hay nói đúng hơn là nó rất bình thường, đến nỗi người đọc bình tĩnh nhất cũng rất có thể không tìm ra một cốt chuyện, một tình tiết sắp xếp ngăn nắp, có suy nghĩ trước. Câu chuyện bây giờ được diễn tả như một chuyển động thuần tuý tự nó đã đầy đủ rồi trong khi được tác giả đem bầy biện ra, có thể không đầu không đuôi”[56]
“Cô không phải là đàn ông. Hôm nay người ta có thể thân nhau lắm mà ngày mai đã hững hờ rời, vì nhiều nguyên cớ mà cũng có thể chẳng có nguyên cớ nào hết. Rồi người ta lại có những người thân khác, thân khác nữa, ở mỗi ngày, mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc sống”[57] . Chính vì khải triển, nên cứ khai triển thôi. Sao lại phải tìm lấy cứu cánh và duyên do cho sự khai triển đó. Câu chuyện và chính các chi tiết của câu chuyện cứ xuất hiện mà không còn cơn cớ gì. Viết chỉ để mà viết thôi. Viết không phải để mà thành rồi xong. Viết cũng như cái được viết lấy nó làm cứu cánh. Nghĩa là không còn cứu cánh nữa. Cứ thể như đi chỉ để mà đi, chứ đi không phải vì đến, đạt tới một chủ đích cụ thể nào. Thành ra vì đã phủ nhận cứu cánh sự viết, nên cái được viết cũng “cốc cần” lí do. Sao kể chuyện lại phải giải thích. “Tôi” kể thì cứ kể thôi. Cái chuyện nó vậy, “tôi” kể ra vậy. Và nó như thế tôi kể ra như thế, làm sao tôi biết như thế nào và tại làm sao nó ra như thế. Liệu tôi cố công bịa tạc nguyên do thì người đọc câu chuyện có chịu tin không. Hay chỉ là sự chán ngán hoài nghi. Nathalie Sarraute chẳng phải đã cảnh tỉnh chúng ta rằng chính người viết, người đọc nghi ngờ nhau. Còn ai tin ai đâu. Vậy nên, câu chuyện cứ việc được kể và mạnh ai nấy nắm bắt. Sao lại phải bắt tôi giải thích làm gì.
Không có mô tả ảnh.
Câu chuyện trải qua như là cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật. Đó là sự va chạm giữa các tinh cầu đơn độc. Và sự va chạm và thanh âm dội lại vào khoảng trống để chỉ còn khoảng trống trong các tương liên tạm bợ và hờ hững đó. Tôi/Tâm – Thanh; Thanh – Chu; Chu – Tôi; Tôi – Hiền; Tôi – Đại. Một hiện thực cạn cợt, hững hờ bày ra, và chỉ như thế thôi, trôi đi vô định hướng, thế giới rỗng hoẵng, không có bất cứ “cơn gió bụi” nào gợn gạo nhộn nhạo trỗi dậy cả. Chỉ là một vùng trời khoáng dã vô âm, trôi tuột đi từ vắng mặt đến vắng mặt, đến nỗi sự có mặt và vắng mặt cũng thành ra là một vậy.
+Thế giới tiểu thuyết mới trống trơn, rỗng roạc, nhìn vào thì như thế nên Jean Dutourd gọi Tiểu thuyết mới là “một tiến triển hư vô”. Như vậy sự trống rỗng của thế giới (sinh giới/đồ vật) liệu có thực sự dẫn đến hư vô, một sự vô nghĩa đơn thuần. Liệu TTM có phải là một “cú nảy”, một cách giật gân để tìm lấy một chỗ đứng trên văn đàn hay không ? Sự trống rỗng của văn thể liệu thực sự mang ý nghĩa gì và sẽ đi đến đâu.
+ Thế giới chỉ là đang xảy ra. Chứ không phải một cái gì có đầu đuôi để mà bắt đầu và kết thúc. Mọi thứ chỉ xảy ra như thể bài tiểu luận này đang xảy ra vậy. “Trong tiểu thuyết của tôi bao giờ cũng có chuyện xẩy ra cũng như trong tiểu thuyết của Robert Pinget và Claude Simon. Người ta thường không để ý đến điều này vì chúng tôi vẫn cho rằng tiểu thuyết không phải để kể một câu chuyện. Nhưng mà chuyện xảy ra thì luôn luôn vẫn có. Lần này sẽ không thiếu gì chuyện, tất nhiên, nhưng không phải kể chuyện theo lối ngày xưa nữa. Đó chính là chất liệu tiểu thuyết của tôi. Nhưng cũng khó để trình bày với cô một ý niệm tổng quát – vì có nhiều chuyện quá nên chúng chồng chất lên nhau, lẫn lộn vào nhau có khi mâu thuẫn nhau nữa”[58] .
