Skip to main content

NHÌN LẠI VẤN ĐỀ CHỦ TÍNH VIỆT NHO TỪ MỐI QUAN HỆ VIỆT NHO - HÁN NHO TRONG MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CỦA KIM ĐỊNH


NHÌN LẠI VẤN ĐỀ CHỦ TÍNH VIỆT NHO TỪ MỐI QUAN HỆ VIỆT NHO - HÁN NHO TRONG MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CỦA KIM ĐỊNH

[Võ Quốc Việt - Khol V., 2018]

Tóm tắt
Nghiên cứu của Kim Định về nguồn gốc văn hóa Việt Nam qua bộ sách Triết lý An vi đã từng gây ra nhiều tranh luận. Tuy nhiên, ngày nay nhìn lại những vấn đề này sau những thám quật được công bố, dường như, nhiều ý kiến của Kim Định cần được chúng ta nhìn nhận lại một cách nghiêm túc. Xác định chủ tính của Việt Nho có thể giúp chúng ta có những gợi ý cho thực trạng giáo dục và xây dựng nền văn hóa dân tộc. Bài viết này đi từ việc xác định Nho giáo trong mối liên hệ giữa người Việt và người Hán từ thời cổ đại để góp thêm một cách nhìn về việc định vị văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay ở khu vực châu Á.
Từ khóa: văn hóa Việt Nam, Nho giáo, Kim Định, “Triết lý An vi”.

1.                       Sơ lược vấn đề
Kim Định với bộ Triết lý An vi cùng với nhiều học giả trong và ngoài nước trước đó đã phần nào vén bức màn sâu thẳm trong cội nguồn văn hóa Việt Nam cùng những đóng góp đáng kể của tổ tiên Việt tộc đối với sự hình thành và phát triển của Nho giáo. Trong đó, vấn đề Nho và đâu là ranh giới của Nho tiền Xuân Thu và Nho trong vòng vây Hoa tộc là vấn đề xuyên suốt. Bằng phương pháp của cơ cấu đề tìm về chủ tính Nho - Việt Nho, từ đó ông cho thấy những sai quặt bị che lấp và mờ khuất trải qua hàng ngàn năm khiến cho việc truy tầm và nhận chân càng trở nên khó khăn. Tuy nhiên càng khó khăn thì những nỗ lực đó càng đáng quý, đáng trân trọng.
Trong các sách chuyên khảo của Kim Định, người đọc có thể thấy rõ dấu ấn Tây phương trong việc thiết lập nhận thức luận, thế giới quan và phương pháp (đặc biệt là phương pháp). Với lối phân tích huyền sử y cứ trên huyền thoại, Kim Định đã đi vào tầng vô thức tập thể, lật dở những vỉa quặng bụi mờ do hàng thế kỷ “nô bộc” Nho giáo của Hán tộc. Nếu xem xét sự nghiệp nghiên cứu của ông cách toàn diện, có thể thấy cái nhìn soi xét của ông trải rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Kim Định vừa khảo cứu văn hóa học, nhân chủng học, dân tộc học, tâm lý học, văn học, tôn giáo và đặc biệt là triết học.
Từ hình nhi thượng được kích hoạt từ thời Tống học, có lẽ giới nghiên cứu Nho học Việt Nam ít có người nào để ý đến Nho như là Nho siêu việt, nghĩa là Nho đến chặng đường tâm linh (Bái vật – ý hệ - tâm linh). Ý thức được vấn đề đó, Kim Định đã cất công truy tầm về cội nguồn của Nho để bổ khuyết phương diện còn thiếu sót trong quá trình cứu xét Nho giáo của người Việt nói riêng. Đi tìm chủ tính Việt Nho cũng là con đường mà Kim Định đã xuôi dòng chảy về suối cội tâm linh của Nho thuần túy ban sơ (Nho tiền Xuân Thu). Công việc không hề đơn giản và cho đến nay nhiều luận điểm của ông trong bộ sách Triết lý An vi vẫn còn gây tranh cãi. Đặc biệt, khi bộ sách được ấn hành, đã có nhiều ý kiến trái chiều khiến ông phải dành ra một phần trong các công trình đó (như là phần bổ sung) để trả lời những “phản pháo” từ phía dư luận. Tuy nhiên, nhiều cuộc thám quật gần đây, dường như, khiến cho giới nghiên cứu nhìn nhận lại những đánh giá của Kim Định một cách nghiêm túc hơn.
