NHỮNG GỢI MỞ TỪ BÀI VIẾT “ VĂN CHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM” CỦA
NGUYỄN VỸ TRÊN PHỔ
THÔNG TẠP CHÍ
[Võ Quốc Việt - Khol V., 2018]
Mở đầu
Hoạt
động văn chương từ trước 1945 cho đến khi vào Nam hoạt động báo chí ở Saigon,
Đà Lạt, Nguyễn Vỹ đã tạo dựng được uy tín và chỗ đứng trong làng báo miền Nam.
Thế nên, nói về Nguyễn Vỹ là đề cập đến hai địa hạt: báo chí và văn chương. Giá
trị văn chương mà ông mang lại trong các tác phẩm của mình, có lẽ, còn cần nhiều
thời gian để đánh giá bàn luận; tuy nhiên, sự nghiệp văn chương và báo chí mà
ông để lại là di sản xứng đáng được ghi nhận. Đó cũng là phần đóng góp của ông
đối với văn chương nước nhà nói chung.
Nguyễn
Vỹ làm chủ bút Phổ thông tạp chí từ
1958. Chủ trương của Phổ thông là góp
phần xây dựng văn hóa Việt Nam, xây dựng tinh thần dân tộc cho văn chương và tư
tưởng Việt Nam nói chung. Thế nhưng, với chủ trương như thế, không có nghĩa là Phổ thông tự hạn chế trong phạm vi chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, cục bộ. Thực tế, Phổ
thông còn hướng đến quảng bá văn hóa, văn học đông tây kim cổ. Trong tinh
thần đó, Nguyễn Vỹ có bài viết đăng nhiều kì trên Phổ thông. Bài viết “Văn
chương và tư tưởng Việt Nam”, đáng chú ý trước hết là cách đặt vấn đề và khả
năng gợi mở của người viết. Nguyễn Vỹ đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa to lớn.
Tuy nhiên, trong phạm vi những đoạn trích ngắn đăng nhiều kì trên tạp chí thì
những ý kiến của nhà văn đôi chỗ cần phải bàn luận thêm. Thế nhưng, điều đáng
quý ở ông trong những đoạn trích này là cái “tâm” đối với văn hóa nước nhà, đối
với quốc gia dân tộc. Cho nên, có thể nói, bài viết là sự gợi mở cho chúng tôi
cũng như nhiều bạn đọc khác cùng suy ngẫm thêm về nguồn gốc và sự vận động phát
triển của văn hóa Việt Nam. Chúng tôi cho rằng đóng góp của Nguyễn Vỹ là đặt ra
đúng chỗ cần thiết mà chúng ta cần nhìn nhận lại trong việc xây dựng văn hóa
dân tộc. Chính ở đây, những ý kiến của ông trở nên có ý nghĩa sâu rộng không chỉ
đối với bối cảnh bấy giờ mà còn có ý nghĩa cho thời đại của chúng ta hiện nay.
1.
Tiếng
Việt trong mối liên hệ với cổ ngữ và thổ âm Trung Hoa.
Theo
Nguyễn Vỹ, tiếng Việt hiện thời là kết
quả cuộc giao lưu tiếp biến văn hóa với các dân tộc gần gũi về mặt địa lý.
Trong đó, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi chữ Hán. Ngoài ra, “tiếng nói của người Việt Nam không những do
nguồn gốc của cổ ngữ Tàu, hoặc là hỗn hợp các thổ ngữ của các giống người Tàu
mà còn hỗn hợp với các giống thổ dân địa phương nữa: Chàm, Mường, Thái, Thổ….”[1]. Tiếng nói giữ phần hồn của
dân tộc. Tiếng mẹ đẻ là một trong những nền tảng căn cựu cấu thành văn hóa dân
tộc. Thế nên, đặt ra vấn đề quá trình hình thành và phát triển của tiếng Việt
cho thấy ngụ ý của tác giả là hướng đến truy tầm phần cốt lõi của tinh thần dân
tộc. Tuy nhiên, quan điểm của Nguyễn Vỹ phải chăng nên trao đổi thêm. Vì “CHÍN PHẦN MƯỜI NGƯỜI TÀU NÓI THEO GIỌNG VIỆT.
Đó là căn cứ trên phương âm của Tàu hiện nay mà nói. Theo các nhà ngôn ngữ thì
Tàu có tất cả 10 phương âm, trong đó Trung Nguyên của Tàu chính cống chỉ là một
gồm đông Thiểm Tây, Bắc Hà Nam, Nam Hà Bắc, Nam Sơn Tây. Ngoại giả là Tàu đọc
giọng Lạc Việt gồm:
1. Tần ngữ: ở Thiểm Tây được coi như
tiếng tiền quan thoại.
2. Thục ngữ: là âm của người Thái
xưa.
3. Yên, Tề ngữ: Đông Di (Sơn Đông)
hay là Lạc Địch.
4. Sở ngữ: Kinh Man, Lạc Việt. Trung
tâm văn hóa nước Tàu.
5. Mân ngữ: Mân Việt ở Phúc Kiến.
6. Việt ngữ: Quảng Đông, Quảng Tây.
7. Giang Hoài ngữ: Bắc Giang Tô, Việt
Chiết Giang.
8. Ngô, Việt ngữ: Giang Tô, Chiết
Giang – Việt xưa.
9. Điền Kiềm ngữ: Vân Nam.
