VÀ ĐỔI MỚI THƠ CA Ở THANH TÂM TUYỀN
[Võ Quốc Việt - Khol V., 2017]
Tóm tắt
Trần Thanh Hiệp trao đổi với
Thụy Khuê trên RFI về những hoạt động của tạp chí Sáng Tạo; rằng phong trào mà
các ông thực hiện mai sau có mang lại ít nhiều đóng góp cho văn chương Việt Nam
thì công của Thanh Tâm Tuyền là rất lớn. Chúng tôi đến với thơ ông, trước hết,
là bởi sự quan tâm đối với những đóng góp ấy trên con đường vận động của thơ ca
Việt Nam hiện đại. Chúng tôi đi từ cuộc “khởi nghĩa đầu tiên” của nhà thơ trong
văn nghệ; mà từ đó, có dịp soi sáng nền tảng quan niệm nghệ thuật. Trên cơ sở
ấy, chúng tôi triển khai những quan niệm chính của nhà thơ. Trong giới hạn nhất
định, vấn đề mà chúng tôi mong muốn giải quyết có thể nói một cách cụ thể, đó
là: Nghệ thuật đen, sáng tạo và thơ.
Từ khóa: Thanh Tâm Tuyền,
Nghệ thuật đen, sáng tạo, thơ ca.
1.
Vài
nét về Thanh Tâm Tuyền và những nẻo đường thơ
Thanh Tâm Tuyền – nhà thơ đánh
dấu những thành tựu nổi bật đầu tiên cho thơ tự do. Ngay khi mới xuất hiện đã
có nhiều tranh luận xung quanh tác phẩm của ông, nhưng có thể thấy nhà thơ mở
ra thêm một con đường rộng rãi cho thơ ca Việt sau này. Tuy nhiên, thân thế và cuộc
đời ông có rất ít người biết đến. Gần đây, chúng ta nhận thấy nhiều bài viết
đáng quý về nhà thơ. Qua đó, thân thế về nhà thơ “kính nhi viễn chi” này dần
được hé mở và xác định lại.
Về gia đình, cha Thanh Tâm Tuyền
dạy học và viết báo nhưng mất sớm. Cuộc sống khó khăn, ông cùng mẹ và em trai
vào Sài Gòn ở nhờ người quen, một thời gian lại trở về Hà Nội đi học. Là một
học sinh thông minh xuất sắc, thi tú tài khi chưa đủ tuổi và đi dạy ở Minh Tân
(Hà Đông) lúc 16 tuổi. Thanh Tâm Tuyền thành công sớm nhưng về sau ông viết rất ít và
có thời gian gần như không viết gì. Có vẻ như “Tôi không còn cô độc” (1956)
và “Liên-đêm-mặt
trời tìm thấy” (1964) là tượng đài quá ngưỡng mà sau này chính ông cũng
không vượt qua được. Là người khắc kỷ, điềm đạm, trầm ngâm, ít nói, cung cách
chậm rãi, Thanh Tâm Tuyền luôn thể hiện một tâm hồn giầu lòng trắc ẩn, dốc hết
lòng mình cho văn chương và thời cuộc.
Sau 1975, ông ở lại Việt Nam
nhưng không sáng tác được. Từ 1975 đến 1977 còn ghi nhận được nhiều bài thơ
nhưng đa phần đều có chút sai biệt giữa bản chép tay và bản đánh máy, đôi khi
còn sai khác do chính nhà thơ mỗi lần đọc là mỗi lần khác đi ít nhiều. Giai
đoạn 1977-1982 đa phần là những ghi chép vụn vặt, chắp nối, chủ yếu là suy ngẫm
về quá khứ như những dòng nhật ký nặng nề u buồn. Tuy nhiên, đây lại là phần
cho phép chúng ta nhìn được thấu đáo về những gì đã xảy ra với ông, những gì
lưu lại vết tích và ảnh hưởng đến ông trong giai đoạn sau 1975.
Đến 1990, ông sang định cư tại
Hoa Kỳ (thành phố Saint Paul, Minnesota). Sau có về lại Sài Gòn thăm mẹ, tuy
nhiên, ông luôn mang tâm trạng day dứt. Linh hồn như bị chia đôi. Chúng tôi
thấy ở đấy một con người nặng lòng với quê hương. Chúng ta có thể đi những ngã
đường khác nhau nhưng cùng chung nguồn cội quê nhà.
Nhìn chung, Thanh Tâm Tuyền đến
với văn chương từ rất sớm. Thập niên 1950 và 1960 là giai đoạn có những thành
tựu nổi bật về thơ với hai tập “Tôi không
còn cô độc” và “ Liên-đêm-mặt trời
tìm thấy”. Bên cạnh đó ông vẫn sáng tác truyện. Chủ yếu đến cuối thập niên
1960 và thập niên 1970, ông cho ra đời nhiều tác phẩm truyện đóng góp đáng kể
cho diện mạo văn xuôi đô thị miền Nam. Nếu đi sâu nghiên cứu lĩnh vực này,
chúng ta còn nhìn thấy một nhà văn Thanh Tâm Tuyền có chiều sâu với bút pháp mê
hoặc. Bởi, ông không chỉ xây dựng vũ trụ thơ đau thương nghiệt ngã mà còn những
ám ảnh trong từng câu văn, chẳng hạn về cái chết khi mở đầu tác phẩm Mù khơi
(1970).
Sau 1975, ông gần như thôi viết.
Thập niên 1980, phần nhiều còn lại những ghi chép nhật ký, suy tư, hoài niệm.
Sang Hoa kỳ, ông có tập Thơ ở đâu xa
như lời trăn trối cho cả cuộc đời qua ba phần tư thế kỷ. Chung quy, thành tựu
văn chương Thanh Tâm Tuyền gói gọn trong giai đoạn 1954-1975. Dù ở địa hạt thơ
hay văn xuôi, ông đều có những đóng góp đáng kể. Thiết nghĩ, nghiên cứu Thanh
Tâm Tuyền giúp chúng ta hình dung về sự chuyển mình của thơ ca Việt Nam hiện
đại cũng như gợi mở thiện chí vào cuộc tìm kiếm những giá trị văn chương đích
thực giai đoạn 1954-1975 ở các đô thị miền Nam Việt Nam. Và sự khẳng định các
giá trị văn chương đích thực luôn là biểu hiện của một nền văn học tiến bộ.
Thanh Tâm Tuyền với Thơ mới
Thanh Tâm Tuyền chủ trương rũ bỏ
thi pháp Thơ mới và đưa ra quan niệm mới về thơ. 19 tuổi, ông soạn “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay” như một
tuyên ngôn về thơ tự do.