Tại sao bài tham luận này đặt lại vấn đề chủ tính Việt Nho theo ý nghĩa ban nguyên của nó ? Trước hết, thiết tưởng vấn đề Nho với tư cách là ý hệ, thiên về tâm linh sẽ có ích trong việc truy tìm về đặc trưng của văn hóa Việt, sẽ có ích để khai thác thứ vỉa quặng ròng, nguyên chất trong mạch nguồn Việt tộc giữa thời buổi toàn cầu hóa và sự thức giấc của gã khổng lồ Trung Hoa (Hán tộc) trong thời đại bây giờ. Những gì Hán tộc vay mượn Viêm Việt phải chăng đã đến lúc phải tính cho sòng phẳng.
Tuy nhiên, có một thực tế rõ ràng, Nho là của người Hán. Đây là cách nghĩ phổ biến được thừa nhận một cách rộng rãi. Nhưng có vấn đề là trước khi người Hán tràn xuống đồng bằng Hoa Hạ thì cư dân Bách Việt đã là chủ của khu vực đó. Hán tộc là cư dân du mục, tính nết trái ngược với người phương Nam vốn dĩ ôn hòa. Cái ôn hòa đó – Nhu hay Nho - lại là cốt lỗi của Đức trị (dù sau này, Đức trị dưới sự cầm quyền của Hán tộc chỉ là “sự ra vẻ”, thực chất là tính chất pháp trị xuyên suốt đời sống xã hội và chính trị Trung Hoa). Nói cốt lõi nghĩa là phần nền tảng sâu kín, chứ không có nghĩa là cái đặc trưng biểu lộ. Khổng Tử - người được cho là khởi xướng Nho giáo cũng nói “thuật nhi bất tác”. Nghĩa là ông nhặt nhạnh, tích góp, san định các hằng số cốt lõi để tạo nên Nho, từ vốn liếng văn hóa trước đó. Trước đó là ai ! Phải chăng là thành tựu của Bách Việt hay một cách xác đáng hơn là chủ nhân của nền nông nghiệp phát triển và đạt được nhiều thành tựu văn minh trước cư dân du mục phương Bắc. Những vấn đề này đã được Kim Định bàn rõ cũng như sau này nhiều nhà nghiên cứu có bàn đến chuyện Việt tộc bị “Hán hóa” nhiều lần từ thời cổ đại đến mãi hết ngàn năm Bắc thuộc. Thế nên ở đây xin không bàn kĩ mà chỉ mang tính chất nhắc nhở lại. Nhưng nhắc lại để làm gì ? Chuyện đời xưa nếu không có ích gì cho cuộc sống hôm nay thì chỉ là chuyện phiếm ở chỗ trà dư tửu hậu.
Thế nên nhắc lại để mà nhìn lại và nhìn tới. Xưa nay, văn học Việt Nam, cụ thể là văn học trung đại Việt Nam đều được nhìn nhận dưới dóc độ của Hán Nho mà chẳng mấy khi, chẳng mấy ai soi xét lại bằng những chủ tính của Việt Nho. Người Việt sau hàng thiên kỷ bị áp chế dưới vòng vây của Hán Nho, rõ ràng, đã mang lấy vào thân xác nó những “roi vọt cưỡng bức” hung bạo của Hán tộc. Vốn liếng văn hóa của Bách Việt, vốn bị Hán tộc gọi là man di, lại được chính kẻ chinh phục tiếp thu và khu định lại bằng tư duy cưỡng bách – lý tính, để rồi sau đó, họ sử dụng cái vốn liếng của tổ tiên Viêm Việt để gông cùm chính hậu duệ người Việt.
