TÁC GIẢ VĂN HỌC LÀ AI ?
(VÀI SUY NGHĨ
VỀ TÁC GIẢ VĂN HỌC)
[Võ Quốc Việt - Khol V., 2013]
TÓM TẮT
Tác giả là một trong
những phạm trù quan trọng trong hệ thống lý luận văn học. Do đó, chúng tôi
hướng đến việc phác thảo những quan điểm mới về vấn đề tác giả văn học. Và
chúng tôi cố gắng đào sâu từng khía cạnh vấn đề xa hơn những lý thuyết trước
đó. Bài luận này cũng muốn lí giải phạm trù “tác giả” theo hướng bản thể luận.
Và chúng tôi cố phác thảo lại vấn đề, cho nên bài luận được trình bày theo
hướng gợi mở.
Từ khóa: Tác giả, lý luận
văn học.
1 – Nhìn tác giả văn học
như một “hữu thể tại thế đương khi tồn hoạt”[1] ?
2 – Tác giả đi từ khả
nhân vị đến chỗ siêu ý thể ?
3 – Cái chết và “sự linh
thiêng” của tác giả ?
4 - Tác giả đã làm gì với
thế giới ?
1. Michel Foucault: “văn
học hoạt động như một trò chơi luôn đi quá các quy tắc đã được đặt ra và tiếp
tục chơi ở ngoài phạm vi đã xác định”[2].
Tác giả văn học luôn luôn là kẻ phá toan mọi cánh cửa, đạp đổ những định đề thủ
cựu. Trước hết vì tác giả là kẻ không tuân thủ chính bản thân mình, không hài
lòng (luôn luôn thế) với chính bản thân. Cho nên cái biểu đạt cho cái được biểu
đạt hoặc bị gán cho là cái được biểu đạt, thậm chí tất cả mối quan hệ “chính
chủ” hay “không chính chủ” ấy cũng không có nhiều ý nghĩa với tác giả. Đơn
thuần là họ muốn trở về cái thế giới vô minh vô giới mà họ xuất phát, ý thức
con người và đúng hơn là ý thức người như một hữu thể hiện hữu[3],
nghĩa là người viết ấy phải luôn luôn là một khả thể[4] ngay
tại cuộc đời mình. Họ có thế giới từ chỗ không mà thành. Rồi vì thế, bọn họ bị
kết án phải làm một thế giới, một thế giới của chính mình (thuộc về mình bởi vì
người sống thực trong thế giới ấy chứ không phải người tạo ra thế giới ấy và
người có quyền), người mở rộng biên độ của thế giới thực, phải là mở rộng, vì
nếu thế giới tác phẩm trùng lắp với thế giới thực đang có, chúng ta không thể
chấp nhận con người đang viết kia được, vì có nó hay không có nó… không quan
trọng nữa. Hẳn thế, rồi họ cứ vậy, phá bỏ hết và xây dựng lại. Trong tay họ vừa
có búa rìu, lưỡi mác kết liễu vật thể và ngôn ngữ như là siêu ngôn ngữ (theo sự
phân biệt của R. Barthes). Đặc biệt với thơ, bọn họ xem ngôn ngữ không như
phương tiện, nó là một chất thể [5].
Trong tay họ còn có hồ bột và kim chỉ, nghĩa là họ dựng xây từ đống đổ nát
thường nhật. Và sau cùng bọn họ bị kết án kì hoặc. Họ dựng xây thế giới sau khi
tàn phá nó. Chung quy, tác giả là kẻ ác ma với chất thể, nghĩa là cái gì đứng
sau ngôn ngữ kìa, và nó mang sự khả thi của một thế giới. Cái tác giả tạo ra là
một thế giới, một thế giới lấy nó làm cứu cánh và chỉnh thể, toàn thể trong mối
liên hệ “của riêng sở hữu – của xa lạ ngoài”. Tất cả có thể liên kết với nó,
thừa nhận nó nhưng không thể đạp đổ nó. Tác giả đã tạo ra một thế giới siêu
việt.