"Chúng tôi theo cơn
cuồng nộ bi thảm của Dionysos, của cuộc đời hôm nay ... Nghệ thuật phá vỡ những
hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa,
một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm
... (Người làm thơ) không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn đã là một hình
dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng phá vỡ hết mọi
hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn không che đậy."[2]
Nói chung, quan niệm thơ của ông
bắt nguồn từ quan niệm về bi kịch của Nietzsche, mà chúng tôi xin phép trình
bày cụ thể hơn khi tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật. Có thể nói, Thanh Tâm
Tuyền nhìn thấy sức ảnh hưởng của văn học tiền chiến, và như thế, đó là gánh
nặng cho văn học đương thời. Ông chủ trương phủ định những cấu trúc cân đối về
nhịp, về thanh, về hình ảnh của Thơ mới. Và đẩy cái sầu não của Thơ mới trở
thành một nhân sinh quan bi thảm. Nghệ thuật nảy nở trên bi kịch. Thơ ca với
Thanh Tâm Tuyền là những nỗi đau thế kỷ, là những băn khoăn sâu thẳm nhất giữa
lòng người thế kỷ XX. Đặc biệt, ông chú trọng đến vấn đề hình ảnh thơ. Đó là
những hình ảnh đổ vỡ, chông chênh, đứng cạnh nhau vì cuộc hỗn loạn của tư duy
thơ Siêu thực. Và "Thơ tự do
không gieo vần lối đồng âm, đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có
thể đi tới khác âm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn
thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo dài
hơn các hơi thơ khác"[3]. Thơ mới phổ biến các loại vần đồng âm,
đồng thanh; và Thanh Tâm Tuyền gạt ngay lối vần ấy khỏi thơ tự do. Đó là một
khẳng định chắc chắn và có bằng cớ. Bởi thơ Thanh Tâm Tuyền không dùng để ngâm,
không cần đến sự cân đối du dương của dòng âm; thơ của ông là để đọc, thả miên
man trên dòng ý thức, để tự nó bộc phát và gây ảnh hưởng từ chính nội tâm của
chữ, của hình ảnh, của biểu tượng xem chừng “thô” nguyên như đời sống. Nhưng
cũng chính ở đấy mà thơ ca Thanh Tâm Tuyền có được sức mạnh, gây thu hút và quyến
rũ người đọc.
Thanh Tâm Tuyền mở rộng cuộc tìm
kiếm chất nhạc với phát hiện về nhịp điệu của hình ảnh hay nhịp điệu của ý
thức. Bên cạnh đó, cần phải nói đến sự ảnh hưởng từ trường phái Siêu thực Pháp.
Ông đã hơn một lần khẳng định vai trò của Siêu thực đối với sự phát triển của
ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Điều đó cho thấy nhà thơ thật sự quan tâm và thực tế
có sử dụng nhiều biện pháp tạo hình của trường phái này. Chính sự ảnh hưởng ấy
ít nhiều xác định vị trí riêng biệt của ông trong bối cảnh thơ ca đương thời.
Thanh Tâm Tuyền và những bạn thơ
chủ xướng thơ tự do
Cùng Thanh Tâm Tuyền chủ xướng
thơ tự do còn có Nguyên Sa và Tô Thùy Yên. Chúng tôi muốn nói đến hai nhà thơ
này bởi ở họ là sự tiếp nối và bắt đầu cho thấy những chuyển biến cách tân.
Nhưng Nguyên Sa và Tô Thùy Yên hãy còn một bên là vùng trời lãng mạn tiền chiến,
một bên chớm đi về cách tân. Về cơ bản, từ ý thơ, tư duy nghệ thuật, đề tài,
hình ảnh, ngôn từ, những biện pháp tạo hình,...không quá mới mẻ; bởi vì nó còn
trong vòng vây ảnh hưởng của Thơ mới. Tình yêu ở Nguyên Sa còn cho thấy bóng
dáng của Xuân Diệu và Huy Cận (vừa nồng nàn và say đắm, vừa êm ái trầm buồn).
“Anh nhớ sông có nguyệt lạ lùng/ Có trời lau lách chỗ hư không/ Em tìm âu yếm
trong đôi mắt/ Thấy cả vô cùng dưới đáy sông” (Em gầy như liễu trong thơ cổ -
Nguyên Sa). Chúng ta nhìn thấy những bài thơ có hình thức 7 chữ, 8 chữ quen
thuộc trong Thơ mới xuất hiện khá nhiều trong thơ Nguyên Sa. Và chúng tôi muốn
nói rằng, dù ông sống một thời gian dài ở Pháp nhưng tâm hồn của ông vẫn là những
nhà Tây học tiền chiến. Yêu thích sự lãng mạn, du dương, cân đối trong nhịp và
vần, ông chú trọng đến vần, nhịp. Dù đã có ý thức bỏ đi những cách gieo vần của
thơ Mới nhưng khám phá của ông (vần chỉnh, vần thông, vần cưỡng áp, lạc vận)
vẫn chỉ thu hẹp trong định hướng cách tân có từ trước 1945. Hơn nữa ông lại
chưa nghĩ nhiều đến nhạc, và nhạc thơ của ông vì thế cũng kế thừa khá nhiều từ
Thơ mới, nghĩa là từ vần – nhịp – âm tiết – thanh điệu. Ông chưa nhìn hoặc chưa
quan tâm đến thứ nhạc toàn diện (nhạc sâu) mà Thanh Tâm Tuyền đã phát triển từ
nhịp điệu hình ảnh và nhịp điệu ý thức.
Lại nói về những bài thơ tự do
của ông, chỉ có vài dấu hiệu bước đầu. Những đổi mới chỉ đơn thuần hình thức,
chưa gắn kết với nội tâm. Đã có khuôn mặt mới nhưng tâm hồn vẫn thế, bấy nhiêu
cảm xúc, bấy nhiêu lãng mạn, luyến lưu nhợt nhạt. Bởi thế, thơ tự do không chỉ
là cách xuống dòng tùy ý, nhả chữ vô lối. Tự do mang cái ý nghĩa từ chính trong
nội tâm sâu kín của nhà thơ. Chỉ khi nào thoát khỏi mọi ràng buộc và ảnh hưởng,
đi từ ảnh hưởng để tất cả trở thành giá trị độc đáo của bản thân, nghĩa là chỉ
còn chính chủ thể phát truyền ý nghĩa thì tự do khi đó mới triệt để.
