TRA VẤN HỮU THỂ TRONG QUAN NIỆM MARTIN HEIDEGGER VÀ QUÁ TRÌNH TRA VẤN VỀ HỮU THỂ CỦA LEV TOLSTOY QUA “TỰ THÚ”
TRA VẤN HỮU THỂ TRONG QUAN NIỆM MARTIN
HEIDEGGER VÀ QUÁ TRÌNH TRA VẤN VỀ HỮU THỂ CỦA LEV TOLSTOY QUA “TỰ THÚ”
1. Tra vấn hữu thể trong quan niệm của Heidegger và
nhìn lại trường hợp Lev Tolstoy với “Tự thú”.
a. Tra vấn
là gì ?
Heidegger
phát hiện ra sự ngớ ngẩn của triết học Tây phương hàng thiên kỷ. Tất cả bắt nguồn
từ câu hỏi và cách đặt vấn đề về hữu thể. Và đối với Heidegger, đó là cái hữu
thể trong chân không, trong phòng thí nghiệm; khô cứng và chết. Sự tra vấn về hữu
thể gần như không được đặt ra, hoặc đã bị đặt ra một cách sai lệch và từ đó xây
dựng một truyền thống hữu thể học cổ điển phát triển cô lập với đời sống hiển
hiện sinh đông; và do đó hoàn toàn vô vị và vô bổ. Nhưng chúng ta cũng không thể
chối sự cần thiết của một câu hỏi hữu thể toàn diện và triệt để.
Từ đó, Heidegger
trở lại với việc đặt câu hỏi về hữu thể. Đó là một quá trình tri thức. Truy vấn
nghĩa là tìm và phải tìm thấy, nghĩa là đã có một chiều hướng từ trước khi triển
khai cuộc tìm kiếm ấy. Hướng của tra vấn xuôi về đâu ? “Tra vấn là một tìm kiếm
nhằm tri thức hiện vật trong hiện hữu và yếu tính của nó”. Vậy chúng ta tra vấn,
chúng ta đi và sống, đi về phía nào; chúng ta tìm yếu tính của hiện thể trong
hiện hữu của nó. Chúng ta không nhấc nó ra khỏi bối cảnh và đời sống của nó. Thế
mà, chúng ta cũng như rất nhiều người khác, thường bị cách li hoặc bị giam giữ
trong môi trường giáo dục niềm tin mù quáng của tôn giáo, của quy phạm xã hội,
của truyền thống, của văn hóa, của “bầy đồng loại” chung quanh. Cơ hồ, cuộc đời
ta bị bóp méo hoặc ít nhất không còn đúng là cuộc sống của ta nữa. Trong hiện
trạng như thế, chúng ta không thể lần hồi về yếu tính chính mình được nữa. Làm
sao ? Chúng ta phải tra vấn, gột rửa và rũ bỏ những vướng mắc che lấp con người
ta giữa đời sống. Đó cũng là quá trình mà Lev Tolstoy đã trải qua.
Và như đã
biết, tra vấn là tra vấn về hay “xét như là tìm kiếm tra vấn đòi hỏi một hướng
chiều đi trước từ cái được tìm kiếm”[1;8]. Thế thì dường như ý nghĩa của hữu thể
là một tiền giả định hiện hữu đối với kẻ tra vấn. Lev Tolstoy thấy được hoặc ít
nhất cảm nhận được điều gì đó lờ mờ xuất hiện trong tâm hồn. Ông biết nó có đấy,
nghĩa là những câu hỏi; biết rằng nó chắc chắn hiển hiện trong mọi ngóc ngách đời
sống. Chỉ là, nhiều khi nó ngô nghê hoặc hoàn toàn vớ vẩn, nhưng, chỉ đến khi
chúng ta chạm tay vào nó, đòi hỏi và khát khao trả lời nó; chúng ta hoàn toàn
thất bại. Vì lúc đó, ai ai cũng bị lôi tuột vào hố thẳm của chính nó – những
câu hỏi – không ai có thoát khỏi được. Chúng ta giẫy giụa, vì thực tế lúc đó,
chúng ta hoàn toàn thấy mình bất lực và vị động. Khi đứng trước những tra vấn đại
loại như: Đời bạn là gì ? Bạn là ai ? Bạn có thể làm được những gì ? Những gì
mà bạn có thể tin thật được ? Bạn có thể chắc điều gì ? Bạn là gì tiếp theo và
như thế là để làm gì ? Chúng ta hoàn toàn biết những câu hỏi đại loại thế hầu
như bị gạt hẳn những câu hỏi cơ bản. Những nhà bác học thông thái nhất có thể sẽ
quát tháo vì cho rằng bạn đặt ra những câu hỏi ngớ ngẩn hòng chọc gheo ông ta.
Và chắc chắn, tất cả dòng người đương vận chuyển giữa đời sống sẽ cho rằng bạn
phát điên vì những câu hỏi như thế. Nhưng nếu bạn không trả lời được, hoặc ít
nhất không đăt ra một cách nghiêm túc, cuộc sống trở nên lố bịch và vô nghĩa. Bạn
chỉ là một trò hề. Những tra vấn về hữu thể căn cựu như hơi thở, thế nên, nó hầu
như vô hình trước mắt người đời. Nhưng không có nghĩa rằng nó không có và không
có nghĩa. Thậm chí có một bản án “hữu thể lửng lơ treo trên đầu mỗi chúng ta.
Chỉ là chúng ta vờ đi và tự nhủ mình có được hạnh phúc và có được cuộc đời. Thực
tế, hoàn toàn không, chúng ta chưa phập phồng ngực thở hòa vào đời sống nếu
không nhìn nhận thẳng thắn những tra vấn như thế về trước hết là chính sự hiện
diện của mình. Đáp án đã ngay cạnh câu hỏi.
Sự tra vấn
nằm trong lòng cái được tra vấn hay “chúng ta không biết hữu thể có nghĩa gì.
Nhưng ngay khi chúng ta tra vấn “hữu thể là gì”, chúng ta đã ở trong sự am hiểu
nào đó về tiếng “là” mà chúng ta không thể xác định cách ý niệm tiếng “là” này
có nghĩa gì”[1;8]. Tra vấn cơ hồ là ánh sáng rọi chiếu vào màn sương lạnh lẽo,
là tiếng quạ xé toạt màn chiều nghĩa trang, lay động những xác chết rệu rã vẫn
im ỉm giữa nấm mồ cô độc. Tra vấn nghĩa là đã hiểu. Vì tra vấn là tra vấn về,
chúng ta dường như đã thấy được phương và hướng của sự vận động tư duy đó.
Nghĩa là chúng ta đã nằm trong sự hiểu biết ít nhiều về cái mà mình tra vấn.