Tại sao tiểu thuyết lại chỉ là một diễn trình, nghĩa là xảy ra luôn luôn không đứt đoạn, hầu như không thể kết thúc. Vì chính kẻ viết hắn cũng chẳng biết hắn muốn viết vì cái gì. Chỉ là cảm thấy có điều gì đó muốn nói, muốn thưa, muốn thốt, muốn chắt vọt ra khỏi đầu não và tâm thân. Chính cái ý niệm ấy xuôi hắn viết. Nghĩa là hắn cũng chưa biết hắn sẽ thực sự viết cái gì, để mà làm gi và nói lên cái gì. Tiểu thuyết mới khởi đi từ cái suy nghĩ như thế nên nó không gánh vác vào văn thể những tư tưởng lớn lao hay to tác (ông Romain Gary cho là các vấn đề hết sức ho lao, và chúng tôi thấy cũng thực sự rất tào lao). Nhưng chính trên cái ý niệm khởi xuất đó, câu chuyện đã bắt đầu, chỉ để mãi mãi bắt đầu, không bao giờ kết thức. Vì rằng, nó chẳng đi đến đâu cả. Mãi mãi là một cuộc tìm kiếm. Mà hắn – người viết – chính vì đang trên cuộc tìm kiếm nên không thể nói gì với độc giả. Chỉ đơn giản là hắn thuật lại sự tìm kiếm của hẳn, căng trải ra trên các nẻo đường truy đuổi. “Tôi như là một kỹ sư phải viết bởi vì hắn có một vài điều muốn nói. Cái gì ? Tôi đang tìm kiếm một điều gì. Không phải cho tôi mà cho mọi người. Tôi không thể nói ra điều đó, vì tôi đang tìm kiếm nó. Xin nhớ cho là điều mà người viết văn tìm kiếm và điều hắn viết ra, không phải là một”[59] . Nhân vật tôi của Bếp Lửa dường như chẳng biết và ý thức được rõ ràng mình cần làm gì. Trong các cuộc đối thoại và sự dời đi từ địa điểm này đến địa điểm khác, hắn chỉ loay hoay để nghĩ tưởng. Những suy nghĩ cũng đứt quãng, chắp nối và hầu như đi vào hố không. Dường như hắn đang chọn. Trên con đường lựa chọn, nhưng hắn hẳn vẫn chưa chọn cho đến khi kết thúc. Thế nên, chỉ có thể có một diễn trình hành động, từ chuyện này đẩy qua chuyện kia, nhưng giữa các sự việc không nhất thiết phải có một trật tự thiết định. Hay nói khác đi, từ chuyện A không nhất thiết qua chuyện B, mà có thể qua chuyện C, chuyện D, chuyện n…. nào cũng được. Cuộc sống đang bày ra như một hành trình. Chữ “hành trình” có thể hiểu như là diễn trình, chứ không phải tiến trình. Tiến trình cho thấy một sự chỉ hướng trong hành động. Các sự thể/chất thể (cách dùng từ của Grillet) không mang một hướng định nào cụ thể, kì thực là không có hướng, không có phương, không có chiều tới lui gì cả. Sự thể/chất thể bày ra muôn vàn bốn phương tám hướng thượng hạ. Chỉ là diễn trình thôi, của “Tôi” của Thu, Hạnh, Bảo, ….ai cũng được, ở đâu cũng được, nói gì cũng được.
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người và văn bản
Vậy cái diễn trình kinh nghiệm ấy đã được thể hiện ra bằng cách nào. Có lẽ cần quay lại với ý kiến của Michel Butor để bước vào vấn đề này. Dù ít dù nhiều gì thì ông cũng đã gián tiếp nhắc đến sự ảnh hưởng của hiện tượng học đối với cách mô tả của thế kỷ mới mà dấu hằn của nó trước hết có thể thấy trong thể loại tiểu thuyết. “Tiểu thuyết đã hiện ra với tôi như là giải pháp của vấn đề riêng tư kia bắt đầu từ lúc mà sự nghiên cứu các tác giả lớn của thế kỷ XIX và XX đã chứng minh cho rôi rằng trong tác phẩm của họ, họ đã áp dụng một cách tuyệt diệu câu nói này của Mallarmé: “Mỗi lần có sự cố gắng về bút pháp, tức là có làm thơ” và trong các tác phẩm đó phát sinh một sự “phản ảnh” có thể được tận dụng sâu xa hơn, dù chỉ bằng một cách nào đó trong việc miêu tả sự vật, sự miêu tả có phương pháp này dính liền vào biến chuyển nối tiếp của nền triết học hiện đại đang tìm thấy được lối diễn tả sáng suốt nhất của nó, và tìm thấy được tình trạng khẩn thiết nhất của những vấn đề của nó, nghĩa là dính liền vào hiện tượng học” [60].
(Saigon, những ngày Covid-19)
Võ Quốc Việt
(54) Phan Lạc Phúc trình bày và giới thiệu (1965), Alain Robbe Grillet và quan niệm viết tiểu thuyết (phỏng vấn của Jacqueline Piatier và Madeleine Chapsal), Tuần báo Nghệ thuật số 5 ra trong tuần 30.10-6.11/1965, Saigon, tr.4.
(55) Dẫn theo Huỳnh Phan Anh (1972), Đi tìm tác phẩm văn chương, Đồng Tháp xuất bản, Saigon, tr.167.
(56) Hoàng Ngọc Biên (1969),Ghi nhận về một chuyển biến trong văn chương Pháp, Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại, Trình Bầy, Saigon. (http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do…)
(57) Thanh Tâm Tuyền (1973), Bếp lửa, Kẻ Sĩ xuất bản, Saigon, tr.24.
(58) Phan Lạc Phúc trình bày và giới thiệu (1965), Alain Robbe Grillet và quan niệm viết tiểu thuyết (phỏng vấn của Jacqueline Piatier và Madeleine Chapsal), Tuần báo Nghệ thuật số 5 ra trong tuần 30.10-6.11/1965, Saigon, tr.4.
(59) Phan Lạc Phúc trình bày và giới thiệu (1965), Alain Robbe Grillet và quan niệm viết tiểu thuyết (phỏng vấn của Jacqueline Piatier và Madeleine Chapsal), Tuần báo Nghệ thuật số 5 ra trong tuần 30.10-6.11/1965, Saigon, tr.5.
(60) Michel Butor (1966), Ngữ thức và nhà văn (Hoàng Ngọc Biên dịch từ Pháp văn), Tuần báo Nghệ Thuật số 53 ra trong tuần 22.10-28.10/1966, Saigon, tr.12.

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...