Và Tô Thùy Yên cũng thế, dù
chính ông cũng lên tiếng ủng hộ và dấy lên dư luận về thơ tự do. Nhưng chưa ai
đi hẳn đến tự do như Thanh Tâm Tuyền; đi một mạch và về đích (như cách nói của
Thụy Khuê). Thế nên cuối cùng, ông không vượt qua được ngọn núi của mình. Tô
Thùy Yên nhiều khắc khoải, nhưng thử hỏi trong thời đại ấy nhà văn nhà thơ nào
lại thiếu đi những băn khoăn ưu tư. Riêng phải nói đến sự chuyển động của điểm
nhìn, chúng tôi cho là đáng ghi nhận hơn cả. Nghĩa là khi Thùy Yên nhìn đối
tượng, ông không hoàn toàn đứng yên. Ông chuyển động, dù chưa thật dứt khoát và
mạnh bạo nhưng cũng gây ra nhiều biến chuyển thú vị cho thơ. “Trên cánh đồng hoang thuần một màu / Trên
cánh đồng hoang dài đến đỗi / Tàu chạy mau mà qua rất lâu / Tàu chạy mau, tàu
chạy rất mau / Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu / Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
/ Gò nổng cao rồi thung lũng sâu / Ngựa thở hào hển, thở hào hển / Tàu chạy
mau, vẫn mau, vẫn mau / Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn / Ngựa gục đầu, gục
đầu, gục đầu / Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết / Tàu chạy mau, càng mau, càng
mau / Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ / Chấm giữa nền nhung một vết nâu”
(4-1956) (Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)[4].
Để có được sự thay đổi triệt để,
qua trường hợp Thanh Tâm Tuyền, chúng tôi thiết nghĩ đến việc học tập mở rộng
để thay đổi tận gốc rễ tư duy. Thay đổi không chỉ phát xuất từ hình thức mà hơn
cả là ở đáy lòng. Cái mới của hình thức dễ mai một vì nông cạn và lố bịch, lố
bịch vì chưa có linh hồn. Tâm hồn cũ nát mà áo xống tân thời chẳng khác gì đội
lốt giả danh. Nếu Nguyên Sa và Tô Thùy Yên hãy còn một chân ở văn học tiền
chiến thì Thanh Tâm Tuyền đã bước hẳn vào hiện đại; thúc đẩy thơ ca Việt Nam
bước thêm một quãng dài và hòa nhập vào thơ ca hiện đại thế giới. (Tất nhiên,
bên cạnh đó còn có nhiều nhà thơ nữa nhưng trong phạm vi khảo sát chúng tôi chỉ
muốn nhắc đến những trường hợp cần thiết nhằm xác định vị trí con đường mà nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền đã trải qua). Tiếp tục, điều chúng ta cần băn khoăn. Đó là:
điều gì đã thay đổi căn cội tư duy cho cuộc “thay máu” vang dội ấy ?
2. Từ Thơ mới và bóng dáng của F. Nietzsche
Thanh Tâm Tuyền đến với
truyện trước hết[5]. Đó là giải nhất báo Thần
Chung cho truyện ngắn Viên đạn cuối cùng.
Thế nhưng, người đời nghĩ về ông phần nhiều lại như một nhà thơ; dẫu rằng Thanh
Tâm Tuyền đều có những đóng góp đáng kể ngay cả địa hạt thơ và truyện. Riêng
bài viết này, chúng tôi chủ yếu khảo sát địa hạt thơ Thanh Tâm Tuyền và trình
bày vài đánh giá bước đầu; qua đó làm rõ quan niệm nghệ thuật của ông.
Đó cũng là lí do khiến chúng tôi
quay lại tìm hiểu cái nhìn của Thanh Tâm Tuyền về Thơ mới. Có thể nói nhà thơ
trẻ bấy giờ, nhìn về lớp trưởng bối tiền chiến bằng sự phản ứng về phương diện
thi pháp; qua đó, đã phần nào bộc lộ cá tính và ít nhiều góp phần khởi động ý thức
cách tân thơ ca Việt đương thời. Với Thơ mới, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền thể hiện
bước chuyển mình đầu tiên trên con đường phát triển và xây dựng quan niệm nghệ
thuật.
Cụ thể hơn, Thanh Tâm Tuyền chủ
trương rũ bỏ thi pháp Thơ mới và đưa ra quan niệm khác về thơ. Như đã trình
bày, ông viết “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay”
như một tuyên ngôn về thơ tự do. Thực tế, quan niệm thơ Thanh Tâm Tuyền bắt
nguồn từ quan niệm về bi kịch của Nietzsche. Và Thanh Tâm Tuyền nhìn thấy sức
ảnh hưởng của văn học tiền chiến. Sự ảnh hưởng về phương diện nào đó là việc
tiếp nối của một dòng chảy liên tục, đặt nền tảng cho phát triển. Tuy nhiên,
ảnh hưởng cũng là vấn nạn cho quá trình phát triển. Nếu chủ thể cách tân và
phát triển không thể vượt thoát được vòng vây của quá khứ và sức ảnh hưởng của
nó. Như đã trình bày, Thanh Tâm Tuyền chủ trương phủ định những cấu trúc cân
đối về nhịp, về thanh, về hình ảnh của Thơ mới. Và đẩy cái sầu não của Thơ mới
trở thành một nhân sinh quan bi thảm, là vũ trụ đau thương, nơi kết tinh vĩnh
hằng của những vết thương nhân sinh cơ bản. Nghệ thuật nảy nở trên bi kịch. Thơ
ca Thanh Tâm Tuyền là những đóa hoa đen, linh dị và thống thiết.
Điều này làm chúng tôi băn khoăn về nguồn cội thúc đẩy suy tư đổi mới thơ
ca ở nhà thơ. Và nhận thấy, Thanh Tâm Tuyền đứng về phe nỗi buồn. Ông đứng về
phía Dionysos để xác lập nghệ thuật hôm nay. Nietzsche là kẻ chống chúa, còn
Tâm Tuyền là người phản bội thi pháp Thơ mới để tái sinh cho thơ với ít nhiều
mới mẻ ở linh hồn và thể xác. Nietzsche cũng như Thanh Tâm Tuyền đều triệt để
trong cuộc đảo hoán các giá trị mà họ chủ trương.
F. Nietzsche (1844-1900) và Thanh Tâm Tuyền ở hai thời đại khác nhau,
nhưng đã gặp nhau ở cuộc đảo hoán những giá trị. Với Nietzsche, đó là người
tiền trạm của thời đại mới, kẻ gieo mầm cho tư duy nhân loại (trong thiển ý của
chúng tôi). Thanh Tâm Tuyền cũng như M. Heidegger đã chịu ảnh hưởng từ
Nietzsche một cách rõ nét. Đặc biệt, quan niệm nghệ thuật về thơ của Thanh Tâm
Tuyền có thể nói là phát triển dựa trên “The
Birth of Tragedy”. Tất nhiên dựa trên quan niệm đó, Thanh Tâm Tuyền đã phát
triển và tiếp thu những ảnh hưởng khác tạo nên phong cách thơ riêng biệt, độc
đáo. Là Nietzsche, nhưng Nietzsche đã hóa thân và dồi dào hơn, là Nietzsche
khác.