Chúng ta chỉ thực sự tra vấn khi mình đã mơ hồ nhận thấy một đáp án hoặc ít nhất
là thấy rằng có một đáp án. Người ta chỉ tìm những gì mình tin là có. Không phải
niềm tin ấy xác tin sự chân thật của đáp án, mà chính rằng cảm giác thôi thúc
không thể chối cải được của những “chiếc rằng bé xíu” ngấu nghiến hằng ngày, của
những đòi hỏi bản thể, chính cam giác đó buộc chúng ta thú tội và thừa nhận rằng
có một khoảng trống thẳm sâu giữa tâm hồn cần được lắp đầy. Tra vấn nghĩa là đã
trả lời một nửa. Và với Lev Tolstoy tra vấn còn là lời thú tội.
b. Sự am
hiểu hữu thể từ quá trình tra vấn ?
Trước hết,
“sự am hiểu hữu thể trung bình và mơ hồ là một sự kiện”[1;9]. Có lẽ tôi chưa
lĩnh hội được hữu thể là gì, nhưng khi nảy sinh minh nhiên sự tra vấn trong tôi
về hữu thể thì sự am hiểu hữu thể gì đó trong tôi đã bắt đầu lao về hướng mà hữu
thể có thực. Tôi thực hiện một bước ngoặt chuyển biến. Tôi giống như kẻ đắm mể
nhận ra vòng vây bó buộc mình bấy lâu nay. Tôi ngoi mình lên khỏi bức màn đời ảo
thuật và lừa bịp. Lúc đó tôi mới bắt đầu thở những nhịp đầu tiên và sống thực
vào cuộc đời bản chất của mình. Đó là một sự kiện. Lev Tolstoy dường như thoát
thai khỏi chính mình. Cuộc đời mà ông từng có trước đó hoàn toàn vô nghĩa, ông
khẳng định. Chúng ta chưa vươn tới hữu thể đích thực của đời mình, nhưng khi nhận
ra nó, chúng ta thực hiện được một khả dĩ vươn đến nó. Thực tế, nếu trước đó,
tôi là tôi, thì khi có được sự am hiểu hữu thể trung bình (dẫu là một hồ), tôi
trở thành “siêu tôi”. Nhà văn Nga của chúng ta cảm thẩy ê chề cho những ngày
tháng cũ nằm mê trong danh vọng, tiền bạc và những lời tung hô bay bổng nhất; nằm
mê trong đám đông đồng nghiệp hoặc nguyền rủa nhau hoặc tán tụng nhau một cách
coc điều kiện, nằm mê trong ảo vọng tin rằng ông có thể giáo dục được xã hội.
Sách cứ in và chuyển phát đều khắp nước Nga, nhưng đó cũng chỉ là một màn hài kịch
khác – màn hài kịch lố lăng không thể chọc cười nổi một ai. Nhận ra cơn đắm mê
dằng dặc kia, Tolstoy li khai với chính mình. Sự tra vấn trước tiên là sự phủ
nhận (trong trường hợp Lev Tolstoy). Và với hướng và phương của một tra vấn hữu
thể như thế, văn sĩ vĩ đại của chúng ta “té ngửa” nhận ra mình cùng với thời đại
mình, cùng với bản hữu của mình. Đó là một sự kiện đau đớn, kinh hoàng.
Lev
Tolstoy phát hiện ra sự khốn cùng của đời sống, đồng thời, phát hiện ra một sự
thật mơ hồ còn lẩn khuất phía sau đời sống. Ông liên tiếp đặt ra những câu hỏi.
Những tra vấn căn cựu nhất ồ ạt xuất hiện trên trang viết “Tự thú”. Tuy nhiên,
người đọc có thể nhận thấy ngay rằng, nhà văn Nga đã vạch trần sự lố lịch lừa lọc
của đời sống, ông phân tích các khía cạnh nhưng hầu như chỉ có thể kết luận một
điều rằng chưa thể kết luận điều gì cả. Nhà văn chỉ mới vén bức mành che giả tạo
của việc thực hiện sống của con người, nhưng ở phía sau đó, nhà văn trước và
chúng ta sau, nhìn thấy cả trời sương vô vàn mờ ảo. Cái chân lý, cái sự thật được
chời đợi tìm thấy lại là một chân trời bất định. Chúng ta nhận ra cái yếu tính ấy
của bản nguyên “việc sống”. Sự am hiểu đó là có nhưng “sự am hiểu hữu thể này
có thể còn rất trôi nổi, lẫn lộn và di động rất gần với giới tuyến của một tri
thức ba hoa đơn thuần”[1;9]. Khi chúng ta đặt ra câu hỏi và tra vấn yếu tính của
“sống” chúng ta đứng trên lằn ranh giữa sự am hiểu thông thường (nghĩa là hiểu
một cách lừa dối, hiểu mà chẳng hiểu hoặc chưa hiểu gì cả) với sự am hiểu trung
bình về yếu tính hiện thể hay chính mình đấy. Và đó, chúng ta di dộng trên lằn
ranh đó. Sự am hiểu của chúng ta thực tế vẫn cứ nhập nhằng, chệch choạng trên bờ
vực giữa sống và chưa sống, giữa thấy và chưa thấy. Thế nên, tìm kiếm sự am hiểu
hữu thể trung bình không phải là khởi điểm của kiến giải hữu thể đích thực. Sự
am hiểu hữu thể trung bình chỉ cho chúng ta biết, soi sáng cho chúng ta về việc
có thực của sự hình thành ý nghĩa hữu thể. Chúng ta và trước đó là Lev Tolstoy
đã biết đến sự cần thiết của câu hỏi hữu thể và việc tìm kiếm nó. Nhưng cái biết
đó không giúp ích gì nhiều trong việc truy tầm đièu chúng ta mong muốn. Chúng
ta biết, nhưng không bám vào cái biết đó, mà ngược lại, tung vào nó, phá toang
nó, lăn xả vào đời sống. Trong quá trình đó, nhà văn lắng nghe sự ứng phối từ
con người mình. Lắng nghe sự vang dội rực rõ của tâm hồn mình, như thế, ông tin
và thực vậy, ông tìm phá toang bức mành che nặng trịch áp đặt lên cuộc đời. Như
vậy, ở đoạn này chúng ta đã cố gắng trình bày như thế nào là sự am hiểu hữu thể
và vai trò của nó trên con đường tra vấn hữu thể.