2. Nhưng trong suốt quá
trình sáng tạo ấy, tác giả đã không ngừng lấy mình làm chất liệu, tác giả vừa
là khả thể vừa là đối thể cho chính mính. Tác giả luôn tìm cách phá bỏ, đạp đổ
mình. Các tuyến nhân vật, hay các giọng trong tác phẩm đa thanh của Dostoievsky
mà Bakhtin nói khá nhiều chính là sự phủ định và tự huỷ của tác giả. Cho đến
khi tác phẩm hình thành, tác giả tự xoá hết dấu vết dao keo, xóa hết từng bước
chân của mình trên mảnh đất vừa hình thành. Người ta chỉ còn có thể nhìn thấy
tác giả như một thế giới. Tác giả trở thành tính thế giới cho hệ thống hữu thể
của chất điểm tạo dựng được. Cho nên, khá nhiều người bây giờ nói rằng tác giả
đã chết, có thể nói là chết, nhưng cái chết ấy giống như Phù Đổng bay về trời.
Nghĩa là tác giả chết, cái chết của siêu thiêng, tan chảy hài hoà, hậu thuẫn
cho tất cả chất thể định vị trên mảnh đất tác phẩm. Nói như những tu sĩ Phật
giáo, tác giả “tịch” rồi, trở về Niết Bàn. Không mất đi, chỉ là tan chảy vào
đại thể, chính là nẻo đạo, đánh mất mình nhưng lại có được mình đầy đủ nhất.
Tác giả trở thành kẻ đắc đạo, trở về với tịch hữu vô biên, không còn nhìn thấy tác
giả nhưng không đâu là không nhìn thấy. Vì cái “ý”, “khả” mang tác giả tính từ
chất thể liệu cơ chuyển biến đã trở thành siêu ý thức tan chảy vào tổng hoà tác
phẩm. Ai đó nói: “Bản tính con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Đấy
là một phát biểu mầu nhiệm. Con người - ở đây là tác giả, chia sớt mình hết
thảy cho tất cả các mối quan hệ trong tác phẩm, chia đi tính hữu thể, cái ý
sống vĩnh cửu ấy vào từng chất thể, cho nó sống, gọi là cho đi tất cả, cho đến
tất cả nhưng không màng, không suy nghĩ, không đắn đo, dự toán, cho đi vô vàn
mà không bao giờ hết, đó là cùng một dạng với bản thể. Tác giả như là kẻ đạt
đạo, cho tất cả để trở thành tất cả. Tác giả trở nên linh thiêng, vì tác giả
quyết định chết. “Trong văn học, không còn có sự thể hiện hoặc ca ngợi hành
động viết; nó không gắn một đề tài vào ngôn ngữ; vấn đề là tạo ra một không
gian mà trong đó người viết luôn luôn biến mất”[6].
Tác giả tan chảy vào toàn thể thế giới, là con đường từ khả nhân vị đến siêu ý
thể[7].
3. Foucault đặt ra vấn đề
về cái chết và sự viết. Nghĩa là văn học xưa nay, với tác giả là kẻ muốn bất
tử, người cố gắng làm nên một thế giới với tất cả cái hữu thể tự lấy nó làm
“định vị” và là “có thể” vô tận cho người đọc. Vậy là như một khả thể cho thế
giới thực, sự nối dài của thế giới thực, tác giả được bất tử. Họ sống nhờ vào
mớ chữ nghĩa ngồn ngộn trên giấy. Họ luôn luôn thế, trốn khỏi cái chết, người
mang lấy ước vọng Tần đế ngay tại chính thế giới của mình. Nhưng Foucault lại
nghĩ rằng tác giả ngày càng hướng đến cái chết. “Tác phẩm trước đây có nhiệm vụ
mang lại sự bất tử giờ đây lại nhận được quyền sát nhân, quyền xoá bỏ tác giả”[8].