Trong tác phẩm “The Birth of
Tragedy”, Nietzsche quan niệm Apollo là vị thần đại diện cho nghệ thuật lý
tưởng hay niềm mơ ước phải lẽ trong xã hội. Và rõ ràng, đó là loại hình nghệ
thuật phát triển trên nền tảng và trong chiều hướng của luân lý, nhà nước, của
lý tưởng chính thể (mang vẻ đẹp chân phương, chính thống, cân đối, áp đặt trên
cái chung, cái đẹp tự nhiên hài hòa). Chính vậy mà nghệ thuật Apollo có thể
nghiễm nhiên được tôn sùng giữa thanh thiên bạch nhật. Có những luật lệ “trong
chiều hướng cho phép” của thiết chế xã hội đảm bảo uy quyền của “ánh sáng”. Tuy
nhiên, sự hoàn hảo của nghệ thuật Apollo trong mối tương quan với thực tế
thường nhật hầu như chỉ phản ánh được một nửa “cái thường nhật”. Đó chỉ là sự
thực dưới ánh sáng ban ngày. Nhưng, cũng chính ở đấy mà lý tưởng nghệ thuật
Apollo cho thấy con người không thể với tới, không thể chạm tay vào, hoặc chiếm
lĩnh được, nghĩa là nó xa rời với đời sống thực của con người (vì nó chỉ thừa
nhận đời sống dưới ánh sáng ban ngày, sự thực căn nguyên và tối hậu của bóng
đêm là thứ gì đó không được thừa nhận). Đối với Nietzsche, đó là kiểu nghệ
thuật gian lận và lừa dối. Vì nó “chỉnh tề, mực thước, kiều diễm”. Với ông: “Vẻ mắt người cứ như là vầng thái dương và sự
yên lặng; thậm chí ngay cả khi giận dữ hoặc cho thấy sự khó chịu, thì vầng hào
quang thánh hiến của dáng vẻ diễm lệ kia vẫn chiếu tỏa xung quanh”[6].
Như thế là không đủ, vì loài người sống ở vùng trời đầy đủ biến động, phức tạp
và rắc rối. Tâm hồn người ngàn vạn năm vẫn không thôi mới lạ mà ánh sáng mặt
trời không sao thấu suốt ngọn nguồn.
Trở lại với triết gia, quỷ dữ và thánh thần chia nhau tâm hồn Nietzsche.
Đó là môn đệ của vị thần say sưa hoan lạc. Nếu Apollo đại diện cho những gì
kiểu cách, hoàn chỉnh thì “ngược lại,
nghệ thuật Dionysos dựa trên cuộc vui chơi với nỗi say sưa và trạng thái ngây
ngất”[7].
Đó là kiểu nghệ thuật của sự đổ vỡ, say sưa và nết ngây thơ chất phác, lắm khi
thô kệch như một mảng cuộc đời tươi mới và sống động. Dionysos đại diện cho
nghệ thuật trần gian, nghệ thuật của đời người cụ thể đầy đủ cảm xúc và thể
hiện hầu như toàn vẹn mọi ngóc ngách còn ẩn khuất mà ánh sáng mặt trời hiếm khi
soi chiếu tới.
Chính ở khía cạnh này, Thanh Tâm Tuyền đã xây dựng quan niệm nghệ thuật
đen – nghệ thuật mọi. Xuất phát từ niềm kiêu hãnh của những kẻ yếu thế giữa đời
sống, Thanh Tâm Tuyền mang trong mình dòng máu phản kháng. Đó là ý muốn đảo
hoán giá trị. Ấy thế nên, thơ Thanh Tâm Tuyền, như Đặng Tiến nhận xét, là sự
tháo gỡ và sắp xếp lại không chỉ những cấu trúc ngữ âm mà còn cả nhịp điệu của
tư tưởng. Đó là những thay đổi từ chính cội rễ của tâm hồn mà một cuộc cách tân
triệt để cần có. Đấy cũng lại là dấu vết của sự đổ vỡ, sự càn quét từ mùa giông
bão say sưa Dionysos. Thanh Tâm Tuyền chịu ảnh hưởng từ thái độ của Nietzsche
đối với hiện hữu xung quanh mình. Và chính thế đã trở thành điều kiện cho những
trầm tư về đời người theo kiểu Sartre nảy nở tiếp theo. Trong đó, sự khẳng định
ý chí thể hiện rõ ràng và tiên quyết. “Bởi vậy nhân vật người viết ngày nay sẽ
không là một người vỗ về kẻ đọc. Nó chính là những con quỷ ám ảnh – những con
quỷ thời tiền sử về ám ảnh – kẻ đọc, trong những lúc tỉnh thức”[8].
Hơn thế, đó là ý chí hùng cường tàng ẩn trong mỗi con người (dù là kẻ nhu nhược
nhất), khẳng định sự tồn tại của mình thông qua tác động dữ dội đến ngoại thể.
Thái độ đó là của người biết xác lập giá trị và cho đấy là căn nguyên của việc
xác định giá trị độc đáo cho bản thân. Chất hiện sinh ở Thanh Tâm Tuyền là từ
chính băn khoăn về đời sống xung quanh (souci). Với thơ, Thanh Tâm Tuyền là con
người của nghệ thuật, nhưng còn là người như chính mình, cái chính mình riêng
biệt và được khẳng định (có được thơ nghĩa là ông tồn tại).
Có lẽ thế nên khi mở đầu tập “Tôi không còn cô độc”, chúng ta nhận thấy
chất giọng trầm hùng của siêu nhân, kẻ ngạo mạn trên ngai vàng duy nhất. Kẻ chí
tôn luôn là kẻ cô độc. Hắn có quyền đặt ra luật lệ nhưng hắn cần tự do như môi
trường sự sống. Hắn không thể chối tự do, ngay cả chối tự do về phía người đọc.
Người đọc và nhà vua hoàn toàn tự do. Không một ràng buộc nào kiềm chế mối quan
hệ giữa nhà thơ và người đọc. Nhà thơ hùng mạnh do thế đã trở nên cô độc vĩnh
hằng.
“Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ
quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi.
người hoàn toàn tự do.