…………
…..người Tàu có mượn của Việt cả văn
minh (nỏ, đũa, thuyền, thủy vận) lẫn văn hóa: đạo thờ trời, gia tiên, ngũ hành,
giọng nói….”[2] Đưa ra hai giả thuyết này
chúng ta nhận thấy: phải chăng Nguyễn Vỹ đã nhìn thấy mối quan hệ chồng chéo giữ
ngôn ngữ Việt và cổ ngữ Trung Hoa. Tuy nhiên, có lẽ ông đã vội vàng khi cho rằng,
tiếng Việt có nguồn gốc từ cổ ngữ Trung Hoa hay nói khác đi là một hỗn hợp (kết
quả tiếp biến) của các phương âm của Hán cổ. Ngoài ra, tiếng Việt còn có cuộc
giao lưu tiếp biến với ngôn ngữ của những dân tộc khác. Có thể nói, quan điểm ấy
của Nguyễn Vỹ bắt nguồn từ cách hiểu của ông về vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt
Nam. Nếu chỉ truy tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam trong các sử liệu chính thống
mà đa phần chịu ảnh hưởng quan điểm và dựa trên cứ liệu của sử học Trung Hoa
thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, văn hóa nước Việt nằm trong vòng vây bành
trướng của văn hóa Trung Hoa; và ắt hẳn, người truy tầm dễ sa vào nhận định cho
rằng nguồn gốc văn hóa Việt Nam lệ thuộc một cách mật thiết với văn hóa Trung
Hoa. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy bề dày lịch
sử của văn minh Việt. Tất nhiên, bấy nhiêu bằng cớ trên cơ sở khảo cổ học, di
truyền học, nhân học, văn hóa và ngôn ngữ chưa đủ để đi đến kết luận cuối cùng
về nguồn gốc văn hóa Việt Nam với những đặc trưng cụ thể và minh xác như thế
nào; tuy nhiên, để đặt ra vấn đề Việt tính và những đóng góp của Lạc Việt đối với
văn minh Trung Hoa là có khả thi và có nền tảng tiến hành.
Tại
sao chúng ta lại đặt ra vấn đề này ? Trước hết, sự vội vàng của Nguyễn Vỹ kì thực
là một sự vội vàng hữu ích. Xác định mối quan hệ giữa Việt ngữ và Hoa ngữ (cổ
ngữ Tàu – xin gọi lại là Hán cổ) cho thấy nhà văn đã ý thức được vai trò của tiếng
nói dân tộc đối với quá trình hình thành và phát triển văn hóa của một dân tộc.
Tiếng nói định vị cho sự tồn tại của một dân tộc. Nhận định của Nguyễn Vỹ ở vấn
đề này có thể vội vàng và đôi chỗ thiếu bằng cớ nhưng điều đó trở thành sự đánh
động cần thiết cho cuộc truy tầm về nguồn gốc Việt ngữ mà nhiều nhà nghiên cứu
ngôn ngữ cùng thời với ông lẫn sau này đã cố công thực hiện và đạt được nhiều
thành tựu đáng kể.
Trở
lại với ý kiến của Nguyễn Vỹ về mối liên hệ của tiếng Việt với những ngôn ngữ
khác, ông cho rằng tiếng Việt không liên quan gì tiếng Mường ở vùng Thanh Hóa.
Thêm vào đó, ông cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc thổ ngữ Trung Hoa như tiếng
Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông. Ông chỉ ra: “tiếng ta lại giàu hơn là nhờ sự phối hợp với các yếu tố của thổ ngữ
Chàm, Thái và Khmer, các giống người này đã cùng chúng ta chung đụng trong hơn
mười thế kỷ”[3].
Ở đây, bỏ qua sự phán đoán có phần vội vàng, chúng ta nhìn thấy một điều đáng
quý; đó là sự giao lưu tiếp biến về mặt ngôn ngữ. Nhìn thấy điều đó, Nguyễn Vỹ
đã làm rõ thêm sự giàu có của tiếng Việt. Trong quá trình vận động và phát triển,
tiếng Việt không ngừng trau dồi và thâu nhận thêm vốn liếng ngôn ngữ của những
dân tộc khác. Tất nhiên, sự vay mượn là điều dễ hiểu nhưng bên cạnh đó, người
Việt cũng Việt hóa những gì vay mượn để đưa tinh thần dân tộc vào những gì tiếp
nhận được, xây dựng một ngôn ngữ nhuần nhuyễn với khả năng diễn đạt cụ thể lẫn tính
khái quát cao. Tuy nhiên, khi nói về mối quan hệ giữa tiếng Việt và tiếng Mường,
phải chăng Nguyễn Vỹ chưa chú ý nhiều đến mối quan hệ giữa hai đối tượng này. “Có lẽ Nguyễn Văn Tài (1978) đã có lý khi cho
rằng tiếng Việt và tiếng Mường đã tách nhau vào khoảng thế kỷ VII hoặc VIII sau
công nguyên. Như vậy thì trước đó hẳn là ngôn ngữ Việt Mường Chung đã được sử dụng
trong một bộ phận lớn cư dân ở miền Bắc Việt Nam. Văn hóa Đông Sơn tồn tại ở miền
Bắc Việt Nam từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ
II sau Công nguyên, có thể một phần lớn cư dân Đông Sơn nói ngôn ngữ Việt Mường
Chung. Điều này không loại trừ một bộ phận cư dân của văn hóa này nói ngôn ngữ
Thái. / Còn các văn hóa Tiền Đông Sơn mà bắt đầu là văn hóa Phùng Nguyên cách
đây khoảng 4000 năm, phân bố trong lưu vực sông Hồng, và các văn hóa cùng bình
tuyến trong lưu vực sông Mã và sông Cả, có thể đã nói ngôn ngữ Proto-Việt Mường”[4]. Có hai vấn đề chúng ta cần
lưu ý: 1- tiếng Việt tiền sử và thổ ngữ Hán cổ về quá trình hình thành, phát
triển và ảnh hưởng; 2- mối liên hệ giữa tiếng Việt và tiếng Mường cũng những
ngôn ngữ khác như Chàm, Thái, Khmer.