Thực vây,
“các lý thuyết và các ý kiến cổ truyền có thể thâm nhiễm sự am hiểu hữu thể
trung bình và mơ hồ”[1;9]. Chúng ko đáng tin cậy để xem như một nền tảng cho cuộc
tra vấn, tìm kiếm ý nghĩa hữu thể. Tra vấn hữu thể không bắt đầu với việc nêu
ra sự chiếm lấy thời gian của hiện vật. “Bước đầu tiên của triết học trong sự
am hiểu vấn đề hữu thể không nằm trong việc muthon tiva diêgeisthai, “không tường
thuật một lịch sử”, nghĩa là không xác định hiện vật như là hiện vật trong nguồn
gốc của nó nhờ một hiện vật khác làm như là hữu thể có đặc tính của một hiện vật
khả thể”[1;9-10]. Lịch sử của hiện vật không nói lên hiện vật. Sự vận động thời
gian của hiện vật cho thấy hoặc có thể nói là tạo ra lịch sử và khẳng định lịch
sử tính của nó; nhưng, lịch sử không cho phép chúng ta nhìn thấy yếu tính của
hiện vật. Heidegger cho rằng triết học không nhất thiết, không quan tâm trước hết
đến vấn đề “trương độ” của hiện vật như trường hợp Descartes. Cũng thế, việc
tìm kiếm sự vận động thời gian để truy ra xem nó đã hình thành từ cái gì và quá
trình đó như thế nào không góp phần phơi bày yếu tính của hiện vật. Vì tra vấn
hữu thể có phương và chiều khác với tìm kiếm và khám phá hiện vật một cách vật
lí. Như vậy, chúng ta rất dễ dàng lẫn lộn giữa sự am hiểu hữu thể đích thực với
một am hiểu mang tính chất tường thuật lịch sự. Vì “nó”, cái chúng ta tra vấn,
phải là “nó đang”. Nó hay hiện thể không thể được xem xét trong tình thế của một
khả thể của nó, càng không nên vương vít ân tình với nguồn cội xưa cũ nào hết,
yếu tính của hiện thể không thể được phát hiện nhờ một hiện vật nào khác. Chúng
ta phải quay về với nó để tìm nó. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự tiếp nhận phương
pháp qui nguyên (Reduktion) của E. Husserl. Để trở về yếu tính của hiện thể,
chúng ta phải không ngừng gột rửa hết thẩy các món nợ ân tình bên lề, để chỉ
nhìn thấy chính nó ở trần thế mà thôi. Tóm lại, ở đoạn này chúng tôi muốn trình
bày về sự nhầm lẫn thường xuyên giữa sự am hiểu thông thường và sự am hiểu hữu
thể đích thực. Qua đó, đoạn văn phần nào xác định phương hướng để chúng ta đến
với sự am hiểu hữu thể đích thực.
c. Chiều
hướng của tra vấn hữu thể
Tiếp
theo, chúng tôi muốn trình bày một vấn đề, về cái gọi là chiều hướng của tra vấn.
Tra vấn cơ bản là sự linh động chuyển di của tư tưởng. Bất cứ sự di động nào
cũng có hướng và chiều. “Tra vấn là tra vấn về”, điều này đã xác quyết cho
chúng ta một chiều hướng, rằng có một chiều hướng nào đó trên con đường tra vấn.
Vậy phải tra vấn cái gì hay chỗ nào mới tìm ra được ý nghĩa hữu thể ? Và
Heidegger đã trình bày: “xét như là hữu thể là cái được tra vấn về và hữu thể
là hữu thể của hiện vật, chính hiện vật trở thành cái được tra vấn của câu hỏi
hữu thể”[1;10]. Những câu hỏi hóc búa nhất thường được trả lời bằng chínhnhững
đáp án ngay tại nơi gần gũi dung dị thường tình nhất. Lev Tolstoy đặt ra hàng
oloạt nghi vấn và vạch trần bộ mặt ung thối của đời sống ở hết thảy các khía
canh. Nhưng trong sự phân tích của ông, không bât cứ một lĩnh vực nào được xem
xét một cách biệt lập với chính ông. Đó phải là cuộc đời của ông trước đã.
Không cso bất cứ khí cạnh đời sống nào tách biệt với “tôi”. Đây là một hướng và
chiều phù hợp cho việc giải đáp của hỏi về hiện tồn của “tôi”. Để trả lòi những
câu hỏi đó, không thể tìm ở đâu khắc, mà phải tìm ở ngay tôi, chính ngay “tôi”
sống động nhất có thể. Vì thế giới là thế giới bởi “tôi”, thuộc về “tôi”, nên
không thể hình dung nổi một thế giới mà trong đó không có một chất điểm “tôi” để
định vị. Vô lí. Và do vậy, để trả lời những câu hỏi về thế giới, về đời sống
thì chúng ta phải quay về với tại thể đương khi tồn hoạt. Đừng sống cuộc đời của
ai khác, mà hãy sống chính cuộc đời của mình. Và hãy thẳng thắn nhìn vào công
viẹc sống đó một cách quyết liệt; khi đó, bạn hình thành yếu tính bạn và sự hiện
tồn cảu bạn; do thế, có thể quay về và tra vấn được yếu tính của bạn là gì. Khi
bạn chưa sống thì bạn có gí đề trả lời. Bạn chỉ có vô nghĩa. Lev Tolstoy tuyên
bố rằng cuộc sống đã hoàn toàn vô nghĩa. Không sống thực thì không có bạn,
không có gì cả. Vậy thì lấy gì để trả lời cho câu hỏi hữu thể, vì cơ bản hiện vật
chưa trở thành hữu thể cơ mà. Thế thì, tìm lời giải đáp cho sự tra vấn hữu thể không
thể nào khác hơn là xoáy thẳng vào hiện vật trên đà trở thành hiện thể; nhưng
trước đó phải xem xét “nó” đã trở thành hiện thể hay chưa. Đây là chiều hướng của
tra vấn hữu thể.
Nhưng liệu
hiện vật có đánh lừa chúng ta trong cuộc tra vấn về hữu thể của nó ? Muốn tránh
được sự sai lầm đó, chúng ta phải tìm cho được hiện vật đó trong chính nó, hiện
vật là đúng hiện vật ấy thì đấy mới là hiện vật mà chúng ta cần để lần về hữu
thể của nó. “Nhưng để có thể bày tỏ một cách không sai lầm những đặc tính hữu thể
của nó, hiện vật trước tiên về phía nó phải được đạt tới như là nó trong chính
nó”[1;10]. Như thế chúng cần tháo gỡ các hệ lụy liên hệ nó với các mối tương
tác bên ngoài, dẫu rằng, chính những tương tác không ngừng nghỉ ấy góp phần
khai lộ yếu tính nó. Nhưng các liên hệ rối rắm khôn lường ấy chỉ làm mờ mắt ta.
Cuộc sống có những ảo ảnh khiến chúng ta mất tập trung vào công cuộc khai vấn hữu
thể. Thế giới và hữu thể của hiện thể xuất hiện cùng lúc. Thế giới cần cho sự
xác định quá trình tạo sinh hữu thể, nhưng cũng chính nó che đậy những yếu tính
sâu kín nhất của hiện thể.
Tiếp
theo, tìm hữu thể ở hiện vật chúng ta phát hiện ra điều gì ? rằng hiện vật là
cái thực hiện “có”, cách thái hữu của nó là cái mà chúng ta nắm bắt. Vậy nên:
“Hữu thể nằm trong hiện hữu và trong yếu tính, trong thực thể tính, trong bản
thể tính, trong tồn tại, trong giá trị, trong hiện thể, trong “có””[1;10].