để cai trị tôi có những luật lệ
tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ.
người hoàn toàn tự do.
và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ”
(Tôi không còn cô độc, 1956)
3. Về nghệ
thuật đen
Trước tiên, chúng tôi muốn trình bày vài nét phân biệt cần thiết. Quan
niệm nghệ thuật đen của Thanh Tâm Tuyền khác với Phong trào Nghệ thuật đen ở Mỹ
hậu bán thế kỷ XX[9]. Đối
tượng mà nhà thơ hướng đến là những kẻ yếu thế nói chung với góc khuất sâu kín
trong tâm hồn cần được đối xử công bằng, cần được thừa nhận. Không riêng gì
người da đen, Thanh Tâm Tuyền hướng đến hết thảy tâm hồn khiếp nhược bị khước
từ hoặc chấp nhận bị khước từ. Trong khi, phong trào nghệ thuật đen (BAM) bắt
nguồn từ những hoạt động đấu tranh nhân quyền cho người da đen. Và chủ yếu,
phong trào hướng đến mục tiêu đòi hỏi công bằng nhằm phát triển toàn diện đời
sống vật chất và tinh thần của người da đen tại Mỹ nói chung.
Vậy Nghệ thuật đen của Thanh Tâm Tuyền là gì ?
Đó là nghệ thuật của sự phẫn nộ. Thanh Tâm Tuyền lên tiếng cho một phần
sự thật xưa nay luôn bị những nhà luân lý và tư tưởng chính thống kìm nén, lờ
đi, hoặc xua đuổi. Thanh Tâm Tuyền đứng về phía những kẻ yếu hèn. Chúng ta nhìn
thấy nhà thơ như người hoạt động cho dân chủ và tiến bộ. Đó là một tuyên ngôn:
“Gọi nghệ thuật đen thứ nghệ thuật
bi đát phẫn nộ, thứ nghệ thuật dục tính suồng sã, thứ nghệ thuật vô luân trắng
trợn. Thứ nghệ thuật bị các nhà đạo đức lên án, bị con người văn minh chối
nhận, .......– những người rất ngược nhau lại gặp nhau ở điểm này. Gọi nghệ
thuật đen là nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi”
trong xã hội. Nhưng này, tất cả những nhà đạo đức, những người văn minh,
........., hãy nhận lấy một sự thực: “mọi” cũng là người và nghệ thuật của
“mọi” cũng là nghệ thuật của người. Và bọn “mọi” ấy cũng muốn được phát biểu ý
kiến như các ngài vậy”[10].
Trong bài viết này chúng tôi đặc biệt chú ý đến khía cạnh ưu tiên bộc lộ
và chân thành thể hiện những bí mật sâu thẳm trong đời sống tinh thần không
dừng lại ở mặc cảm da vàng ương hèn và bi kịch ăn bám như một nỗi đau Việt Nam
thời bấy giờ[11]. Và thơ
Thanh Tâm Tuyền, thật sự, đã đạt được chiều sâu tư tưởng, đụng chạm đến từng tế
bào căn cựu nhất trong cảm xúc con người - những cảm xúc rất con người. Cũng do
thế mà thơ ông ghi lại được những tâm chấn của linh hồn đớn đau tột cùng giữa
vùng lầy của chúng ta hay sự sa lầy của đời sống mà ai ai cũng phải đối diện.
Tuổi hai mươi như thế kỷ nỗi buồn - mất mác – bấn loạn – đau thương – giải
thoát. Thế giới thơ Thanh Tâm Tuyền đầy rẫy những đột biến hiện sinh; và những
hình ảnh thơ ông, vì thế, là những dị thể và quái thai của tâm hồn Việt bị quy
về mẫu số chung của hiện tồn hoạt thể[12]
trong bối cảnh đô thành đi vào ngõ cụt thảm chiến, đổ nát và hỗn loạn.
Tại sao lại phải có nghệ thuật đen ?
Từ linh hồn Nietzsche trong tư thế phản kháng mọi giá trị giả dối, lố
bịch đang còn ngổn ngang xung quanh, Thanh Tâm Tuyền đứng ra vạch trần bộ mặt
trưởng giả, yếu hèn và cả tin của lũ người bị tha hóa. Đó là các nhà luân lý,
các nhà khoa học, các đồ vật nói tiếng người. Vì “hai tay nắm chặt hư vô”,
chúng ta cần có nghệ thuật đen để: có thể mang lại thế cân bằng cho tồn tại
đích thực, có thể phô bày chân thật nhất từng u nhọt đớn đau của cuộc sống,
trắng mặt với sự phi lí thảm hại của “cái
việc gọi là sống” đang diễn ra mà không được nhận ra.
Chúng ta không giả dối, không run sợ, không chạy trốn bao nhiêu bất cập
và bất khả xảy đến với mình. Nghệ thuật đại diện cho những người đã thức tỉnh
trong cuộc hiện sinh và quay đầu lại chống chọi với những bi kịch căn cựu ngay
tại cuộc đời mình. Không chạy trốn, không tự lừa dối, không xa lánh, đó là thái
độ cần có để nghệ thuật đen tồn tại và cũng là nét nổi bật của nghệ thuật đen.
Nghệ thuật hôm nay, nghệ thuật đen không phải thứ nghệ thuật hũ nút, phá
phách, trụy lạc, ngu muội, thoái hóa; càng không phải dấu hiệu lâm chung của
đời sống. Như đã nói, nghệ thuật đen có đấy để cứu chuộc những tật nguyền u tối
còn ẩn khuất trong tầng bậc sâu thẳm nhất của tâm hồn người. Nhờ đó, chúng ta
có thể nhìn thấy hậu quả của những biến động xã hội ảnh hưởng đến tinh thần
người như thế nào, thấy được những dị dạng khiếp đảm. Điều này có thể tìm thấy
ở những hình ảnh và biểu tượng thành hình từ kỹ thuật và tư duy siêu thực trong
thơ Thanh Tâm Tuyền.
Những đặc trưng của nghệ thuật đen là gì ?
Nói về đặc trưng của nghệ thuật đen,“trước
hết là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu bằng sự chia lìa
cần thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự nhận thức cao thấp
là tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt....”[13].
Thanh Tâm Tuyền nhấn mạnh trước hết là sự phân ly của ý thức hay sự từ bỏ. Không
một chi tiết nào cho chúng ta thấy rõ ảnh hưởng của Nietzsche đến nhà thơ như ở
vấn đề rũ bỏ các giá trị cũ và rũ bỏ bộ mặt trưởng giả lố bịch của xã hội. Sự
hài lòng với các đặc tính của sự vật lầm lì (Sartre tóm vào trạng thái buồn
nôn) hay sự bằng lòng yếu hèn của con người; Thanh Tâm Tuyền cho rằng như thế
không phải nghệ thuật, hay chí ít chỉ là nghệ thuật lừa –nghệ thuật của những
kẻ nịnh hót cuộc đời. Bắt đầu từ nhận thức, nghệ thuật đen mang ý muốn thức
tỉnh mọi người hãy vươn lên và thiết lập các hệ giá trị độc đáo của cá nhân. Để
trên từng dấu chân, con người luôn ghi khắc dấu ấn độc đáo của mình. Ý chí
khẳng định mình, ý chí tồn tại; bằng cách tác động đến ngoại vật, để ngoại vật
nhuốm màu chủ thể. Đề cao vai trò của ý chí, điều này xuôi chúng ta quay lại
nguồn cội tư tưởng Nietzsche – hay Schopenhauer. Mặc dù vậy, Thanh Tâm Tuyền
không sa cào duy tâm thuần túy. Vì ở nhà thơ, các biểu tượng chẳng hạn, đã trở
thành những đối tượng ý chí có tính vật chất, tồn tại như những vật chất trong
đời sống tinh thần. Ý chí đã lìa bỏ những đặc tính lầm lì tại nó một cách vô
nghĩa hoặc bị quy định. Ý chí đòi hỏi, và do đó, đã vươn lên sáng tạo.