Nhưng “lũy tre làng” của Việt tộc hẳn còn đủ vững chãi trước những uy lực của vương quyền. Trong sâu thẳm tâm hồn Việt vẫn còn cái đặc trưng cơ bản của cư dân phương Nam. Dù Việt tộc vị áp chế và cưỡng thúc về tinh thần nhưng họ vẫn bám chặt lấy những hằng số tác tạo nên nền tảng văn hóa của họ. Do đó, cơ tầng văn hóa đó chìm vào đáy hồ vô thức. Đâu đó, trong tâm thức Việt tộc vẫn còn lưu giữ cái tình nhuần hậu của Nho phương Nam tiền Xuân Thu. Dấu ấn đó lờ mờ lẩn khuất sau “lũy tre làng”. Phép vua thua lệ làng. Vương quyền của kẻ áp bức không cầm tù được nền văn minh cao hơn nó.
Chung quy, viết cho dài dòng, bài viết này lấy việc nhìn lại quan điểm của Kim Định về mối quan hệ giữa Việt Nho – Hán Nho để xác lập lại chủ tính của Việt Nho; lấy đó làm góc tham chiếu để soi xét vấn đề Nho giáo trong văn học trung đại Việt Nam[1]; thứ nữa, từ chuyện văn học muốn nói đến việc tìm lại – giáo dục – thiết lập một nền văn hóa dân tộc trong thời đại mới mang bản tính thuần nhất Viêm Việt và rộng mở. Tất nhiên trong khuôn khổ bài viết này, đặt ra những vấn đề như thế chỉ là sự gợi mở. Nhưng đó là dự hướng mà chúng tôi nghĩ đến. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc xác định chủ tính của Việt Nho, còn chuyện đưa nó vào việc nhìn nhận lại Nho giáo trong văn học trung đại Việt Nam lại là chuyện xa hơn, cần nhiều công sức và thời gian hơn.
Ngày nay chúng ta “dị ứng” với văn hóa Trung Hoa trong xu thế căng thẳng chính trị giữa hai quốc gia. Nhưng cơ hồ, chúng ta xa lìa với cái cốt lõi nhân tính mà người Hán đã vay mượn và cải biến theo cách của họ (bóp méo) và thế là càng dạt ra xa hơn với chủ tính văn hóa mà tổ tiên đã gầy dựng. Càng muốn ngăn ngừa mối họa bành trướng và tham vọng bình thiên hạ ngàn đời của Hán tộc càng phải thấu hiểu họ. Hơn nữa, còn phải tìm lại dấu vết của tổ tiên ở chính “kẻ thù nghịch” với chúng ta.
2.                       Mối quan hệ Việt Nho-Hán Nho
Đâu là ranh giới Việt Nho và Hán Nho ? Làm sao tìm về miền biên viễn mờ mịt – nơi Việt Nho khởi xuất ? Và ở đó, sự va chạm đầu tiên có thể giúp chúng ta nhìn nhận mối quan hệ giữa Việt tộc và Hán tộc ra sao ? Đó là những băn khoăn mà chúng tôi cố gắng trình bày trong tiểu mục này.
Nhưng để có thể bước vào địa hạt liên quan đến tâm thức và phần sâu kín của cơ tầng văn hóa, chúng ta cần có một phương pháp tiếp cận phù hợp. “Xem thế thì lẽ ra cơ cấu phải là một bầu khí dễ thở cho đạo lý Đông phương vì nó gắng công bắt liên lạc với tiềm thức, mà tiềm thức chính là tiền đường của tâm linh, mà tâm linh là xương sống của triết Nho. Nói cho cùng thì Việt Nho chính là cơ cấu hay Việt Nho là một nền triết đi theo lối cơ cấu trước khi cơ cấu được bàn đến một cách hệ thống[2]. Nếu nói như thế thì muốn xác định ranh giới cũng như xác lập chủ tính của Việt Nho sau hàng ngàn năm bị cưỡng bức-ô hợp-chà đạp-lấp liếm-gian lận thì chúng ta cần trở về địa hạt tâm linh. Hay nói khác đi, chúng ta cần quay về với huyền sử. Nhưng phải đọc như thế nào ? Phải đọc bằng lối biểu tượng và cơ cấu. Vì sao ? Cơ cấu luận giúp chúng ta thiết lập các mối liên hệ bên trong và bên ngoài đối tượng để tái thiết cấu trúc vận hành của đối tượng ấy - ở đây là Việt Nho nguyên thủy. Còn lối đọc biểu tượng, đây là cách giải nghĩa khác với kí hiệu. Vì đọc biểu tượng là lần theo cái đường dẫn mà cái biểu đạt gây ra để truy về gốc gác của nó. Nghĩa là sự truy nghĩa theo lối quy hồi[3]. Đây là cách đọc cần thiết cho việc xác định chủ tính Việt Nho sau hàng thiên kỷ bị Hán hóa.