Không có sự vận động “có”, không thể lay chuyển giấc mộng cội cây của hiện vật,
lay chuyển hiện vật thực hiện sự tỉnh thức hầu biến thành hiện thể. Chỉ khi nào
thực sự thực hiện cái “bước nhảy” định mệnh ấy, hay cái giây phút đầu tiên thực
hiện cái gọi là “hữu tại thế’, hiện thể với hữu thể của nó mới thực tồn lưu hoạt
cho sự tra vấn của chúng ta. Và có lẽ Lev Tolstoy đã quên mất, rằng thực hiện một
tra vấn hay đặt một câu hỏi, thì trước hết nên xem xét một câu hỏi như thế đã
có thể đặt ra được hay chưa. Có lẽ thế, trong Tự thú, chúng ta thấy, nhất là ở
phần đầu, nhà văn loạn choạng ngã từ bế tắc này đến bế tắc khác.
Vậy chúng
ta nói một tra vấn khả dĩ hiện ra cho chúng ta thực sự bắt đầu từ khi nào ? Thực
sự, khi chúng ta hỏi thì lí do cho sự xuất hiện của câu hỏi ấy cũng đã dần hình
thành. Chỉ là cách chúng ta đặt ra nó, nghĩa là hướng và chiều. Vậy chúng ta sẽ
chọn hiện vật nào cho tra vấn về hữu thể như thế ? Liệu có hiện vật nào ưu thế
hơn để có thể lấy làm hiện vật mẫu. Đó là: “Hiện vật này, mà chính chúng ta
luôn là và mà ở trong số các hiện vật khác có khả thể hữu của tra vấn, được
chúng ta gọi là hiện thể”[1;11]. Như vậy để tìm hữu thể phải “dòm” vào đúng hiện
vật như là hiện thể với sự khả hữu của nó. Đó, có lẽ, là khởi điểm cho cuộc tra
vấn này.
Một vấn đề
đặt ra, chúng ta tìm hữu thể ở hiện vật khả hữu (hiện thể), nhưng muốn tìm hiện
thể thì phải tìm ở hữu thể của nó. Điều này xuôi chúng ta đến một vòng tròn hề
đùa quanh quẩn. Và Heidegger lí giải. Đó không phải là vòng tròn bế tắc như
chúng ta nghĩ vì tìm hiện vật trong hữu thể mà hữu thể để chúng ta tìm hiện vật
thực ra chỉ là một giả thuyết; nhưng nếu nói hữu thể làm đề và hướng cho việc
tìm hiện vật chỉ là giả thuyết thì dường như nó (hữu thể) là một cái gì có sẵn.
Không ! Tìm hiện vật bằng / trong giả thuyết về hữu thể thực ra là cái hướng mà
chúng ta nhắm khi đặt câu hỏi về ý nghĩa hữu thể. Cái dự trình hữu thể được xem
như hướng cho chúng ta đi tới trên con đường lần hồi từ hiện vật về hữu thể
đích thực (hữu thể tổng quát). Chúng ta không bịa ra một chân trời để hướng về.
Chúng ta nghĩ chân trời phía đàng kia, đàng đó, đàng nọ, chúng ta đi, thế thôi.
Chúng ta cứ phải đi như là để tìm cái thực “có” của đời mình. Mà trước tiên,
chúng ta hẳn phải tin là “có” cái đã. Chúng ta cơ hồ là cái kết quả của một cái
gì đó có trước đấy và cái sắp sửa diễn ra. Chúng ta trước hết có đây.
2. Con đường tra vấn hữu thể của Lev Tolstoy qua “Tự
thú”.
a. Giai
đoạn vỡ mộng – phủ nhận
“Tôi
không thể hồi tưởng lại những năm tháng này mà không có niềm kinh hãi, sự ghê tởm,
và nỗi đau xé lòng. Tôi giết người trong chiến tranh, thách đấu súng với mục
đích giết chết đối thủ, và thua bạc; tôi đã phung phí những thành quả lao động
của những nông dân và rồi ngược đãi họ; tôi đã từng là một kẻ thông dâm và một
kẻ lừa đảo. Nối dối, trộm cắp, bừa bãi và lang chạ đủ kiểu, rượu chè, bạo động,
sát nhân – không có tội ác nào mà tôi đã không phạm phải; mặc dù thế, tôi được
ca ngợi, và những đồng nghiệp của tôi đã và vẫn đang thực sự xem tôi là một người
tương đối có đạo đức”[2;26-27]. Nhà văn phát hiện, vỡ mộng, rồi điều đó đẩy ông
đến chỗ phát hiện sự vô nghĩa của tất cả các trò lố thường ngày diễn ra từ năm
này sang năm khác, một chuỗi dài vô nghĩa và ngớ ngẩn. Sự thức tỉnh khỏi đêm
trường. Ngay lúc ấy, nhà văn ngoi lên khỏi vũng lầy và ngớp thở thật mạnh bầu
không khí mới đến đáng sợ. Nhưng ông hãy chưa thật sự thích nghi. Ông bàng
hoàng trước một chân trời khác chưa thật sự sáng rõ. Ông chỉ biết rằng có một
cái gì khác đáng kể hơn, ít nhất là cuộc sống trước đó đã bị phủ nhận một cách
phũ phàng. Ông nhận thấy sự phũ phàng và vô nghĩa của tháng ngày kéo lê đã qua,
nhưng hãy chưa hiểu rõ về mình ở phía trước. Vì ông phải về phía trước cái đã.
Một cuộc dò dẫm mới. Khác lạ và hoàn toàn vụt khỏi tầm kiểu soát. Một chuyến đi
không hứa hẹn gì cả. Ông chỉ biết có một “tôi” ở phía trước, đang chờ “tôi” của
hiện tại. Ông biết mình am hiểu, có một am hiểu. Ông chỉ có thể chắc có “của
mình” ở phía trước. Thế thôi ! Vậy là ông đi mặc dù hãy còn ngập ngừng. Sự tra
vấn luôn đi kèm một am hiểu nào đó. Sự tra vấn luôn đòi hỏi một dự trình nào
đó. Vì nó có hướng và chiều. Ở trường hợp của Lev Tolstoy, hướng và chiều của
tra vấn không hoàn toàn sáng rõ nhưng ông chắc một cái hữu thể “tôi”, một cái
“tôi thực sự” của ông đang ở phía trước. Cái phía trước đó vây lấy ông đến mức
choáng ngợp.