“Nghệ thuật đen bắt đầu bằng một ý
thức chia lìa ghê gớm đó. Chia lìa ghê gớm thế là nghĩa gì? Đó là một bệnh
trạng của trí thức thời nay chăng? Không. Đó là khởi nguyên của ý thức là mầm
mống của thay đổi, của sáng tạo. Sự chia lìa ghê gớm kia là điều kiện cho một
nhận thức sâu xa về đời sống, rũ bỏ những huyễn ảnh của kẻ bấy lâu ngồi trong
hốc đá chỉ nhìn những bóng chiếu in trên vách mà tưởng là sự thật”[14].
Phải nói thêm rằng, từ chỗ nhìn thấy sự phân ly của ý chí và đối tượng,
Thanh Tâm Tuyền càng khẳng định đặc tính và điều kiện cho sáng tạo là đớn đau.
Chỉ trong đớn đau, các động lực sáng tạo mới được kích thích triệt để và là ngõ
đường cùng khiến kẻ sáng tạo không thể thoái lui hay lẩn tránh. “Như con nai bị
chiều giăng lưới”. Đó là sự bi đát – tuyệt vọng – chìm ngập trong nỗi đau. Nên
lưu ý, vì nỗi đau hay niềm “cô độc sâu” ở đây không đơn thuần là những vết
thương của đời sống cảm xúc. Hơn thế, đớn đau là hậu quả do “sự chia xé tan
hoang của một ý thức tận trong phần sâu hút của nó bơ vơ trơ trọi ngoài đời
sống muốn trở về gia nhập nhưng không thỏa mãn với trật tự hiện hữu và chưa
nhìn thấy cái trật tự tìm kiếm”[15].
Đau đớn vì nhận ra vẻ ác độc của bóng đêm nhưng không chạy đâu được trước buổi
chiều chắc chắn ập đến không gì cưỡng lại được, còn vì “nai” kia không chắc có
tìm thấy bình minh hay không ? Nghệ thuật đen, do đó, luôn trong tư thế vùng
vẫy – giẫy thoát, muốn trào ra và rút lại cô đọng thành những niềm cô độc sâu,
những lệ đá xanh, những “trời không xanh không tím không hồng”. Thừa nhận đôi ý
hướng mâu thuẫn trong bản thân nó, nghệ thuật mà Thanh tâm Tuyền chủ trương
luôn biến động và dữ dội. Đó là cái hố đen xoay tít, tập trung vật chất một
cách cao độ và có sức hút ghê gớm với những người đọc cứng đầu nhất. Nhưng bọn “zombie”
trưởng giả - phóng thể - tha hóa hầu như run sợ với nghệ thuật đen. Không chấp
nhận – lẩn tránh – xua đuổi – chửi bới – quy trục...là những thái độ mà những
người kiểu “zombie” gán cho nghệ thuật đen.
Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng, nghệ thuật đen đứng về phía những kẻ
yếu thế bị xã hội lưu đày và nêu cao tinh thần dân chủ trong sáng tạo. Chính
Thanh Tâm Tuyền đã nói ngay từ đầu – nghệ thuật đen là nghệ thuật của “mọi”.
“Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hồn
bắt đầu ngày tháng”
(Đen – Liên-đêm-mặt trời tìm thấy,
1964)
Về tinh thần dân chủ trong sáng tạo xin tiếp tục ở phần sau.
4. Về sáng
tạo, về thơ
Sáng tạo nghệ thuật đích thực cần đến dân chủ như bầu trời no nê thanh
khí cho tinh thần chia lìa đối tượng thỏa thê bay lượn. Đó không thể là dân chủ
vô tổ chức, vì nó luôn vươn đến con người và thể hiện các vấn đề của tồn tại
người. Sáng tạo cần dân chủ như một khát khao chính đáng, thành thật và phải
lẽ. Tiếng nói của những người văn minh, những nhà luân lý, những triết gia đủ
mọi thành phần, những tiếng nói của chính thể, tất cả dường như đè bẹp tiếng
nói của “mọi”. “Mọi” vừa là những thân phận nhỏ, những kiếp người bi đát, và
còn là bóng dáng “tiểu quỷ”[16]
trong tâm hồn người. Có dân chủ giữa các tiếng nói ấy – nghĩa là có lắng nghe
và đối thoại – sáng tạo mới khai sinh theo đúng ý nghĩa ban sơ của nó.
Mở đầu Nghệ thuật đen, Thanh Tâm Tuyền nêu ngay ba đại diện nặng ký
của đời sống kèm theo phát biểu về nghệ thuật đen mà ông chủ trương. Ông khẳng
định, sáng tạo nghệ thuật không cầu viện đến sự đồng tình của đạo đức luân lý,
văn minh giả tạo và ngay cả triết lý. “Văn chương gần gũi với triết lý, liên hệ
với triết lý nhưng chẳng thể đồng hóa với triết lý”[17].
Đối với Thanh Tâm Tuyền, sáng tạo nghệ thuật nhằm phơi bày cơn khủng hoảng tột
độ của xã hội vật chất; và trên con đường ấy, nó đạp phăng mọi rào cản cố cựu
lỗi thời và nặng nề đè nén sự phát triển tự nhiên của tâm hồn người, nó không
“tư vị” bất kỳ một chướng ngại vật nào. “Nhưng ngay trong lãnh vực văn chương,
cái tham vọng của nhà văn muốn đồng hóa văn chương với triết lý bao giờ cũng
dẫn tới sự thất bại trên bình diện nghệ thuật – không kể đến thứ văn chương
đồng hóa với luân lý hay với chính trị là thứ phản-văn-chương”[18].
Nó công tâm phán xét và bày biện tâm hồn con người. Chính vì thế nó đầy đủ và
rộng lớn. Nhiều triết gia soi thấy bóng mình trong tác phẩm nghệ thuật.
Nietzsche mừng rỡ gặp lại người “họ hàng thân thuộc” Dostoyevsky. Đọc bản pháp
văn L’Eprit
souterain (Hồi ký viết dưới hầm), Nietzsche gọi đó là “những tình cờ
hạnh phúc nhất đời”[19].