Tuy nhiên, cần nói rõ về phương pháp của cơ cấu luận. Khác với ý nghĩa nghiêm nhặt của cơ cấu luận về Cái biểu đạtCái được biểu đạt của lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, theo như Kim Định, Cơ cấu đây là từ Cơ đến Cấu, từ Không đến Có, xuyên vào màn sương mù của những tàn tích, lần theo dấu vết của “con lân què”, khai quật, chắp nối để phác họa nên bức tranh toàn cảnh của thuở hồng hoang.
Trong phương pháp, Kim Định bám vào cơ cấu nhưng không cố chấp ở bất cứ quan điểm cơ cấu của bất cứ Cơ cấu gia nào. Bởi có lẽ ông nhận thấy bám vào bất cứ lập luận nào cũng là cột chân mình vào đá tảng, chỉ có thể chìm lụi trong đáy nước mênh mông mà không thể ngoi lên khỏi hồ sâu để nhìn cho sáng rõ. “Nói chung thì cơ cấu là một cố gắng vượt qua những cái dị biệt tạp đa để đạt tới những nét căn bản hơn hết của bất cứ môn học nào….nhảy qua đợt ý thức là lãnh vực của những dị biệt để vào tiềm thức âm u, nhờ đó sẽ nhìn ra những luật lớn ít thay đổi[4]. Ở điểm này, có lẽ, Kim Định đã truy tìm chủ tính Việt Nho bằng phương pháp “gột rửa – cắt tỉa – tiết giản” những đa tạp xoồm xoàm nhằm quy ra hằng số của Nho. Và phải chăng ở đây, Kim Định đã thiên về quy giản hiện tượng học (Hiện tượng luận Husserl). Con đường từ vô cực đến thái cực, từ bản nguyên đến hiện tượng và bây giờ từ hiện tượng trở về bản nguyên. Kim Định lần theo hướng đó, bơi ngược dòng về thượng nguồn. Thông qua việc này, xin nói thêm rằng nhà nghiên cứu đã không bị bó buộc bởi bất cứ trường phái hay phương pháp luận nào mà bằng trực cảm của nhà nghiên cứu áp dụng tư duy tổng hợp để truy xét đối tượng.
Đã nói về phương pháp truy tìm, chúng tôi nói đến những gì tìm được. Với cách làm như thế, chúng ta có thể nhìn thấy (thông qua các nghiên cứu của Kim Định và những thông tin khoa học gần dây) ranh giới của Việt Nho và Hán Nho dù rất mờ nhạt và chồng lấn khó có thể rạch ròi. Nhưng ở đấy, những nét chính yếu vẫn có thể nhìn ra được.
Dựa trên 332 đồ đồng trong nghiên cứu của Creel ở công trình La naissance de la Chine, Kim Định cho rằng nhà Chu đã tiếp thu các thành tựu văn minh trước đó, mà cụ thể là nhà Thương vì những cứ liệu xác tín đã được khai quật. Tuy nhiên, khi nói về nhà Thương, bằng những nhận xét về tục lệ thờ cúng và những vật dụng còn sót lại để chứng minh rằng nhà Thương đã vay mượn, thậm chí có thể dùng từ chiếm đoạt, của dân bị trị. Vì nền văn hóa Long Sơn với di chỉ Thành Tự Nhai đã có thành tựu vượt bậc về kĩ thuật đồ gốm (đồ gốm đen được đánh bóng, thành mỏng) hay nói khác đi, cư dân của nền văn hóa Long Sơn ở cuối thời đồ đá mới đã bắt đầu phát triển kĩ thuật nuôi trồng cũng như rộ lên việc sử dụng các dụng cụ kim khí. Cho thấy, đây là khu vực văn minh vượt trội hơn khu vực Tây Bắc (từ Cam Túc qua Thiểm Tây đến Hà Nam).