Ai cũng nói tác giả đã chết ! Trước hết, vì bọn họ (tác giả) cố đánh lừa người
đọc khỏi chú ý đến sự hiện diện của mình (như Alain Robbe Grillet chẳng hạn),
làm người đọc tin là tác giả vắng mặt. Làm sao hắn thực hiện được điều đó, vì
người viết đã xoá bỏ cái tôi chăng ? Không hẳn, đúng hơn là nung chảy cái tôi –
chia tách từng cá tính trong cái tôi và cho nó lẩn hút vào từng chất thể định
vị ngay ở tác phẩm. Đó là một quá trình đi từ nội hữu đến ngoại hữu rồi vươn
đến “tất cả”, vươn đến “một”, đến “cái tất cả có”. Tác giả chết để hiển linh.
Và sau nữa, cái chết của tác gia như cái chết của thượng đế mà Nietzsche đã bàn
rất lâu. Đó là cuộc soán ngôi Thượng Đế, con người hùng cường đã có quyền cho
thế giới xung quanh “cái ý nghĩa”. Đó chẳng qua là trở về vô tận, chẳng ai thấy
tác giả ở đâu nữa. Tác giả từ chỗ bột phát cái tôi mang “tính trời”, nghĩa là
đại “lý”[9],
đã dẫn đến ý muốn bất tử và khi ngộ được ý nghĩa bất tử, người ấy quyết định
chết, cái chết mưa móc chan hoà, thấm nhuần vũ trụ (tác phẩm – tạm gọi thế).
Vậy là gì ? Là bọn họ chọn cách viết như một cách sống thực và có được cái tôi
cá thể đồng dạng với trời, thế là bọn họ mang nó cho đi, san sẻ, chia bớt, dung
dưỡng nuôi nấng từ cái tôi ấy, biến nó (cái tôi) thành siêu ý thể, nghĩa là ý
thể biết tồn tại thực và độc lập với tác giả. Dễ thấy, một tác phẩm phi thường
luôn có đời sống độc lập với kẻ sinh ra nó. Họ bị chính cái ý thể hung hãn (mà
mình sinh ra và nuôi nấng) phản bội, hãm hại rồi giết chết. Siêu ý thể ấy biến
tác giả thành “một bản thể”. Siêu ý thể giết chết tác giả để mà tôn thờ và cầu
khẩn. Người ta không thấy Nguyễn Du già nua ở dáng điệu Thúy Kiều, không thấy Nguyễn
Du ở những Mã, Sở, Thúc, Từ, Hồ nào hết,…..nhưng tất cả họ lại là Nguyễn Du
đấy. Ngay cả cỏ non, lửa lựu, cành lê cũng là Nguyễn Du. Hết thảy Đoạn trường
tân thanh là Nguyễn Du rồi.
4. Khi R. Barthes phân
tích thái độ của nhà văn đối với ngôn ngữ qua các thời kỳ, quá trình ấy tô dậm
hình ảnh nhà văn như một kẻ tồn tại ở khía cạnh ngôn ngữ mà thôi[10].
Nhưng trước hết, nhà văn là kẻ truy tìm cùng cội thế giới. Trong một bài khác,
ông phân biệt hai loại hình chủ nhân của ngôn ngữ. Nhà văn là một danh từ, đại
diện ngôn ngữ thực hiện chức năng. Còn người viết chỉ là một ngữ động từ, nghĩa
là thực hiện hành động, là người tham gia hành động của ngôn ngữ. Nhưng nói
chung, nhà văn hay người viết theo cái đà ấy cứ nhăm nhe đào bới ngôn từ, đi
vào ngõ cụt của thế giới đại diện võ đoán. Trở lại vấn đề, “rốt cuộc, nhà văn
phải tất yếu chạm trán với một vấn đề hoàn toàn còn bỏ ngỏ: Vì sao thế giới lại
như vậy ? Ý nghĩa của vạn vật là ở đâu ? …..một thế giới hiện lên trong văn học
chỉ như một câu hỏi, mà chẳng bao giờ là lời giải đáp cuối cùng”[11].