Thứ
nhất, nếu chúng ta sử dụng phương pháp huyền thoại để đọc huyền sử, truy nguyên
về những hằng số trong văn hóa Trung Hoa và tâm thức người Việt, ắt hẳn sẽ bắt
gặp những điều lạ lùng. Vì ngàn năm Bắc thuộc, không có thời nào không có anh
hùng nước Việt đứng lên chống đô độ phương Bắc; rồi gần ngàn năm từ Ngô Quyền đến
Nguyễn Huệ vẫn giữ lấy tư thế độc lập với phong kiến phương Bắc; nhưng trong
tâm thức người Việt vẫn không đả phá, bài chống Nho (Việt Nho). Ngược lại, truy
về nguồn gốc Nho giáo Trung Hoa, những giá trị hằng số cố cựu lại đậm chất
phương Nam, khác với tính chất du mục phương Bắc. Trong số đó, tiếng nói hay
ngôn ngữ nói chung là một khía cạnh mà chúng ta thấy mối liên hệ dường như còn
nhiều nghi hoặc giữa Hoa tộc[5] và Viêm Việt. Nhưng ở đây,
chúng ta có thể đi đến một giả định khả dĩ hơn phán đoán của Nguyễn Vỹ. Tiếng
Việt tiền sử không bắt nguồn từ thổ âm Hán cổ mà kì thực có mối liên hệ nhất định.
Hơn nữa, nếu chúng ta lật ngược vấn đề: phải chăng tiếng Phúc Kiến, Triều Châu,
Quảng Đông chỉ là một trong nhiều dấu vết của tiếng Việt tiền sử. Phải chăng tiếng
nói ấy là bằng chứng dấu vết thiên di của cư dân phương Bắc tràn vào xâm chiếm
phương Nam nhưng ngược lại bị văn hóa của kẻ thua cuộc chinh phục. Và trong cuộc
chung đụng bất đắc dĩ ấy, văn hóa cũng như tiếng nói của kẻ thua cuộc đã chiến
chắng kẻ xâm lược, hoặc ít nhất đã chìm lắng và để lại vết tích trong đáy hồ
văn hóa chứ không hề mất đi.
Vấn
đề thứ hai, mối liên hệ giữa tiếng Việt và tiếng Mường. Một điều có thể dễ dàng
nhận thấy là sự tương đồng khá nhiều về mặt ngôn ngữ. Tuy nhiên, chúng ta còn
phải xét đến mối liên hệ về mặt tộc người giữa hai đối tượng này. Vấn đề này
cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Từ thời Pháp thuộc cho đến giai đoạn
hiện nay đã có không ít công trình nghiên cứu về mối liên hệ này. Đa số các nhà
nghiên cứu thống nhất Việt và Mường xưa vốn dĩ là cùng một tộc sau đó rách ra,
tuy nhiên lí do và hoàn cảnh lịch sử nào khiến cho tộc người ban đầu tách ra
thành hai tộc Việt, Mường vẫn chưa có lời giải đáp cụ để và khả dĩ được chấp nhận
một cách rộng rãi. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến chủ trương Việt, Mường từ thuở
ban đầu đã là hai tộc người khác nhau và cả hai đều là di dân , không phải chủ
nhân ban đầu của miền Bắc Việt. Chúng tôi muốn xem xét cả hai ý kiến này. Đa phần
các nhà nghiên cứu (H. Maspero, A.G. Haidricourt, L. Bezacier, H. Marneffe…) chủ
trương ý kiến Việt , Mường cùng một tộc đều căn cứ trên mối liên hệ về ngôn ngữ
học, nhân chủng học, dân tộc học hay dựa trên các di chỉ khảo cổ và việc nghiên
cứu ngôn ngữ văn học dân gian. Trong khi đó, luồng ý kiến thứ hai (Tạ Đức – Nguồn
gốc người Việt người Mường) cho rằng cả hai tộc người này đều là di dân từ
phương bắc, kì thực là hai tộc người khác nhau thiên di xuống phương Nam, có
khác chăng là người Mường trước người Việt sau. Nhưng dù những người chủ trương
ý kiến thứ hai có cố công chứng minh hai tộc Việt, Mường tách rời nhau, nhưng
cơ hồ lại chỉ ra cả hai tộc người cùng một nơi phát xuất và có chung một con đường
phát triển là di chuyển xuống phương Nam. Tựu trung, dù có khác nhau về quãng
thời gian thiên di và chiếm lĩnh vùng đất Bắc Việt như ý kiến đã nêu thì hai tộc
Việt, Mường vẫn có chung nguồn gốc Bách Việt. Suy cho cùng, vẫn cùng thuộc phạm
vi và địa vực của văn hóa phương Nam thuần nông, là nơi phát xuất văn hóa Viêm
Việt. Thế thì, dù là ý kiến nào đi nữa thì cũng khó có thể chối cãi mối quan hệ
nhất định giữa hai tộc Việt, Mường; trong đó có phương diện tiếng nói.
Xuôi
theo dòng phát triển của tiếng Việt, Nguyễn Vỹ đặc biệt chú ý đến sự ra đời chữ
Nôm. Không như giọng điệu giễu nhại “con cá sấu mạn ngược” mà nhờ nó chữ Nôm ra
đời để nói đến chuyện chữ Nôm đã xuất hiện như thế nào; kì thực, chữ Nôm chỉ là
kí tự hóa tiếng nói của dân tộc bên cạnh việc đưa chữ Hán vào sử dụng từ thời
Sĩ Nhiếp trở đi. Không thể nói, đợi đến khi chữ Nôm ra đời thì tiếng nói dân tộc,
tính dân tộc mới được ghi nhận. Tiếng nói dân tộc vẫn phát triển song hành bên
cạnh việc sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, điều đáng quý là: “Bên cạnh tiếng Nôm là thứ tiếng thông dụng của tất cả các từng lớp nhân
dân, là tiếng nói thông thường, dễ hiểu, có một thứ tiếng văn hoa hơn gồm những
chữ Hán đã được Việt-nam-hóa”[6]. Nguyễn Vỹ chú ý đến hiện
tượng Việt hóa những yếu tố Hán ngữ để bổ sung thêm cho ngôn ngữ dân tộc, làm
phong phú thêm vốn liếng tiếng Việt. Tuy nhiên, vấn đề này lại có tính hai mặt.