 Văn hóa Long Sơn kéo dài từ trung du và hạ du Hoàng Hà kéo dài cho đến lưu vực Trường Giang đến vùng ven biển Đông Nam Trung Quốc, như vậy nền văn hóa này phân bổ ở khu vực khá rộng ở Trung Quốc ngày nay, nằm ở khoảng giữa hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang, thuộc khu vực màu mỡ phì nhiêu nhất, rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Ngoài đồ gốm, các di chỉ của nền văn hóa Long Sơn còn cho thấy chủ nhân của nền văn hóa này đã biết đến việc canh tác lúa gạo và sự xuất hiện các bức tường đất hay việc đô thị hóa cũng như hoạt động trồng dâu nuôi tằm cũng đã xuất hiện. Ngoài ra, các di chỉ còn sót lại cũng cho thấy họ đã biết đến việc bói toán bằng mu rùa và xương thú. Điều này minh chứng cho thấy, chủ nhân văn hóa Long Sơn đã có những bước tiến dài cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Về niên đại, nhìn chung các nhà khoa học cho rằng văn hóa Long Sơn bắt đầu khoảng 3000-2600 TCN kéo dài cho đến khoảng 2000 TCN. Nhìn chung cư dân Long Sơn phân bổ chủ yếu ở vùng Đông và Đông Nam, còn văn hóa Ngưỡng Thiều phát xuất ở vùng Tây Bắc (ở các vùng Hà Nam, Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Tây). Như vậy trước khi nói về các đời Thương, Chu, chúng ta cần lưu ý đến 2 nền văn hóa Long Sơn (Đông Nam) và Ngưỡng Thiều (Tây Bắc).
Quay lại với ý kiến của Kim Định, ông lưu ý rằng có sự khác biệt rõ rệt giữa văn minh Chu (vốn xuất phát từ Tây Bắc) với văn minh Thương. Trong khi đó, nhà Chu đã dựa trên hai nhà trước đó (Hạ, Thương) để phát triển nền văn minh rực rỡ[5]. Điều này cho thấy những thành tựu của nhà Thương (tục cúng tế tổ tiên, bói mu rùa, hội mùa xuân  tức tôn giáo phong nhiêu bắt nguồn từ việc tế tự cầu cho mùa màng tươi tốt, ….) là những cái mà nhà Thương đã chiếm đoạt của cư dân, chủ nhân của vùng đất Đông Nam, từng tồn tại trước đó rất lâu và đạt được những thành tựu về nông nghiệp, chế tạo và đời sống tâm linh.
Trong khi các thành tựu về nông nghiệp của cư dân Long Sơn đã hình thành một cách rõ rệt thì văn hóa Ngưỡng Thiều, với các di chỉ còn lại, vẫn còn nhiều tranh cãi về nền nông nghiệp định cư hay lối du canh du cư của họ và nhìn chung nguồn thực phẩm của họ đến từ săn bắt và đánh cá. Phải chăng, sự khó khăn trong việc xác định tính du mục hay nông nghiệp của khu vực văn hóa này xuất phát từ những di chỉ là kết quả của sự va chạm của văn hóa Long Sơn đối với văn hóa Ngưỡng Thiều; còn về thổ nhưỡng thì những điều kiện thực tế cho thấy khu vực Đông Nam có nhiều thuận lợi hơn trong việc phát triển trồng trọt.