Tác giả chẳng thể nào xa lìa ngôn ngữ. Họ chẳng bao giờ kết luận được việc gì
và rất nên như thế. Đây là vấn đề mà chúng tôi muốn nhắc đến. Nhà văn thực sự
đã làm gì ? Chính R. Barthes đã phát hiện tính bản thể của hành động viết, như
là một hành động viết của nhà văn (không phải người viết). Con người ấy truy
giết cái đa nghĩa của thế giới, phân bua, lí giải và chứng minh, cố đem lại thế
giới với trạng thái kết luận. Nhưng thực chất thì như thế nào ! Nhà văn thất
bại, bọn họ trở thành một tâm sóng trên mặt hồ và bọn họ lại là những kẻ dễ
lung lay với thế giới nhất, nghĩa là họ nhạy bén, họ không ngừng chịu sự giao
thoa của những tâm sóng khác. Lí do vì sao ? Vì họ xuất phát từ cảm giác và tri
giác. Điều này có thể lý giải bằng quy luật tác động lẫn nhau của thực thể, hay
quy luật tiếp xúc trong phép phân tích giác tính của Kant. Với những kẻ đam mê
“chân không” như Xuân Thu thì điểm xuất phát của họ cũng là tri giác. Điều đó
giúp họ có ngôn ngữ, rồi sau đó họ bị cái hố đen trực giác xé toạc và nuốt
chửng. Văn chương Xuân Thu có sự linh thiêng của chính họ. Nhưng điều chúng ta
muốn nói là gì ? Đó là dù tác giả đam mê trực giác đến đâu thì cái đầu tiên
giúp họ có được ngôn ngữ chất thể cho tác phẩm chính là tri giác. Mà “tri giác
lại có khuynh hướng bóp méo việc lĩnh hội về sự thật bằng việc sao lãng đối với
cái tôi, trong sự mâu thuẫn giữa thiên hướng và tri giác”[12].
Vậy nên phương trình giữa biến số thiên hướng bản thân tác giả và biến số tri
nhận phải là một phương trình đa nghiệm. Cuối cùng, bọn họ là một thế giới đã
nghĩa. Nhà văn tạo ra và sống trong cái thế giới đa nghĩa ấy. Họ thất bại, vì
chính họ muốn kiến tạo thế giới đơn nghĩa nhưng nó đã không ngừng đa nghĩa. Dần
rồi những nhà văn hậu bối không còn muốn kết luận thế giới nữa. Bọn họ để lửng
câu hỏi đặt ra và họ để người đọc ngơ ngác khi dừng ngòi bút. Người ta gọi
chúng là kết thức mở. Vậy nhà văn đã làm gì ? Nhà văn truy tìm thế giới bản thể
nhưng đồng thời cũng không thể đánh rơi chính mình. Bọn họ như kẻ muốn về trời
nhưng mùi trần còn nặng, dục vọng còn nồng, hương sắc còn tươi. Chung quy những
tác phẩm như Kiều, Cung Oán ngâm, Nỗi buồn chiến tranh, Thiên sứ, ….đều cố trả
lời những câu hỏi đại loại như: kiếp người, cảm nhận về thế giới, thể hiện thế
giới như một quá trình, những câu hỏi về con người, việc sống của con
người…..Cả Nguyễn Du và Bảo Ninh đều ngậm ngùi về “thân phận của tình yêu”….,
họ truy tìm nguyên nhân, họ bị đẩy dần về cái gần với mình nhất, không ngừng bị
thu hút bởi chiến tranh, loạn lạc, và cuối cùng là thế giới tồn tại như thế nào
và việc làm người. Họ sa dần vào việc làm người, nghĩa là sống, sống thực thụ.