Thật thế, sáng tạo cần đến triết lý nhưng sẽ rũ bỏ triết lý cũng như tất cả
những gông cùm ảnh hưởng khác chỉ để trở thành chính nó mà thôi. Sáng tạo nghệ
thuật cũng rộng lớn như biển cả, nơi đủ chỗ cho hết thảy nhưng hết thảy đều
không có chỗ đứng. Vị trí duy nhất, cái toàn thể, là chính tác phẩm với sự linh
thiêng của tác giả. Những chia sẻ của Thụy Khuê về văn chương Mai Thảo cũng
trong suy nghĩ ấy.
Với Thanh Tâm Tuyền, sáng tạo trong ánh sáng hiện sinh, còn là ý thức
siêu hình về “những cảnh ngộ của đời sống hôm nay, là biểu thị sự tự do của
những con người bằng xương bằng thịt trong những tình thế có thực của kiếp
người, là lời kêu gọi cất lên cùng mọi người trong cuộc hành trình lịch sử phải
sống”[20].
Đó là hình bóng Dionysos hiện lên với với dáng vẻ anh nhân tình cường tráng,
hay sự giận dỗi và nóng nảy. Hắn cũng trần tục với tất cả khía cạnh suồng sã
dục tính, mang trong lòng tuồng kịch bi đát và một cá tính “vô luân trắng
trợn”. Hắn vừa đấy là tiếng cello trầm tịch, u uất và nặng nề, vừa là tiếng kèn
đồng đổ vỡ, ngổn ngang, chát chúa. Do đó, tìm hiểu sáng tạo nghệ thuật cần quan
tâm đến những động cơ sâu thẳm của tâm hồn và những “trạng huống thái quá của
tình ý”. Thanh Tâm Tuyền, trong ý tưởng đó, luôn luôn đứng về phía con người.
Nhà thơ là một trong số ít người bênh vực những điều thầm kín và dị quái ở tinh
thần vốn dĩ đã là một phần của đời sống nhưng xưa nay luôn bị loại khỏi “cuộc
chơi”, bị hắt hủi. Ông còn nhấn mạnh: “Dục tình trong nghệ thuật ở xứ ta là một
khu đất hoang chưa được khai thác trong khi thật sự nơi ấy, cũng như những hình
thái sinh hoạt nhân loại khác, tiềm ẩn cái ý nghĩa siêu hình của kiếp sống mà
nhận thức nghệ thuật có thể phơi mở”[21].
Văn chương Thanh Tâm Tuyền, do đó, mang tính chất tiên phong rõ rệt.
Thanh Tâm Tuyền thật sự là người tư cách và tiết tháo như cách nhận xét của
Đặng Tiến nhưng với văn nghệ ông nóng nảy, có tâm hồn của một thanh niên mới
lớn đầy xốc nổi – một nhân tình rất mực say đắm. Đôi khi tranh luận, Thanh Tâm
Tuyền sa vào cực đoan là vì thế. Trong Bộ biên tập của Sáng Tạo bộ mới, Thanh
Tâm Tuyền luôn thẳng thắn phê bình bằng hữu thân thiết. Dù tất cả có chung một
ý muốn cách tân văn chương nhưng cũng thật khó tìm thấy ở họ điểm chung. Thanh
Tâm Tuyền nói thẳng, ông không chịu được những nhân vật phẳng lì của Doãn Quốc
Sỹ. Về thơ, ông cũng là một anh chàng nóng nảy. “Cái mà anh Cung Trầm Tưởng gọi
là mẫu số chung không cần quy định. Nó chính là thơ rồi. Ta không cần phải định
nghĩa thơ. Thơ là cái gì người thơ làm ra và người đọc thơ nhận được. Còn không
nhận được thì có bao nhiêu định nghĩa cũng là thừa”[22].
Hầu như trong các cuộc tranh luận, ông luôn giữ một thái độ cương quyết và rạch
ròi như thế. Nhưng qua đây, chúng ta hiểu phần nào quan niệm thơ của ông.
Xin trích dẫn nguyên văn một phát biểu mà chúng tôi cho là thể hiện rõ
nét hơn cả quan niệm thơ Thanh Tâm Tuyền:
“Sự phân biệt của chúng ta về thơ
bây giờ, qua sự phân biệt về nội dung chứa đựng của thơ, rất cần thiết. Nhưng
thơ còn là một hiện tượng ngôn ngữ. Thơ bây giờ là một sự xáo trộn ngôn ngữ. Ta
phải ghi nhận công của phái Siêu thực Tây phương đối với ngôn ngữ. Khi tôi làm
thơ, ngoài mối ám ảnh chung về tư tưởng đức lý nói trên, còn theo đuổi một mối
ám ảnh về ngôn ngữ. Nhà thơ còn đóng một vai trò trong đời sống ngôn ngữ dân
tộc. Nhà thơ tầm thường là thợ ngôn ngữ. Có tài là kẻ sáng chế ngôn ngữ. Thắc
mắc của tôi là thơ bây giờ có tạo được một ngôn ngữ mới không?”[23].
Chúng tôi nhấn mạnh ở những điểm: - Sự cần thiết của nội dung; - thơ là
một hiện tượng ngôn ngữ; - hình thức ngôn ngữ Siêu thực; - mối ám ảnh về ngôn
ngữ; - nhà thơ và ngôn ngữ dân tộc; - sáng tạo thơ và sáng tạo ngôn ngữ. Phải
nói ngay rằng, Thanh Tâm Tuyền không đơn giản là một nhà hình thức. Tham khảo
đoạn trích có thể thấy ông coi trọng vai trò của nội dung. Nhưng với hiện trạng
thơ ca bấy giờ, khi người viết quá sa đà vào những nội dung cũ kĩ mà đánh mất
hình thức (hoặc quan tâm thái quá đến hình thức, cứ làm thơ với tâm niệm “xào
nấu” ra một hình thức thơ tân kì quái gỡ) khiến thơ trở thành một cái vỏ lòe
chữ. Nhà thơ như thế đã trở thành thợ chữ.
Đối với Thanh Tâm Tuyền, thơ là
một hiện tượng ngôn ngữ. Đạp đổ cái cũ để bước tiếp về trước nhưng chỉ tiếp
bước khi nào đã nhìn thấy lối đi, nghĩa là xây dựng lại. Rũ bỏ để mà tái
dựng.... Và việc tái thiết cơ cấu ngôn ngữ thật cần thiết. Tất nhiên, sự cách
tân ấy chỉ trở nên triệt để khi nó bắt nguồn từ gốc rễ của tư duy nghệ thuật.
Đề cao Siêu thực, chúng ta còn hiểu thêm tính cách mạng của trường phái ấy ở
chỗ khai phá địa hạt sâu thẳm và hầu như xưa nay rất khó nắm bắt – phi ý thức.