Chung quy, khi nói về hai nhà Thương, Chu với hai nền văn hóa Ngưỡng Thiều và Long Sơn, chúng tôi muốn làm rõ hơn luận cứ và quan điểm của Kim Định về việc: (1) thành tựu của nhà Thương mà sau này Chu tiếp nối là các thành tựu chiếm đoạt của cư dân phân bố ở giữa lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang trải rộng đến vùng biển Đông Nam Trung Quốc từ trước đó; (2) có sự va chạm giữa hai luồng văn hóa Đông Nam (nông nghiệp) với văn hóa Tây Bắc (còn mang tính du mục, chưa rõ rệt nông nghiệp). Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, Nhà Thương rồi nhà Chu (vốn được các học giả coi như là nền văn minh du mục) đã có công “đặt khuôn mẫu” cho nền tảng Việt Nho vốn được lên ý tưởng từ thời đại trước đó.
Sự “đặt khuôn mẫu” ở đây được hiểu là sự tiếp thu (chiếm đoạt) và pha lẫn vào tính chất du mục (hình luật, hoạn quan, thiên mệnh). Từ đó, các chủ tính của đời sống xã hội và tư tưởng của cư dân văn hóa ở khu vực Đông Nam được thành hình rõ rệt nhưng đồng thời cũng đi vào con đường tha hóa, suy thoái. Bởi các yếu tính của văn hóa nông nghiệp Đông Nam (bình sản, tự do, hòa ứng) ngày càng phôi pha và bị thay thế bởi các yếu tính du mục (căn để đặt ở lý trí và quản thúc). Kim Định cho rằng kể từ đó, Việt Nho trải qua ba đợt “thay máu”: Long Sơn, Đông Chu và Tần Hán[6]. Chủ tính Việt từ Long Sơn (sự va chạm lần đầu) đến Đông Chu (Xuân Thu – Chiến Quốc) rồi đến thời Tần Hán thì nền tảng Việt Nho dần bị Hán hóa, đến nỗi, sang thời Tần Hán thì Nho đã là một thứ Nho khác. Và thế nên, khi nói về Việt Nho (Nho nguyên thủy) với căn để còn tương đối rõ rệt là nói đến Nho từ Xuân Thu về trước, còn giai đoạn sau là một dạng Nho – du mục tính. Đó là nói về ranh giới thời gian cũng như mối liên đới giữa Việt Nho và Hán Nho.
Trong phần vừa rồi, chúng tôi nói về thời gian, gốc gác cũng như đã có nhiều ý nói đến địa vực phân bố của Việt Nho. Tới đây xin bàn thêm về vấn đề địa vực. “Điều ấy có thể thấy ngay ở thời Tam Quốc (220-280) mà ta có thể coi được là thời tạm trở lại chế độ Xuân Thu Chiến Quốc, trong đó địa vực tiên khởi của nước Tàu rút vào bờ cõi nước Ngụy ở mạn Bắc(….), còn bên ngoài là vùng mênh mông của hai nước Thục và Ngô mà trước đây ít thế kỷ chính là vùng của Việt Nho, cũng gọi là ‘Chư Hạ” đối với Hoa Bắc[7]. Thiết nghĩ, ở đây, bằng sự hình dung ở thời Tam Quốc, Kim Định giúp chúng ta hình dung một cách tương đối rõ ràng về vấn đề địa vực. Thế nhưng thực tế trong khoảng thời gian mà Viêm Việt cư trú và gầy dựng nên văn hóa của họ ở khu vực đó thì điều gì đã khiến cho địa vực của họ bị thu hẹp, thậm chí có thể gọi là bị xua về phương Nam, bị đánh bật ra khỏi môi trường tác tạo nên vốn liếng văn hóa của họ.