Khi thức
tỉnh, nhận ra, tra vấn, biết được điều đó không có nghĩa là người ta sẽ lao đi
tìm câu trả lời. Thực tế, người ta có xu hướng lẩn trốn và tự lừa mình bằng một
vài tiểu xảo nực cười. “Trong thời gian này, tôi bắt đầu viết vì hư danh, quyền
lợi riêng tư, và lòng kiêu mạn. Trong tác phẩm, tôi làm cái mà tôi đã làm trong
cuộc sống của mình. Để đạt được danh và tiền bạc – là mục đích của tôi khi tôi
viết – thì cần thiết phải giấu đi cái tốt và phô trương cái xấu; và tôi đã làm
như vậy. Lần này sang lần nọ, trong những tác phẩm của mình, tôi thường âm mưu
che giấu những khát vọng về một cái gì đó mà sẽ mang lại ý nghĩa cho đời tôi –
che giấu chúng dưới cái mặt nạ của sự thờ ơ thậm chí sự đùa cợt nữa”[2;27-28].
Trong sự am hiểu về hữu thể, hoặc nói cách khác là sự lờ mờ nhận thức và khả hữu
của bản thân, kẻ đó, đã không đủ dũng khí nắm lấy việc thực hiện yếu tính của
nó. Nó đi về hướng trở thành kẻ phải lẽ, sống phải lẽ, nghĩ phải lẽ, ăn ngủ và
chơi bời phải lẽ. Nó sợ. Lev Tolstoy đã sợ như thế. Nhưng điều đó không đủ sức kéo
nó khỏi cuộc đời. Dù gì nó cũng phải thực hiện đời sống của nó. Nó phải sống.
Và nhà văn Nga vĩ đại của chúng ta cũng phải sống. Không ai chạy thoát được đời
mình. Nghiệt ngã....Đó là điều đầu tiên mà chúng ta có thể thấy được ở cuộc sống
hằng ngày. Nhà văn không ngừng lùi mình lại, vọng lại tâm hồn ông, vọng lại
chính những việc mình đã làm. Đó là cái phản tư ý thức mà Kant đã nói. Vừa là
mình vừa không phải mình, một “mình” khác, có như thế con người mới có thể tra
vấn. Khi Tolstoy viết “tự thú”, dường như, ông đã là một người khác, một “Lev
Tolstoy” khác. Khác với chính mình của một “mình nào khác”. Sự tách biệt, sự lột
xác, thoát khỏi lốp kẻ khác, làm chính mình để có thể nhìn thấy mình. Khi nhà
văn viết những dòng trên, đó là khi ông loay hoat lột bỏ xác vỏ bao bọc bấy
lâu. Và”thoát xác” cũng là một biểu hiện của tra vấn. Nó không thể tra vấn về
nó, nếu nó vẫn là nó. Nó cứ phải sống và không ngừng canh chừng nó, quan sát
đó. Nghĩa là có một nó khác hiện hữu song hành cùng với nó. Như thế, nó mới có
thể tra vấn về cái “hiện thể” chính nó một cách triệt để. Tra vấn là tra vấn
triệt để, chứ không thể nửa vời. Nếu tra vấn nửa vời, công việc ấy chỉ là một
trò hề khác. Và thông thường người ta chỉ chuyển đổi từ trò hề này sang trò hề
khác. Nhưng với Lev Tolstoy, chúng ta thấy nỗi đớn đau mỗi khi ông bóc tách từng
mảnh da thịt của tâm hồn. Hỏi và đau đáu không ngừng, vì thế, chúng ta nhìn thấy
Lev Tolstoy quằn quại lõa thể giữa niềm thống thiết xương tủy của những ác mộng
hãi hùng khi ông nhìn lại chính mình. Không có bi kịch nào lớn hơn khi ai đó tự
phát hiện ra chính mình. Thấy được chính mình là một ân huệ kinh hoàng.
Thực vậy,
nhà văn tra vấn để rồi phát hiện ra sự ngớ ngẩn bấy lâu nay. Người ta vỡ mộng, và
khốn nạn nhất, là vỡ mộng với chính mình. Tất cả những gì đã làm được, chúng ta
trao cho nó niềm tin vững chãi về sự đúng đắn, về giá trị, về tầm quan trọng và
khả năng tác động - ảnh hưởng của nó đến xã hội; chúng ta tin những gì mình làm
có thể có như thế đấy; nhưng rốt cuộc, tất cả chỉ là mớ bọt khí văng tóe tứ
tung từ cửa miệng và ngòi bút. Chỉ có thế, sự thất bại toàn diện của đời sống
và của bản thân. Lev Tolstoy đã rơi vào ác mộng như thế, và kinh khủng hơn, cơn
ác mộng có thực. Nó chồm lấy và nuốt chửng ông cùng với đồng loại. Chỉ có một
khác biệt, đồng loại không nhận ra ác mộng vô nghĩa xóa nhòa mình, còn Lev, ông
nhận ra bi kịch đó, hoàn toàn vỡ mộng vì nó. Người ta đau khi chính họ có khả
năng nhận ra niềm đau. Và “Sứ mệnh của chúng tôi là giáo dục những con người. Để
tránh câu hỏi hiển nhiên, “Tôi biết cái gì và tôi có thể dạy cái gì ?”, lý thuyết
đó giải thích rằng không cần biết cái gì cả, và nhà nghệ sĩ và nhà thơ dạy một
cách vô thức. Bởi vì tôi được xem là một nghệ sĩ và một nhà thơ đáng kể
(remarkable), đương nhiên là tôi ôm choàng (embrace) lấy cái lý thuyết này. Với
tư cách là một nghệ sĩ và nhà thơ, tôi viết và dạy mà chính tôi không biết tôi
đang dạy cái gì”. [2;29]. Thậm chí “tôi” không chắc đã có tôi thực lưu tồn hoạt
hay chưa ? Và trả lời những câu hỏi ngớ ngẩn như thế lại là điều khó khăn nhất
của đời người.
Vậy cơn
ác mộng kinh hoàng đó đã bắt đầu như thế nào ? Những vinh quang thần thánh đã bị
ông rũ bỏ như thế nào ? “Điều đầu tiên dẫn tôi đến sự nghi ngờ là: tôi bắt dầu
nhận thấy rằng chính những giáo sĩ của đức tin này cũng không đồng ý với nhau”[2;30].
Tất cả những kẻ đang rao giảng sự sống và giảng dạy về cuộc đời, tất cả, chỉ
đang múa may quay cuồng trong lớp diễn lố bịch của chính mình. Họ phủ nhận nhau
để khẳng định mình. Nhà văn thiên tài của chúng ta phát hiện ra màn hài kịch đẫm
lệ ấy. “Tất cả những giáo sĩ rao giảng đức tin này (this faith) là những kẻ vô
đạo đức, và trong phần lớn trường hợp, họ thiếu nhân cách, đê tiện và không xứng
đáng”[2;31]. Chúng ta cứ tin mình đi tìm và tìm được mình trong những lớp diễn
đó. Và kẻ thấy được điều đó cũng phải cần một sức mạnh ghê gớm mới có thể bứt
mình khỏi quỹ đạo nghiệt ngã của cuộc đời bong bóng. Nó không thực. Lev Tolstoy
đã thấy những kẻ tin mình sống và ngày càng trở nên vô luân hơn, trong đó,
Tolstoy nhìn thấy cả chính ông. Không có gì cay đắng hơn khi ai đó thấy mình khốn
nạn và ngu xuẩn.