Đó phải chăng là cách hiểu của Thanh Tâm Tuyền về Siêu thực bên cạnh công lao
của trường phái này ở khía cạnh ngôn ngữ. Bên cạnh đó, chúng tôi nhìn thấy điều
đáng ghi nhận nhất ở nhà thơ là tinh thần đóng góp vào thơ ca thế giới bằng vốn
liếng dân tộc. Tất nhiên, những vốn liếng dân tộc mà nhà thơ đóng góp cho thơ
ca thế giới thành công đến đâu, thiết nghĩ, cần nhiều công sức và thời gian hơn
để bàn luận. Duy nhất, phải nói rằng, quan niệm thơ Thanh Tâm Tuyền là một quan
niệm hướng đến tính toàn diện, triệt để và tiến bộ. Có thể vội vàng nhưng Thơ
ca Việt Nam hiện đại hòa vào dòng chảy thế giới một phần có thể nhìn thấy qua
trường hợp Thanh Tâm Tuyền và đóng góp của ông đối với thơ ca Việt Nam hiện đại
là điều cần phải được ghi nhận.
***
Tựu trung, chúng tôi nhìn thấy ở nhà thơ Thanh Tâm Tuyền thái độ nóng nảy
và cuồng nhiệt của anh nhân tình Dionysos, người phá tung mọi thiết chế nghệ
thuật mà tại đấy văn chương đóng băng. Thiết nghĩ, sự mới mẻ hẳn hoi thường
khởi xuất từ những ngông cuồng bồng bột như thế. Không ngại ngùng trước bao
nhiêu ánh nhìn dè bỉu xung quanh (một tượng đài “kính nhi viễn chi”), Thanh Tâm
Tuyền hướng đến nghệ thuật tương lai. Nơi mà tiếng nói của “Mọi” cũng được
ngang nhiên hiển hiện dưới ánh mặt trời. Chính ở điều này mà chúng tôi cho
rằng, nhất thiết, phải thừa nhận những thành tựu cách tân táo bạo và nhiệt
thành của nhà thơ. Thơ ca Thanh Tâm Tuyền mang tính chất tiên phong ở góc nhìn
đổ vỡ và thắng thắn soi sáng phần sâu kín nhất của tinh thần người. Nhưng người
đọc hẳn phải mang tự do làm chìa khóa bước vào trời thơ ấy; vì chỉ có tự do mới
sống với tự do. Và nghệ thuật rất mực trinh nguyên thoát sinh từ giây phút hồng
hoang, cuồng vọng như thế.
Và hơn hết, Thanh Tâm Tuyền vẫn là một người làm nghệ thuật, ưu tư không
thôi về kiếp người, không ngừng hiện diện với thế giới trong ý nghĩa đầy đủ của
từ này. Ông đứng về phía “mọi”, nơi những tiếng nói thấp bé bị đè nén và chèn
ép. Đó là nghệ thuật đen, nghệ thuật ngang nhiên thể hiện cái chân chất của
cuộc sống. Không giấu giếm - che đậy - ra vẻ, nghệ thuật Thanh Tâm Tuyền ghi
dấu bằng chất ngọc đen tuyền, đẹp một cách mãnh liệt.
Tài liệu tham khảo
1. Dương Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm
Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên khảo đăng nhiều kỳ
trên litviet.org.
2. Nhiều tác giả (1965), Thảo luận,
Nxb Sáng Tạo, Saigon.
3. Nietzsche F.(2007), The Birth of
Tragedy and Other Writings, Cambridge University Press, London.
4. Nietzsche F. (2006), Buổi hoàng
hôn của những thần tượng hay Làm cách nào triết lý với cây búa, Nxb Văn
học, Hà Nội.
5. T.V.Phê (2006), Thanh Tâm Tuyền
– người khởi xướng thơ tự do Việt Nam, (http://www.hocxa.com/VanHoc/ThanhTamTuyen/_ThanhTamTuyen_Index.php)
[1] Dựa trên
những thông tin thu thập được của nhà nghiên cứu Thụy Khuê cùng những chia sẻ,
hồi tưởng của những bạn văn một thời của Thanh Tâm Tuyền.
[2] T.V.Phê
(2006), Thanh Tâm Tuyền – người khởi xướng thơ tự do Việt Nam,
(http://www.hocxa.com/VanHoc/ThanhTamTuyen/_ThanhTamTuyen_Index.php)
[3] T.V.Phê
(2006), Thanh Tâm Tuyền – người khởi xướng thơ tự do Việt Nam,
(http://www.hocxa.com/VanHoc/ThanhTamTuyen/_ThanhTamTuyen_Index.php)
[4]
Thivien.net
[5] T.V.Phê
(2006), Thanh Tâm Tuyền – người khởi xướng thơ tự do Việt Nam, (http://www.hocxa.com/VanHoc/ThanhTamTuyen/_ThanhTamTuyen_Index.php)
[6] Nietzsche
F.(2007), The Birth of Tragedy and Other Writings, Cambridge University Press,
London, p.120.
[7] Nietzsche
F.(2007), The Birth of Tragedy and Other Writings, Cambridge University Press,
London, p.120.
[8] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[9] The
Black Arts Movement, Black Aesthetics Movement or BAM is the artistic outgrowth
of the Black Power movement that was prominent in the 1960s and early 1970s.Time
magazine describes the Black Arts Movement as the "single most
controversial movement in the history of African-American literature – possibly
in American literature as a whole."The Black Arts Repertory Theatre is a
key institution of the Black Arts Movement. (https://en.wikipedia.org/wiki/Black_Arts_Movement)
[10] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[11] Dù
rằng, ở đây, chúng ta thấy tác giả dành nhiều tình cảm đáng quý cho quê hương
dân tộc. Nhưng nhà thơ không dừng lại ở mặc cảm thân phận của người Việt, cái
ông hướng đến mang tính cơ bản hơn – vấn đề con người nói chung.
[12] Theo
cách dùng chữ của thi sĩ Bùi Giáng.
[13] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[14] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[15] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[16] Cái tôi
“tiểu quỷ” trong cách nghĩ của S. Freud hay động năng dục tính (libido)
[17] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[18] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[19] Nietzsche
F. (2006), Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay Làm cách nào triết lý với
cây búa, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.216.
[20] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên khảo
đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[21] Dương
Nghiễm Mậu (?), Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo, Tập biên
khảo đăng nhiều kỳ trên litviet.org.
[22] Nhiều
tác giả (1965), Thảo luận, Nxb Sáng Tạo, Saigon, tr. 125.
[23] Nhiều
tác giả (1965), Thảo luận, Nxb Sáng Tạo, Saigon, tr. 130.
Comments
Post a Comment