Vậy thì Ai ? Khi nào ? Và bằng cách nào mà Việt Nho đã bị thay thế lần hồi bởi Hán Nho. “Đại Vũ là người đầu tiên mở rộng biên cương liên bang xuống miền Nam, nên huyền sử kêu là lập ra Hoa Hạ, tức là các nước phía Nam, thế nên sử Tàu kể nhà Hạ là nhà vua đầu tiên của họ. Còn phía Viêm Việt cũng coi Hạ Vũ là ông vua có vợ Việt, tức linh phối với văn hóa Việt. Biểu hiện của ông là 4 vật: trống, cồng, khánh, chuông, được treo ngoài cửa đền. Bốn vật đó hầu hết là tiêu biểu của phương Nam….”[8]. Phải chăng sự linh phối mà Kim Định nói đến là sự gặp gỡ của tính chất Âm (Mẹ) và tính chất Dương (Cha). Sự chuyển giao của giai đoạn xã hội mẫu hệ sang phụ hệ. Và với đặc tính coi trọng lý tính, hình luật (thiên về tính dương) mà Hoa tộc đã tràn xuống phương Nam và áp chế tính chất Mẹ (nhu thuận, hòa phối, linh ứng). Trong khi tính chất Cha thiên về Dương thì tính chất Mẹ phương Nam không thiên về Âm mà là sự cân bằng của Âm Dương nên bao quát và dung nạp được một cách dễ dàng. Sự dung nạp này, sự chung đụng đời sống vật chất và tâm linh của người du mục phương Bắc và người nông nghiệp phương Nam có thể đã được biểu hiện qua việc ông Đại Vũ có người vợ Việt. Nhưng hỉu ở khía cạnh khác, đó là sự cưỡng đoạt thành tựu văn hóa Viêm Việt để từ đó thu hẹp địa vực sinh sống của Viêm Việt ra khỏi “quê cha đất tổ”. Và điều này cực kì tai hại. Thực tế các nền văn minh trên thế giới lụi tàn phần nhiều bởi lí do bị đánh bật ra khỏi địa bàn cư trú ban đầu. Điều này lí giải vì sao, Hán Nho có thể “gian lận” một cách êm thắm mà không ai trong số những hậu duệ của Việt Nho ở miền Hoa Hạ phát hiện ra và lên tiếng đòi lại món nợ cũ.
Từ mối quan hệ Việt Nho và Hán Nho, chúng ta có thể nghĩ về mối quan hệ hiện nay như thế nào ?
Để xác định mối quan hệ Việt Nho – Hán Nho, như đã nói, Kim Định sử dụng phương pháp đọc cơ cấu và biểu tượng để đọc huyền sử. Điều này có thể thấy việc ông phân tích ý nghĩa của thiên Vũ Cống (Kinh Thư) để chỉ ra ý nghĩa biểu tượng về mặt văn hóa của các dữ kiện và thông tin được đề cập đến (Long Môn, Thái Nguyên). Từ đó, ông chỉ ra tính chất “lèo lái”, “cải biến” Việt Nho của Đại Vũ. Từ chỗ giao thoa với Việt Nho (lấy vợ Việt), đẩy Việt Nho xuống mức tối giản (hằng số), Đại Vũ đã “lái” Việt Nho theo hướng khác (cụ thể là hướng triệt tiêu tính chất tự do, bình sản; truyền tử không truyền hiền). Cho nên, Việt Nho ở giai đoạn này có dáng vẻ Việt Nho nhưng đã bị “Hán hóa”, hay chí ít là đã bị “Hán hóa” một phần nào đó.
Về chính trị, Viêm Việt thua nhưng về văn hóa: Nam đã chuyển hóa Bắc. Từ nhận định của Đào Duy Anh trong Trung Hoa sử cương, Kim Định cho “đó là một câu nói vô tình đã chứng minh nguồn gốc Việt Nam của Nho giáo, vì khi hai luồng văn hóa giao thoa thì Nam đã chuyển hóa Bắc, rất nhiều lần như vậy, từ xa xưa lúc Việt còn gọi là Lạc, Miêu, Man, …”[9]. Đến đây, xin không đẩy vấn đề đi quá xa. Chỉ dừng lại ở địa vực và cơ man nào mà Việt Nho bị Hán hóa.

3.                       Về chủ tính của Việt Nho
Đặt ra vấn đề chủ tính Việt Nho, chúng tôi không có ý định khai mở gì thêm ngoài việc nhặt nhạnh qua những công trình trải rộng ở nhiều địa hạt khác nhau của Kim Định; ý định của chúng tôi là dựa trên những nghiên cứu đó, cô đọng lại những hằng số của Việt Nho. Rồi theo đó, chúng tôi lý giải nguyên do hình thành những chủ tính ấy.