Trong buổi giao thời Đông – Tây, Hán học suy tàn còn Tây học đương nổi, dễ gây
ra cảnh “nửa nạc nửa mỡ”. Với thực trạng như thế có nhiều hiện tượng “phương hại”
đến sự giàu đẹp của tiếng Việt. “Hiện nay
một số văn sĩ và ký giả không am hiểu Hán tự, và chưa thấu triệt ngoại ngữ, đã
dịch tiếng Anh và tiếng Pháp ra Việt ngữ mà dùng nhiều tiếng chữ sai lầm hết ý
nghĩa, lại càng gây thâm cái hậu quả rối loạn trong văn học Việt Nam. Sự thiếu
thốn một Viện-Hàn-Lâm và một bộ Từ-Điển Việt-Nam càng để di hại lớn lao cho tiếng
và chữ Việt Nam sau nầy”[7]. Quả thực, dù chúng ta
chưa bàn đến việc Nguyễn Vỹ đã giải quyết và trình bày rõ ràng đến mức độ nào,
tuy nhiên, riêng việc đặt ra những vấn đề này thôi đã cho thấy ông có sự quan
tâm và lo lắng cho sự phát triển của tiếng mẹ đẻ. Và chính ở đây, những suy
nghĩ của nhà văn Nguyễn Vỹ đáng để chúng ta ghi nhận. Có thể thấy, vấn đề “dịch
ẩu” hay thiếu nền tảng văn hóa và kiến thức chuyên môn trong việc dịch thuật
các tác phẩm văn học hiện nay không phải là vấn đề mới. Vấn đề dịch thuật quả
có nhiều điều để bàn luận, tuy nhiên, chất lượng dịch thuật có lẽ là cái mà
chúng ta cần phải nghĩ trước hết. Không thiếu những tác phẩm ngoại văn sau khi
chuyển dịch đã trở thành sự thóa mạ đối với nguyên tác. Không ít những bản dịch
đã phản bội nguyên tác. Từ Nguyễn Vỹ chúng ta có cơ hội nhìn lại thực trạng dịch
thuật hiện nay. Theo báo cáo của Cục xuất bản năm 2016 số lượng in và phát hành
sách in, xuất bản phẩm dạng điện tử và các loại xuất bản phẩm khác đều tăng từ
10% đến hơn 70% (dẫn theo Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ - Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam)[8], số lượng xuất bản phẩm được
chuyển dịch từ các tác phẩm ngoại văn ngày càng tăng, nhưng chất lượng các bản
dịch lại đi ngược lại. Phải chăng cơ chế thị trường đã khiến các “dịch thuật
viên rối tay, rối não”. Vấn đề này có lẽ cũng không còn mang tính thời sự nữa.
Bởi vấn đề này đã là chuyện nhà nhà đều biết. “Ai cũng hiểu, chỉ cố tình không
hiểu hoặc hiểu rồi thôi”. Nhiều xuất bản phẩm đã được đem ra bàn luận; nhiều
nhà xuất bản và công ty phát hành đã đứng ra cứu chuộc, nhiều người đã viết bài
phản ánh, nhiều kẻ đã hối hận bỏ tiền ra mua[9]. Mối nguy hại này, kì thực,
đã được Nguyễn Vỹ quan tâm đến từ những năm cuối thập niên 50 đến đầu những năm
60 của thế kỷ trước và hãy còn đang đặt ra cho những người có lòng với tiếng Việt
và văn chương Việt thời nay.
2.
Từ
tiếng nói đến nguồn gốc văn hóa Việt Nam
Trong
quá trình phát triển của tiếng Việt, Nguyễn Vỹ cũng chú ý nhiều đến những biến
đối của ngôn ngữ dân tộc từ khi chữ Hán mất vị trí ưu thế bởi việc sử dụng tiếng
Pháp trong giáo dục và các hoạt động xã hội khác. Việc sử dụng sai nghĩa, lầm
chữ, không phù hợp mà ông dẫn ra, cho chúng ta thấy ông rất “dị ứng” với những
kẻ vô tâm với ngôn ngữ dân tộc. Điều này làm chúng ta nghĩ đến việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa. Khi mà các
ngôn ngữ và văn hóa trên thế giới ồ ạt du nhập vào nước nhà. Cách thế mà người
Việt tiếp nhận cũng là điều đáng bàn cãi. Những ví dụ mà Nguyễn Vỹ dẫn ra trong
bài viết của mình thực sự trở thành vấn nạn cho ngôn ngữ dân tộc trong thời hiện
đại. Hiện tượng sính ngữ, chuộng ngoại hết sức phổ biến. Tất nhiên bên cạnh việc
bổ sung và làm giàu tiếng Việt thì hiện tượng này đang bóp méo tiếng mẹ đẻ của
chúng ta. Khi mà sự tiếp thu không dựa trên tinh thần dân tộc chân chính thì điều
đó trở thành một cuộc xâm lược không súng đạn vào thiết chế tinh thần, tư tưởng
và vốn liếng văn hóa dân tộc. Những trung tâm ngoại ngữ hàng ngày hàng giờ vẫn
mọc lên như nấm. Từ trẻ con đến người trưởng thành cứ ê a tiếng ngoại quốc một
cái miệt mài. Người Việt không chú trọng dạy con mình tiếng Việt mà chỉ muốn
con thông thạo tiếng Đại Hàn, tiếng Nhật, tiếng Thái, tiếng Trung, Anh, Pháp, Đức,
Tây Ban Nha….thậm chí muốn con mình quên hẳn đi tiếng Việt, chỉ cần thạo một
ngoại ngữ là được. Đây rất có thể là những đồn lũy mới không đạn dược nhưng sức
công phá của nó vào tiếng nói dân tộc là điều hoàn toàn có thể nhìn thấy. Hội
nhập nhưng đánh mất bản sắc dân tộc là bán nước. Vấn đề mà Nguyễn Vỹ đặt ra và
chúng tôi đang bàn ở đây không có gì mới mẻ nhưng thực sự cấp thiết. Đọc lại
Nguyễn Vỹ, chúng tôi thực sự trân trọng tấm lòng của ông đối với tiếng nói dân
tộc. Điều đó cho thấy một trái tim nhiệt thành vì quốc gia đồng bào.