Cho nên cái ý định ban đầu là lý giải thế giới lập tức thất bại. Tựu trung, những
kẻ làm nhà văn đã không ngừng chuyển động trong thế giới ngôn ngữ với hai quá
trình diễn ra nghịch đảo. Một đằng bị kéo về phía cuối cùng, một nẻo bị thu hút
về phía vô cùng. Nhà văn bây giờ chỉ là sự hiện hữu, thực hiện một hành động
tồn tại theo cách “sống thực và làm người” rằng bọn chúng cố leo lên ghế thượng
tôn, giành giật cái quyền thượng đế nhưng vẫn không ngừng lòi ra lốt người sặc
sụa mùi trần gian và tình yêu, bọn họ như thái cực mà lại vô cực. Đó chính là
nỗi ám ảnh suốt đời Xuân Diệu, nỗi buồn dai diết mưa Bảo Ninh, cái bất tận miên
viễn đau thương Ngọc Tư….. Nếu quan niệm kẻ sáng tác văn học là “bộ máy quan
cảm”, thì bọn họ cũng không hơn cái loa phóng thanh là mấy. Cho nên tác giả văn
học không thể là “bộ máy quan cảm” được, vì bọn họ chọn cách đối thoại với thế
giới và thể hiện siêu thế giới. Nhà văn vì thế đã trở thành tồn tại thực, một
tại thể của hữu thể đương khi tồn hoạt (theo cách nói của Bùi Giáng), cho phép tác phẩm được
quyền chân lý, một chân lý biết đẹp.
Tác giả văn học hay một
quá trình nối dài thế giới, thực hiện khả thể và siêu ý thể.
Võ Quốc Việt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Kant I. (2007), Phê phán năng lực phán đoán, NXB Tri thức, Hà Nội.
2.
Nguyễn Hiến Lê dịch và chú giải (1994), Trang Tử Nam Hoa Kinh, NXB Văn Hoá
Thông tin, Hà Nội.
3.
Nguyễn Hiến Lê dịch và chú giải (2002), Liệt Tử Dương Tử, NXB Văn hoá Thông
tin, Hà Nội.
4. Lindsay
A.D. (1911), The Philosophy of Bergson, J.M.Dent & Sons, LTD, Bedford Street , Strand , W.C.
5.
Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, NXB Văn học,
Hà Nội.
6.
Mộng Bồi Nguyên (1998), Hệ thống phạm trù lý học triết học phương Đông, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7.
Đinh Ngọc Thạch (chủ biên, 1989), Triết học Cổ điển Đức: Kant- Fichte-
Schelling- Hegel- Feuerbach, Tủ sách Đại
học Tổng hợp, Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Hồ
Thích (2004), Lịch sử tư tưởng Trung Quốc thời trung cổ, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh.
9. R.
Wellek & A. Warren (2009), Lý luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
[1]
Theo Bùi Giáng(2007), Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại, NXB Văn Học, Hà
Nội. Khi so sánh điểm khác biệt giữa J.P. Sartre và M. Heidegger về khuynh
hướng Hiện sinh, Bùi Giáng đã chỉ rõ bản chất hiện sinh của hai triết gia ấy.
Bình minh mơ màng và Mặt trời gay gắt; trong khi Sartre dấn thân vào thế giới
hiện tượng thực hiện vấn đề thực hiện mình thì Heidegger trầm mặc như một ẩn sĩ
Á Đông. Ấy là vì ông đi từ hiện tượng đến hiện thể rồi đến hiện hữu và cập bến
hữu thể (khác Hégel). Trần Thái Đỉnh cũng cho rằng triết học Heidegger là triết
học của cái hữu. Trong khi đó, Sartre chỉ dừng ở hiện hữu. Sartre chỉ nhìn thấy
cái muôn vàn của hiện sinh. Và Heidegger nắm bắt được cái tuyệt đích của hiện
sinh. Sartre là kẻ ra đi, Heidegger là người trở về.