Dấu ấn thứ
hai khẳng định “kiện tính” của khả hữu của “nó”, đó là sự ra đi của núm ruột cận
kề. Cái gì gắn bó với tâm hồn chúng ta, cái đó chẳng khác nào hồi chuông gióng
lên giữa đêm tối. Cái chết, chính nó khẳng định sự có mặt của hư vô, của tuyệt
diệt, của vô nghĩa, của sự chẳng có gì cả. Với Tolstoy, ông nhìn thấy “anh chịu
khổ sở trong hơn một năm và chết một cái chết đau đớn mà chưa từng hiểu tại sao
anh sống và ít hiểu tại sao anh đang hấp hối”[2;39]. Nhà văn phát hiện, hóa ra,
chúng ta cũng chỉ là một cái gì đó bị giật dây. Thế thì đó là cái gì, thế lực
nào có quyền năng đến mức có thể giật dây điều khiển một sinh mạng, một cuộc đời.
Và liệu thế lực đó có quyền làm như vậy hay không ? Sư tra vấn đã khởi sự chính
là cái chết của người anh. Ông phát hiện cuộc đời dối trá mà đồng loại đương có
và đương sống qua sự ra đi của ông anh. Trong đó, sự phá sản / vỡ mộng trước hết
đã ngấm ngầm bắt đầu (dù chưa rõ ràng) từ lúc “tôi được rửa tội và giáo dục
theo đức tin Kytô giáo Chính Thống. Ngay từ tấm bé và suốt thời thiếu niên và
thanh niên, tôi đã được rèn luyện theo tín ngưỡng của Giáo Hội Chính Thống.
Nhưng ở tuổi 18, khi tôi rời bỏ trường đại học vào năm thứ hai, tôi đã mất hết
niềm tin vào những gì mà tôi đã được dạy”[2;15]. Ông co giật như thế cá trong lồng
chậu vô tình rơi đổ rồi vỡ tan; cá giẫy chết trên bãi nước lênh láng. Đứng trên
bờ vực hư vô, hỏi – tra vấn chẳng khác nào nỗ lực tìm kiếm lối thoát lần sau
chót. Và để thoát nghĩa là phải phủ nhận, phủ nhận ngay cả chính mình.
b. Giai
đoạn trở về - phân tích và tìm kiếm
Sự hình
thành của nhà ngục tâm hồn và hệ lụy của nó, hay sự đánh mất đời sống thực,
đánh mất kiếp người thực thụ mà chỉ sống như một tập quán bầy đàn. Sống, là bị
sống thay bởi tập thể, không có bất cứ chỗ đứng nào về giá trị và nhân vị; kẻ
đó và thế giới của hắn vẫn chưa bắt đầu. Thế nên chúng ta không thể đặt câu hỏi
“hắn là gì, hắn đang ở đâu trong con đường hiện hữu của hắn ?”, vì thực sự,
chưa có hắn. Đó là bi kịch của những con cá kiểng, sống quanh quẩn với niềm tin
non nớt, hời hợt, ngô nghê, ngớ ngẩn về cuộc đời và ngay chính đời nó. Lev
Tolstoy đã từng là chú cá kiểng như thế. Và nó không có con đường nào khác là
phải đi tìm, và nó chỉ có thể tìm khi bắt đầu hỏi. Lúc đó, nó phải hỏi những
câu hỏi căn cựu nhất để truy hồi về nguyên ủy sâu kín nhất của đời sống. Khi ấy,
nó tại vị, chính vị tại đó, và bắt đầu rà soát, tìm và cố công nhặt nhạnh những
gì còn sót lại của đống phế tích dở dàng và mơ hồ. “Tôi chỉ đơn giản tin cậy
vào những gì mà tôi đã được dạy và vào những điều mà những bậc đàn anh của tôi
đã tin tưởng, gắn bó một cách trung thành. Nhưng ngay cả sự tin cậy này cũng rất
bấp bênh”[2;16]. Nhà văn rà soát lại niềm tin, cái vốn dĩ tự nó và không cần có
nguyên do, nhưng ngay cả cái vô điều kiện như thế cũng không đủ đảm bảo cho việc
tránh khỏi sự phá sản hoàn toàn. Ông trở về, phân tích, rà soát và kiểm chứng lại
độ tin cậy của tất cả các khía cạnh đời sống; để tìm cái gì đó chưa rõ ràng.
Từ việc tra
vấn về khả hữu / hiện hữu của hiện vật đến sự phá sản của niềm tin, cơn bấn loạn
của luân lí và mục rã các giá trị, đó là những gì “đang diễn ra” trong Tự thú.
Chúng tôi muốn nhắc lại rằng, Họ - Lev Tolstoy và đồng loại - sống như thể chưa
thực sự sống. Khi Tolstoy phát hiện được điều này, ông tự tách biệt mình khỏi đồng
loại và bị đẩy đến con đường tra vấn về hữu thể không thể thoái lui: “Sự cắt đứt
với đức tin xảy ra trong tôi như nó đã xảy ra và vẫn còn xảy ra giữa những người
thuộc loại (type) chúng tôi, xét về mặt xã hội và văn hóa. Theo như tôi thấy,
thì trong phần lớn trường hợp, nó xảy ra như vầy: người ta sống như mọi người sống,
nhưng tất cả họ đều sống theo những nguyên tắc mà không những không dính líu gì
tới những lời dạy của đức tin mà phần lớn là ngược lại với những lời dạy đó. Những
lời dạy của đức tin không có chỗ trong cuộc sống và không bao giờ được thể hiện
trong những mối quan hệ giữa con người; chúng không hề đóng vai trò nào trong
cuộc sống”[2;18]. Vậy ra, người ta vốn dĩ lao theo những gì không thực sự liên
quan đến đời sống. Đa phần lẩn tránh hoặc không nhân ra có một đời sống đích thực
khả hữu; nhưng chúng ta sống ở một chân trời khác. Ở đó không có cái gọi là sống.
Thực vậy, sự phá sản niềm tin đẩy con người đến chỗ tra vẫn về mình, về ý nghĩa
cuộc đời, đẩy con người đến chỗ phải nghĩ đến những giá trị phi thời. Một bầy
người vỡ mộng. Vỡ mộng và phát hiện ra họ sống là sống giữa đức tin , mà vốn dĩ
hoàn toàn trống rỗng. Thế thì họ hoàn toàn chưa thực sống. Thế thì họ ở đâu ? Họ
chưa có mặt. Họ chỉ là những thay ma nhợt nhạt chờ mong được cứu rỗi. Họ bi kịch
và bi kịch lớn nhất là tình thương vờ vĩnh và ám ảnh tội lỗi về việc dám bứt khỏi
guồng quay tập thể của niềm tin. Thất ngớ ngẩn ! Họ hoàn toàn bi kịch.