Tóm
lại, từ những vấn đề đã gợi mở ở phần trên, chúng tôi muốn đặt ra thêm vấn đề nguồn
gốc văn hóa Việt Nam trong mối liên hệ với Hoa tộc. Ai đã tiếp thu ai, Việt tộc
hay Hoa tộc ? Đối với vấn đề này, chúng tôi chỉ có thể dừng lại ở mức độ gợi mở
và đưa ra ý kiến trao đổi. Kì thực, cần có nhiều thời gian và công sức hơn nữa
may ra mới trình bày được vấn đề một cách xác đáng.
Cùng trở lại tìm những vết
tích trong văn hóa Việt tộc và hoa tộc:
“
– Tục cúng tế tổ tiên và tế xã (Creel, tr.320)
-
Coi
bói mu rùa và nhà chữ đinh (Creel, tr.60).
-
Nhà
cất theo hướng từ trường (Creel, tr.64) nên đoán là đã tìm ra kim chỉ nam.
-
Có
cái lịch (nồi ba bề) với hệ thống số ba được đề cao (Creel, tr.43,91).
-
Có
tầm tang (Creel, tr.85). Có hội mùa xuân (tức tôn giáo phong nhiêu và tế tự còn
đi sát với dân nên tồn tại lâu, xem Eberhard, tr. 27).
Đó
là những yếu tố căn bản làm thành văn hóa mà tôi gọi là Việt nho. Vậy thử hỏi
những yếu tố ấy bởi đâu ? Phải chăng nhà Thương vốn có từ trước hay là chiếm đoạt
của dân bị trị, thuộc nền văn hóa Long Sơn và Thành Tự Nhai ?”[10]
Về
ý kiến này, độ xác đáng và giá trị khoa học hẳn chưa vội bàn đến nhưng chúng
tôi muốn chú ý tới cách đặt vấn đề. Truy tìm về nguồn gốc văn hóa của một dân tộc
nếu chúng ta “khư khư” bám vào cứ liệu lịch sử, cụ thể là sử liệu chính thống của
nhà chép sử (dừ thời đại nào và dân tộc nào đi nữa), ít nhiều cũng mang tính chủ
quan. Mỗi cá nhân hẳn nhiên sẽ chịu sự chi phối của bối cảnh thời đại, những
quy phạm xã hội mà họ đang sống, chưa kể đến áp lực của giới cầm quyền. Thế
nên, những cứ liệu ấy ít nhiều mang tính chất định hướng. Vậy nên, phải chăng để
hiểu và để tìm cho được thực chất hằng số văn hóa của dân tộc cần phải nhìn và
lắng nghe chính tiếng nói của nhân dân. Tiếng nói, tư tưởng, nếp nhà nếp ở của
nhân dân là những trầm tích lắng sâu vào đáy hồ văn hóa dù có chìm lặng qua
hàng ngàn năm nhưng nếu những giá trị văn hóa ấy đã trở thành đặc trưng cho dân
tộc, ắt hẳn, sẽ vẫn tồn tài dù có mờ khuất hoặc bị bóp méo, xuyên tạc. Từ bài
viết của Nguyễn Vỹ, chúng ta cần nghĩ nhiều đến việc truy tìm về nguồn gốc văn
hóa Việt Nam, và thêm vào đó, suy nghĩ cả phương cách để truy tìm cho phù hợp.