[3]
Hữu thể hiện sinh hay Tác giả cũng là một Dasein, Heidegger “có ý nêu cao bản
chất của con người là hiện diện với thế giới, và nhân đó con người chỉ là con
người vì là sự hiện diện đó”. Xem Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học hiện sinh,
NXB Văn học, Hà Nội.
[4]
Khả thể: một “tiền hữu thể hiện sinh”
trong quá trình thực hiện khả năng trở thành hữu thể của mình. Khả thể chuyển
động tại thế và thực hiện mầm chồi hiện sinh tiềm tàng bấy lâu. Đó có thể là
một hữu thể hiện sinh chưa biết được nhưng nhấn mạnh ở công việc mà nó thực
hiện với thế giới. Nó có thể.
[5]
Phát triển từ thuật ngữ “chất điểm” như là các điểm móc định vị và tạo nên sự
đứng yên tương đối cho vật thể, chỉ khi nào có vật cố định tương đối cho việc
thể hiện không thời gian thì tri giác con người mới nắm bắt được. Trong văn
học, chất điểm là một chất thể, nghĩa là sự đứng yên cố vị của nó còn tương đối
hơn nữa. Chúng ta gọi kết quả của những thiết chế ngôn ngữ, cái đằng sau hệ
thống ngôn ngữ, cái bị hệ thống ngôn ngữ ràng buộc mang dáng dấp của những ý
niệm; từng điểm ấy là một chất thể sinh động lưu hoạt. Chính chúng làm điểm tựa
cho cuộc tri nhận của chúng ta khi đến với tác phẩm cụ thể.
[7] Thế
giới tác phẩm hay thế giới của tác giả đã tác tạo là một thế giới ý niệm tồn
tại với phẩm tính của vật chất. Các chất
điểm đằng sau ngôn ngữ cũng là các ý thể. Ý thể ấy được tác giả tạo ra từ các ý
hướng của chính mình trong cuộc tương tác với thế giới – thế giới của chính tác
giả chứ không phải thế giới chung chung. Các ý hướng chưa hoàn bị và rời rạc
được liên kết với nhau bởi một điểm chung là tác giả. Thế là các ý hướng tạo
thành một hệ thống hay một thế giới các ý hướng chuyển động, nảy nở, hoạt sinh,
chúng sống thực thụ bằng chính sức sống của mình. Đó là các ý thể được tạo
thành trong tác phẩm.Ý thể sau khi hình thành hay tác phẩm định hình lại san sẻ
chia sớt mình cho nhiều người khác. Cái ý thể lại gieo mầm vào tâm lòng kẻ khác.
Trên mảnh đất yêu mến hạt mầm ý thể nảy nở mạnh mẽ, nhưng trên mảnh đất khô cằn
phản bác còn mãnh mẽ sinh sôi gấp nhiều lần. Chung quy sự nối dài thế giới mà
tác giả thực hiện bằng ý hướng tính của mình đã tạo ra sự sống ý thể lần thứ
nhất và cho đến khi về được người đọc thì ý thể nhân lên bội phần và nối dài
thế giới lần thứ hai. Ý thể tương tác với thế giới của người đọc lại chia ra
muôn vàn ngã rẽ, lại là những cuộc phiêu lưu mới của nó. Ý thể cứ chia đi trăm
ngàn phương hướng trên cuộc đời và nối dài thế giới thêm mãi. Đó là siêu ý thể.
[9]
Hình nhi học thượng, xem Mộng Bồi Nguyên (1998), Hệ thống phạm trù lý học triết
học phương Đông, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[10] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c247/n8781/Van-chuong-va-sieu-ngon-ngu.html
[12] A.D.Lindsay (1911), The Philosophy of Bergson,
J.M.Dent & Sons, LTD, Bedford
Street , Strand ,
W.C.
Comments
Post a Comment