Dung dưỡng
tâm hồn bằng niềm tin băng hoại, họ không thể không bị bóp méo cả nhân tính. Đa
phần những kẻ to mồm huênh hoang về niềm tin của hắn đối với tôn giáo, đa phần
những kẻ đó, chúng nó hoàn toàn vô luân, thối nát và bẩn thỉu. “Rồi thì như bây
giờ, những người mà công khai tự xưng là tín đồ của đức tin Chính Thống, thì phần
lớn họ đều là những kẻ cố chấp, hẹp hòi, tàn nhẫn và vô đạo, bị gói kín trong
cái tự cao tự đại của chính mình. Trái lại, trí tuệ, sự chính trực, tính thẳng
thắn, tính hiền lành đôn hậu, và tính đạo đức, thì phần lớn được tìm thấy ở những
người tự xưng là những kẻ vô-tin (disbelievers)”[2;19]. Nếu người ta không sống,
người ta không thể thực hiện mình. Ngay cả điều giản đơn như thế , lũ đồng loại
của chúng ta cũng không sao nhận ra được. Phần lớn chúng chạy trốn và co cụm với
nhau với bệ đỡ lòng tin do chính chúng thông đồng với nhau tạo ra. Niềm tin
cũng là một loại khế ước, chúng ta nhận ra qua những bằng chứng sắc nhọn và đớn
đau được Tolstoy trưng ra không thương tiếc và đến mức phũ phàng. Vì đời sống
hoàn toàn vô nghĩa, Tolstoy nhận thấy, đồng loại quanh ông thông đồng với nhau;
họ trao nhau niềm tin của mình và nhận lại một cái y hệt từ đối phương, thế rồi,
họ chấp nhận và tin vào sự thực có của niềm tin ấy. Trẻ con chơi nhà chòi với sự
vô tư đáng yêu phi thường nhưng người lớn cũng đang chơi nhà chòi giữa đờm giãi
nhớp nhúa của chính mình. Bọn người sống bằng niềm tin giả tạo là những kẻ từ
chối thực hiện cuộc đời. Làm sao mà bọn chúng có thể hiểu khí trời ngọt ngào
như thế nào, vì chúng chỉ ru rú trong xó xỉnh chật chội của quy phạm và định chế
xã hội khô cứng, vô vị, nhạt nhẽo và cứng đọng. Không thể, chúng không thể chạm
tay tới đời sống. Chúng không hề có yếu tính, thậm chí chưa có mặt chính chúng
nữa.
Ngoài ra,
con người ta dễ bị tiêm nhiễm bởi những nỗi ma ám phủ lên người mình. Đòn roi của
đời sống – hay những quan niệm công cộng – hằn dấu vết bẩn thỉu gớm ghê lên từng
mảng da thịt. “Trước khi tôi kịp ngoái nhìn là đằng sau (turn around) thì những
quan niệm của họ về cuộc sống – riêng cho phe nhóm của họ - đã trở thành những
quan điểm của chính tôi”[2;28]. Lao mình về phía đời sống, Lev Tolstoy dường
như đã đánh mất những khao khát chân thực của tâm hồn. Ông rơi vào từ trường của
đám đông. Sự vong thân, thực sự, phủ chụp lên yếu tính. Ở đây, tra vấn chính là
tự vấn. Tra vấn là hồi cố về phía thượng nguồn của dòng đời, của giai đoạn tiền-vong-thân.
Đó là việc quá trình phản-vong-thân. Đánh mất, tự hỏi và đi tìm, nhưng trước hết,
Lev Tolstoy biết mình đã mất. Nhà văn bị chính mình đánh mất và bị đồng loại
đánh cắp.
Thực vậy,
tra vấn là đòn giáng làm bong tróc đức tin. Thế thì đó là cái đức tin nào ? Tra
vấn xua đi niềm tin nào trong đời sống ? “Bất cứ cái gì mà tôi đang dạy thuở ấy
phải là rất tốt. Niềm tin vào kiến thức, thi ca, và sự tiến hóa của sự sống quả
thật là một đức tin, và tôi là một trong những giáo sĩ của nó. Là một trong những
giáo sĩ của nó – đây là một điều rất có lợi lộc và rất thú vị. Tôi sống một thời
gian khá dài trong đức tin này, mà không hề nghi ngờ cái chân lý của nó”[2;29].
Nhà văn phát hiện ra, khi ông lao theo những xu thế phải lẽ của đời sống, của cộng
động, ông nhận được khối lợi ích ngọt ngào từ đám đông. Cứ thể như, ông là một
người được vận số lựa chọn, dù không hiểu tại sao một kẻ khốn nạn và đầy rẫy tội
lỗi như ông lại ở ngay cái vị thế giáo sĩ đương thời béo bở ấy. Trở về để nhận
ra sự lố bịch của chính mình, ông mổ xẻ tất cả vốn dĩ gắn liền với đức tin và
hâu như được xem là tiên đề, nghĩa là không cần phải minh xác gì nữa. Những thứ
đó: kiến thức, thi ca, sự tiến hóa của sự sống..., đều phá sản và là màn hài kịch
do đồng loại rắp tâm dàn dựng. Song song với quá trình tra vấn – phân tích là sự
tìm kiếm. Khi tra vấn, anh hỏi; hỏi là yêu cầu một trả lời; rà soát trước hết để
tìm lời đáp; và nhất định, nhà văn của chúng ta có chờ đợi một lời đáp; nhưng lời
đáp mà ông nhận được, ông tìm thấy là: không có lời đáp nào cả. Cứ sống đi, cứ
lao vào chính mình đi, cứ tìm lấy chính mình đi, cứ tạc lấy chính mình đi, ...bấy
nhiêu đó đã là lời đáp rồi. Lịch sử tính chỉ là một bức màn khác che đi yếu
tính mà thôi. Khi tất cả đã rơi vào từ trường lịch sử tính thì lúc đó, những thứ
ấy không góp phần cho ta thấy yếu tính của hiện thể nữa. Lịch sử tính chỉ là một
trong số những cái cần rũ bỏ. Thế mà, Lev Tolstoy lại không ngừng lao mình vào
đó, vừa truy hỏi và tự đâm vào mình từ nhát dao lạnh cóng.
Và “Chỉ
thỉnh thoảng, những cảm xúc (ĐTN cho in đậm) của tôi, chứ không phải lý trí
(ĐTN cho in đậm) của tôi, phản kháng lại cái sự mê tín này, sự mê tín phổ biến
của thời đại, mà nhờ nó con người tự che giấu sự dốt nát của chính bản thân về
cuộc sống – để khỏi nhìn thấy nó”[2;37]. Lại thêm một phát hiện, nhà văn nhìn
thấy lũ đồng loại yếu hèn và bỉ ổi, trong đó có chính ông. Theo đó, chỉ với cảm xúc trinh nguyên của lần gặp thứ nhất, bóng
hình giai nhân mới xuất hiện nguyên vẹn nhất vốn dĩ. Chỉ có thể như thế, làm
sao một lý trí bệnh hoạn và đe hèn có thể giúp chính ta truy về cội rễ tâm
tính. Lí trí đại diện cho những thế lực phản động, trì kéo chân tính đương vượt
thoát khỏi vòng vây nô lệ của đời sống. Vậy mà chúng ta vẫn luôn tin lý trí và
dìm chết tâm hồn mình một cách tàn nhẫn.