Đi
sâu hơn về chỗ dị biệt về đặc trưng của cư dân phương Nam (Viêm Việt, Lạc Việt)
và phương Bắc (Hoa tộc); “mặc dầu ngay từ
buổi đầu nhà Chu đã xưng mình thuộc dòng nông nghiệp, nhưng các học giả vẫn gọi
nền văn hóa đó là du mục (monadisme patriarchal hay là pastoral ngược với
vegetal world của Đông Nam…Need, II, tr. 576) tức là khác hẳn với nền văn hóa
phương Nam của Viêm Việt luôn trung thành với các yếu tố nông nghiệp: nhu thuận,
bình sản, tự do, ưa hồn nhiên đột khởi hơn công ước (sính lễ), trọng tình cảm
hơn lý trí…. và thế là trở thành hai khuynh hướng chống đối nhau xuyên qua bốn
ngàn năm lịch sử mà ba chặng lớn có thể kể tới là Long Sơn, Đông Chu, và Tần
Hán (Archéo, tr. 444)”[11]. Chính ở chỗ dị biệt này
chúng ta nhìn thấy sự khác nhau rõ rệt về tính chất (chủ tính) của hai giai đoạn
Nho trong lịch sử Trung Hoa. Từ thời Xuân Thu sang Chiến Quốc, sự vận động và
phát triển của Nho giáo có chỗ biến tướng. Từ chỗ trọng tình/đức trị đến chỗ trọng
lý/pháp trị. Đó chính là quá trình mà yếu tố phương Nam (hằng số Viêm Việt) dần
bị tư tưởng bá quyền bành trướng làm cho mờ phai và đè bẹp, Nho giáo cũng do vậy
mà thay đổi. “Vì thế, mỗi khi nói tới Việt
nho phải hiểu vào thời Xuân Thu trở về trước, còn từ thời Chiến Quốc về sau thì
là một loại Nho khác”[12]. Tuy nhiên dù có bị vùi dập,
bóp méo thì hằng số văn hóa phương Nam Viêm Việt vẫn tồn tại trong tâm thức
nhân dân, “Tôi đã nói về chính trị và độc
lập lãnh thổ, các vì Vua chúa và toàn dân đều quyết liệt chống lại cuộc đô hộ của
Tàu. Cho đến những cô thiếu nữ và những nàng thiếu phụ 21, 22 tuổi cũng hăng
hái phất cờ khởi nghĩa để đánh đuổi quân thù. Nhưng, lạ thay, trên địa hạt văn
hóa, Ông cha chúng ta đã tỏ ra triệt để lệ thuộc người Tàu. Mười chín thế kỷ, tất
cả cuộc sinh hoạt tinh thần và tri thức của dân tộc Việt Nam đều rập theo
khuông mẩu của Tàu”[13]. Sự rập khuôn mà Nguyễn Vỹ
nói đến trong bài viết, chúng ta cần có cách nhìn nhận phù hợp. Thực sự, nhà
văn đã tinh ý phát hiện ra điều kì lạ gần như mâu thuẫn trong việc tiếp nhận
Nho giáo. Tuy nhiên, ngay trong sự tiếp cận đó, chúng ta vẫn nhìn thấy hai
phương diện tiếp nhận. Người Việt tiếp nhận Nho giáo nhưng cũng bài bác Nho
giáo. Nhưng tại sao lại như vậy ? Kì thực, người Việt tiếp nhận yếu tố Nho, chủ
tính Nho vốn dĩ là hằng số Viêm Việt còn sót lại trong Nho giáo kể từ thời Xuân
Thu trở đi, nhưng lại bài bác sự cứng nhắc và tính chất áp chế vốn dĩ là đặc
tính của cư dân du mục phương Bắc. Thế nên, “Tại sao nước Việt Nam (thực tế là các làng) mãi từ xa xưa luôn luôn lẩn
trốn văn minh Tàu như nhận xét tinh tế của ông P. Mus (tr.334) thế mà những hằng
số của Nho lại nằm sâu trong lòng dân Việt Nam, còn sâu xa hơn cả bên Tàu. Và
qua bao lần chống Tàu mà không hề chống Nho, kể cả những thời có tinh thần độc
lập nhất như nhà Lê”[14].
Phải
nói rằng, từ câu chuyện của Nguyễn Vỹ, chúng ta có thể phát hiện ra nhiều điều
thú vị. Dù phán đoán của ông có vội vàng hoặc đôi khi mang tính giễu cợt, dù đằng
sau đó là sự nóng nảy gay gắt trước thực trạng “bát nháo” của văn hóa và ngôn ngữ
dân tộc nhưng đằng sau đó là sự nhiệt thành đáng quý.
3.
Thi
tính của người Việt.
Chúng
ta có thể dễ dàng truy cập internet để tham gia các diễn đàn thơ, hội thơ viết
bằng tiếng Việt. Chỉ với một cái click chuột trong vòng 0,63 giây đã có hơn
897.000 kết quả cho từ khóa diễn đàn thơ. Phải chăng người Việt rất yêu thơ và
thích làm thơ ? Số liệu ấy phải ánh điều gì ? Bên cạnh đó, chúng ta có thể dễ
dàng tìm thấy bài viết của Nguyễn Hưng Quốc (Có thực người Việt yêu thơ không?)
trên trang Voatiengviet. Người viết tỏ ra hoài nghi về mức độ yêu thơ của người
Việt. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi nghĩ rằng cần có một cách đặt vấn
đề khác. Số liệu tìm được trên internet không hẳn phản ánh sự yêu thơ của người
Việt, cũng như sự đánh giá và phạm vi khảo sát của Nguyễn Hưng Quốc cũng chưa
thật rộng rãi. Nhưng dựa trên đó, chúng ta có thể nhìn lại ý kiến của Nguyễn Vỹ
trước đây. Phải chăng chúng ta nên đặt ra vấn đề: chất thơ hay thi tính trong
tâm thức của người Việt.
Nguyễn
Vỹ đưa ra ý kiến quan sát được từ cuộc sống thực tiễn: “không những là người lớn, đủ các hạng người, đủ các tầng lớp, đều ưa
làm thơ nói thơ, mà cho đến những em bé bốn năm tuổi tóc còn để chỏm, chưa biết
mặc quần….chưa học thuộc hết vần i-tờ mà đã làm được thơ…..Bất cứ một tờ báo
nào cũng có nhận được rất nhiều thơ của bạn đọc mà tác giả là công chức, tư chức,nhà
buôn, binh sĩ, thợ thuyền nam nữ học sinh, từ ông Bộ-trưởng, ông Thiếu-tướng,
ông Tổng giám đốc này nọ, cho đến cậu học sinh đệ nhất, đệ nhị, đệ ngủ, cô bán
hàng, chị thợ may, v.v…”[15]. Ông đưa ra nhiều ví dụ ở
nhiều tầng lớp, địa vị khác nhau; trong đó, ngay cả trẻ nhỏ chưa học i-tờ cũng
đã biết làm thơ. Như vậy người Việt không vì đi học, có học thức cao mà làm được
thơ và trở nên yêu thơ; kì thực, thơ cứ như hơi thở và “bản năng” (tiềm thức)
hiển hiện ra từ tâm hồn của người Việt. Chúng tôi nghĩ sự việc này không thể gồm
thâu vào chuyện có yêu thơ hay không mà là chất thơ hẳn có từ đâu và từ bao lâu
trong tâm tính của dân tộc Việt.
Thi
tính của người Việt mà căn để là có thể truy tầm về nguồn gốc Viêm Việt, chủ
nhân cố cựu của học phong Nho nguyên thủy (Nho = Nhu)[16]. Đây là chuyến phiêu lưu
về miền vô thức tập thể của thủy tổ. “Sức
quyến rũ ấy kích thích khiếu thi văn đã sẵn có của dân tộc Việt, và đã mặc
nhiên tạo ra trên đất Việt Nam một nội cảnh hào hứng đầy hương sắc thi ca”[17]. Nguyễn Vỹ, phải chăng,
không nhiều thì ít đã lờ mờ nhận ra được tiếng gọi thâm trầm từ cõi tịch nhiên
của tổ tiên, mở ra chuyến du hành về miền sơ khai trong buổi hồng hoang của nền
tảng văn hóa dân tộc. Chung quy, cái làm nên tính chất yêu thơ, chuộng thơ, dễ
hòa lòng vào thơ, trước tiên là ở tính chất căn bản của người phương Nam. Người
phương Nam trọng tình, thiên về tình cảm; “Bao
giờ ca vịnh không đủ ? Thưa là lúc tình tràn bờ. Ai cũng công nhận phương Nam
tình cảm mạnh hơn phương Bắc, vì thế có sự tràn bờ, nên múa nhảy nhiều hơn. Bởi
vậy yếu tố Viêm Việt được biểu thị nhiều bằng ca vũ……”[18]
không như dân du mục thiên về lý trí minh xác. Chính vì tính chất nhu thuận, ôn
hòa, trọng tình, trở thành nhịp độ điều hòa du dương bổng trầm của tâm tư.
Trong kinh điển, cứ âm-dương luân chuyển xoay vần, hài hòa phối ứng; một động một
tĩnh được điều phối hài hòa là ca, là nhạc, là vũ. Đấy là căn bản của thi tính
chứ là gì khác nữa. Và đó cũng là nhịp độ, chuyển động của mùa màng thời tiết của
vũ trụ và tâm hồn con người. Nhạc tính gắn liền với thi tính, cũng là sự cảm ứng
với sự vận hành chuyển dịch của trời đất. Viêm Việt đề cao nhân chủ, xây dựng
quan niệm nhân vương. Nhưng vương không có nghĩa là độc tài, thống lĩnh. Nhân
vương trong Tam tài vẫn giữ thế cân bằng, trung dung. Nhạc tính và thi tính của
Viêm Việt là ở chỗ đấy. Cư dân nông nghiệp
có thiên hướng điều hòa, nhu thuận và cân bằng với ngoại giới trong khi cư dân
du mục có khuynh hướng chinh chục, gây hấn. Đây cũng là đặc trưng dị biệt giữa
Viêm Việt và Hán tộc.
Từ
chỗ phong thổ và điều kiện sinh hoạt tương tác với thiên nhiên của người phương
Nam, cư dân Viêm Việt có tâm hồn rất giàu nhạc tính. “Kinh Nhạc là phần của Viêm tộc mà đời sống dệt toàn bằng ca bằng vũ, đến
nỗi không những có quốc ca mà còn có quốc vũ. …… Sự đánh mất kinh Nhạc kinh vũ
tiêu biểu cho một sự đánh mất ý nghĩa sâu xa của văn hóa Viêm tộc, một nền văn
hóa rất ưa vũ”. [19] Phải chăng dấu chân của kẻ
xâm lược với mưu đồ bành trướng đã yểm trợ cho sự đánh mất một cách có chủ đích
di sản “đặc sệt” của người phương Nam thuần nông. Và phải chăng chính vì không
thể chinh phục được vốn liếng văn hóa thuần chất Viêm Việt mà Hán tộc du mục đã
phải lèo lái đi để kẻ bị ảnh hưởng trở thành kẻ ảnh hưởng và khiến cho con cháu
Viêm Việt mang nặng mối mặc cảm là kẻ man di vay mượn thành tựu văn hóa từ dân
tộc khác.
Trở
lại đây, từ chỗ trọng tình, chuộng ca vũ, mà trong lời ăn tiếng nói của người
phương Nam đã có nhạc tính. “Tóm lại nhạc
là đặc điểm của Viêm tộc, nên trải qua bao nhiêu thế hệ nhạc và vũ tuy bị cản
ngăn, vẫn sống âm thầm trong dân gian, và ngày nay khi ta đi sâu vào dân ca, mới
ngỡ ngàng nhận ra cả một kho tàng mênh mông của nhạc Việt”[20]. Có thể có nhiều người
bàn cãi và đưa ra nhiều cách nhìn nhận, định nghĩa bản chất của thơ ca; tuy
nhiên, khó ai có thể chối cãi bản chất đặc trưng của thơ là nhạc tính. Nói về
nhạc tính là nói về phương diện âm thanh của ngôn ngữ. Nhưng âm thanh của ngôn
ngữ phát ra một cách cơ ngẫu chưa gọi là nhạc. Âm thanh một khi được sắp xếp
trong mối quan hệ đối ứng về cao độ, trường độ, cường độ và âm sắc khăng khít với
tâm tình bộc phát tạo nên chất nhạc cho thơ. Dù đọc và phát ra âm thanh hay chỉ
đọc thầm trong tâm tư, thì thơ ca vẫn vang ra trong tâm trí nhạc tính của từng
lời từng chữ. Chính đời sống giàu chất nhạc, ngôn ngữ giàu chất nhạc của Viêm tộc
trải qua bao đời càng thêm phong phú chính là lí do khiến cho tâm hồn Việt tộc
sau này luôn có mối gắn bó mật thiết với thơ ca.