Để có thể
nhận ra đã là một bước ngoặt, nhưng, để có thể thẳng thắn nhìn nhận nó còn đơn
đau hơn. Tolstoy rơi vào trạng thái hư vô tuyệt đối. “Thoạt tiên, tôi bắt đầu
có những khoảnh khắc bối rối ngỡ ngàng (bewilderment), khi đời tôi đi tới một sự
bế tắc, như thể là tôi không biết sống ra sao hay phải làm cái gì; tôi thường
đánh mất sự nhanh trí (presence of mind) và rơi vào trong một trạng thái trầm cảm,
chán chường. Nhưng trạng thái này qua đi, và tôi tiếp tực sống như trước đây. Rồi
những khoảnh khắc ngỡ ngàng bối rối hoang mang lại tái xuất hiện thường xuyên
hơn, và chúng luôn có cùng một hình thức. Bất cứ khi nào cuộc đời tôi đi tới chỗ
bế tắc, những câu hỏi thường nổi lên: “Tại sao? Và cái gì tiếp theo?”[2;44]. “Chính
đây là cái đã xảy ra cho tôi. Tôi nhận thức rằng đây không phải là một cơn bệnh
tình cờ thoáng qua, mà là một cái gì đó rất nghiêm trọng, và rằng, nếu những
câu hỏi tương tự tiếp tục tái diễn, tôi sẽ phải trả lời chúng. Và tôi cố trả lời
chúng. Những câu hỏi này có vẻ như là những câu hỏi ngờ ngệch (foolish), giản
đơn và trẻ con. Nhưng khi tôi đặt hai bàn tay lên chúng và cố giải đáp chúng,
tôi liền xác tin ngay rằng, trước tiên, chúng không phải là những câu hỏi ngờ
ngệch và trẻ con, mà chúng là những câu hỏi sâu xa và cốt tủy nhất trong đời,
và, thứ hai, cho dẫu tôi có suy ngẫm về chúng nhiều thế nào đi nữa, tôi cũng
không có cách gì giải đáp chúng”[2;46]. Và một điều xác quyết nữa: chúng là những
câu hỏi không thể giải đáp mà chỉ có thể thực hiện.
3. Kết luận
Sự cần
thiết của câu hỏi về hữu thể thật sự khiến chúng ta phải băn khoăn về nó. Nhưng
trên thực tế, một câu hỏi căn cựu như vậy đã bị tránh né và cố tình “bị” đặt ra
một cách sai lệch. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể hiểu tất cả những ai đã
thông đồng cho một cục diện như thế của triết học Tây phương hàng thiên kỷ. Bởi,
như Lev Tolstoy đã nhận xét, những câu hỏi như thế có vẻ ngờ nghệch và ấu trĩ,
thậm chí vô ích; nhưng mỗi chi đụng chạm vào, người ta mới ngã ngửa. Hóa ra, đó
lại là những câu hỏi thâm viễn nhất, hóc hiểm nhất, đớn đau nhất. Tuy nhiên, để
trả lời, chúng ta hãy cứ sống trước đã. Và sống đã là sự trả lời cho những câu
hỏi như thế.
M.
Heidegger đã “triết học hóa” những gì được Tolstoy thực hiện bằng ngôn từ văn
chương đớn đau của ông. Đọc Hữu thể và thời gian, chúng ta có thể bắt gặp những
tra vấn không ngừng nghỉ đã từng xuất hiện trong tâm hồn L. Tolstoy. Và thông
qua tác phẩm Tự thú, chúng ta cơ hồ nhận ra lí do vì sao một bá tước đầy danh vọng,
giàu có, vợ con đầm ấm và được yêu quý bởi tất cả mọi người lại trốn chạy và ra
đi mãi mãi như thế. Có lẽ chính những câu hỏi buộc ông đi và phải tìm cho được
lời giải đáp. Đó là cái mãnh lực khổng lồ của nhu cầu được sống một cách chân
thực. Nếu Tolstoy hài lòng và hạnh phúc, như thế, ông cam chịu yên phận. Yên phận
trở thành một trong số những bóng ma nhợt nhạt quanh quất xó lầy hẻm chật. Với
Tự thú, tất cả những góc tối sâu kín nhất trong tâm hồn nàh văn vĩ đại của
chúng ta đều hiện ra một cách trắng trợn. Từ mơ hồ nhận ra, đến lúc phải đối mặt
trực diện, đó là một quá trình vận động và cải biến không ngừng. Song song, đó
là quá trình phê bình, phủ nhận. Và chỉ có sự phủ nhận mới là bằng chứng cho
nhu cầu tái thiết cuộc đời. Gột rửa tội lỗi và căm thù chính bản thân là một
thái độ dứt khoát cần thiết cho sự đoạn tuyệt với kiếp người vô nghĩa. Đáp án
cuối cùng cho việc trở về rà soát và tái thiết tâm hồn chính là: tất cả đều vô
nghĩa. Tác giả Tự thú đi từ vỡ mộng đến chỗ phân tích và lần hồi buộc phải chấp
nhận cái đáp án chân thực và khốn nạn ấy.
Nhưng
cũng chính những con chữ thống thiết này gây dậy sự ảnh hưởng và lòng quan tâm
đối với câu hỏi hữu thể. Gordon E. Bigelow: “Một số nhà văn, đặc biệt là
Tolstoy và Dostoievski, thường xuyên được trích dẫn vì các quan điểm và đề tài
hiện sinh nổi bật trong các sáng tác của họ”[1].
Cùng với Dostoievski và Nietzsche, Tolstoy thật sự đặt nền tảng cho những vấn đề
hiện sinh mà sau này được tiếp tục bởi rất nhiều triết gia lỗi lạc của thế kỷ
XX. Tầm vóc của Tự thú thật sự lớn lao hơn chúng ta vẫn nghĩ.
Tài liệu
tham khảo
1. Martin
Heidegger (1973), Hữu thể và thời gian I,
Quê hương, Saigòn.
2. Lev
Tolstoy (2007), Tự thú (bản dịch Đỗ
Tư Nghĩa), Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn.
3. Lê
Thành Trị (1974), Hiện tượng luận về hiện
sinh, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh Niên – Trung tâm học liệu xuất bản,
Saigòn.
[1] http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/chu-nghia-hien-sinh/doi-net-ve-chu-nghia-hien-sinh_15.html
Comments
Post a Comment