Dù
chúng ta chưa thể nói về mức độ yêu thơ của người Việt nhưng có thể nói, người
Việt có thiên hướng chuộng thơ, tâm hồn gần gũi với thơ ca là do chất nhạc đã
ăn sâu vào máu huyết và tiếng nói của người Việt.
Kết luận
Ôn
cố tri tân, đọc lại người xưa để nghĩ chuyện nay, đây vốn là cách tiếp nối tiếng
gọi sâu thẳm của thời gian. Bằng việc tìm tòi, lật giở lại quá khứ, chúng ta
tìm thấy được cách thế phù hợp cho thời đại mà mình đang hiện hữu. Từ chỗ tìm về
quá khứ, chúng ta chuẩn bị một dự phóng cho tương lai. Bài viết tìm hiểu về
Nguyễn Vỹ cũng trong chiều hướng như thế. Đọc lại Nguyễn Vỹ, không chỉ đơn thuần
là định vị và tìm lại một Nguyễn Vỹ - nhà thơ hay Nguyễn Vỹ - nhà báo, mà tìm lại
chính ông để lắng nghe tiếng thì thầm thủ thỉ của tiền nhân. Từ chỗ đó, trong tư
thế của kẻ bây giờ ngẫm ngợi lại những gì Nguyễn Vỹ đã đặt ra, liệu rằng những
vấn đề ấy còn giá trị cho thời bây giờ hay không ? Thế nên, chúng tôi tìm về
Nguyễn Vỹ kì cùng là để tìm lại những bài học cho thời đại này. Chắc chắn, những
gì trình bày trong bài viết này còn quá sơ sài so với những vấn đề đặt ra. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, ý kiến của Nguyễn Vỹ có khả năng gợi ra nhiều suy tư
trong việc xây dựng tinh thần dân tộc và truy về nguồn cội văn hóa Việt Nam. Không
chỉ dừng lại ở phương điện ngôn ngữ và đi sâu vào cơ tầng văn hóa; không chỉ dừng
lại ở quá khứ mà còn giúp chúng ta nhìn nhận lại một số vấn đề bất cập của xã hội
bây giờ. Kì thực, những vấn đề mà Nguyễn Vỹ đặt ra trong bài viết “Văn chương
và Tư tưởng Việt Nam” không hoàn toàn cũ kĩ, chìm vào dĩ vãng mà đâu đó vẫn có
những tiếng vọng sâu, vang động vào xã hội chúng ta. Nhắc nhở người Việt, những
người yêu tiếng Việt và nòi giống Việt tiếp tục băn khoăn, trăn trở khi đối diện
với quá trình vận động và phát triển của tiếng mẹ đẻ cũng như bản sắc và tinh
hoa văn hóa dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Kim
Định (2017), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr. 24-25.
-
Kim
Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.
-
Kim
Định (1970), Việt lý tố nguyên, An Tiêm xuất bản, Saigon.
-
Hà
Văn Tấn (2003), Văn hóa và ngôn ngữ ở Việt Nam thời tiền sử - Tác phẩm được tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.757-758.
-
Nguyễn Vỹ (15-10-1959), Văn chương và Tư
tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ mới số 21, 283 Gia Long – Saigon, tr. 6.
-
Nguyễn Vỹ (1-11-1959), Văn chương và Tư tưởng
Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ mới số 22, 283 Gia Long – Saigon, tr. 9.
-
Nguyễn Vỹ (1-12-1959), Văn chương và Tư tưởng
Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ mới số 24, 283 Gia Long – Saigon, tr. 8-9.
-
Nguyễn Vỹ (15-12-1959), Văn chương và Tư
tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ mới số 25, 283 Gia Long – Saigon, tr. 8.
Website
-
http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/29247302-mot-so-van-de-trong-viec-dich-xuat-ban-tac-pham-nuoc-ngoai.html
[1]
Nguyễn Vỹ (15-10-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ
mới số 21, 283 Gia Long – Saigon, tr. 6.
[2]
Kim Định (2017), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr.
24-25.
[3]
Nguyễn Vỹ (15-10-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ
mới số 21, 283 Gia Long – Saigon, tr. 7.
[4] Hà
Văn Tấn (2003), Văn hóa và ngôn ngữ ở Việt Nam thời tiền sử - Tác phẩm được tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.757-758.
[5]
Theo cách dùng từ của Kim Định trong “Tinh hoa ngũ điển”
[6]
Nguyễn Vỹ (15-10-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ
mới số 21, 283 Gia Long – Saigon, tr. 7.
[7]
Nguyễn Vỹ (15-10-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ
mới số 21, 283 Gia Long – Saigon, tr. 8.
[8] http://vap.ac.vn/tin-nha-xuat-ban/Hoi-nghi-tong-ket-cong-tac-xuat-ban-in-phat-hanh-nam-2016-va-trien-khai-ke-hoach-nam-2017_50#.WWtIm_R97IU
[9] http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/29247302-mot-so-van-de-trong-viec-dich-xuat-ban-tac-pham-nuoc-ngoai.html
[10]
Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr. 23.
[11]
Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr.25.
[12]
Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr.27.
[13] Nguyễn
Vỹ (1-12-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ mới số
24, 283 Gia Long – Saigon, tr. 8-9.
[14]
Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr.25.
[15]
Nguyễn Vỹ (1-11-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ mới
số 22, 283 Gia Long – Saigon, tr. 9.
[16]
Theo Kim Định, Tinh Hoa ngũ điên
[17]
Nguyễn Vỹ (15-12-1959), Văn chương và Tư tưởng Việt Nam, Phổ thông tạp chí, Bộ
mới số 25, 283 Gia Long – Saigon, tr. 8.
[18]
Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, An Tiêm xuất bản, Saigon, tr. 140.
[19]
Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, An Tiêm xuất bản, Saigon, tr. 139-140.
[20]
Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, An Tiêm xuất bản, Saigon, tr. 141.
Comments
Post a Comment