Chung quy có thể kê ra một số chủ tính nổi trội của Việt Nho hay những hằng số đã bắt đầu lộ diện thông qua các nhìn nhận và đánh giá về huyền sử. Chúng ta có thể quy về một số vấn đề cơ bản sau:
-  Nhân tính à nhân bản à nhân chủ vì “tin đến độ coi người là nền tảng cho đạo sống, nhưng không là nền tảng cô tịch mà là nền tảng thái hòa: hòa với trời với đất. Vì thế tự dạng chữ Nhu có nghĩa là người đợi mưa, ý nói là người cùng với trời đất tác hợp….thì Nhu đạo phải tạo điều kiện ăn nói cho mọi người. Vậy mà đó cũng chính là cốt tủy của nền văn hóa Nông nghiệp”[10].
-  Tự do à dân chủ à năng sản à phóng khoáng[11] (Các vua Nghiêu, Thuấn chọn người tài đức để truyền ngôi vua. Từ Hạ, Thương, Chu thì truyền tử không truyền hiền. Mà từ Chu trở đi thì tính chất du mục ngày càng lấn át đến Tần Doanh Chính là cực đoan đến độ chôn Nho).
-  Cảm tính – trực cảm – linh ứng – tổng hòa; khác với lý tính, hình luật và độc đoán của cư dân du mục. “Vì thế ngay từ buổi đầu nhà Chu đã xưng mình thuộc dòng nông nghiệp, nhưng các học giả vẫn gọi nền văn hóa đó là du mục…..tức là khác hẳn với nền văn hóa phương Nam của Viêm Việt luôn trung thành với các yếu tố nông nghiệp: nhu thuận, bình sản, tự do, ưa hồn nhiên đột khởi hơn công ước (sính lễ), trọng tình cảm hơn lý trí…[12].
-  Bình đạm – cân đối – hài hòa, thái hòa, hòa hợp, biến chuyển linh hoạt chứ không thâm nhập, gây hấn như Hoa tộc. Trong Kinh Thư, Vua Nghiêu nói: “Này các ông Hy và Hòa: Một vòng ba trăm lẻ sáu tuần, sáu ngày, theo tháng thuận định bốn mùa, thành một năm. Theo lịch mà điều hành trăm việc, công tích sẽ rất lớn[13]. Việc nắm bắt sự vận hành của mùa màng thời tiết có ý nghĩa quan trọng, bởi việc đó ảnh hưởng đến canh tác (tạo phúc muôn dân), thế nên nói công đức lớn là vì thế. Và chính ở đây, chính việc tiếp xúc, quan sát và tương tác với thiên địa đã ảnh hưởng đến tâm linh và nhận thức. Điều này thúc đẩy việc hình thành chủ tính Việt Nho.
Để đi vào lí giải vấn đề chủ tính của Việt Nho, xin nhắc đến một luận điểm của Kim Định mà chúng tôi đặc biệt chú ý. Ông cho rằng thần thoại là tấm gương phản chiếu trung thực đời sống tâm linh và trình độ tiến bộ về nhận thức của con người. Nhìn vào hệ thống thần linh và tục thờ, chúng ta có thể nhìn thấy các đặc thù văn hóa và thông qua đó lí giải nguyên nhân sâu xa của đặc thù đó. Nhìn vào thần thoại hay nhìn vào huyền sử, chúng tôi nghĩ cần nhắc lại rằng, người đọc cần rũ bỏ tính độc tài và áp dụng phương pháp cơ cấu và lối đọc biểu tưởng để tìm và hiểu Việt Nho.
Như đã trình bày ở trên về sự phát triển nông nghiệp của Viêm Việt, thiết nghĩ, sự phát triển của việc canh nông có mối liên hệ như thế nào đến nhân tính rồi phát triển thành nhân chủ ? Với người làm ruộng, quan sát thiên văn là điều tối quan trọng (Trông trời trông đất, trông mây / Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm – Ca dao). Vì cây cối là tự nhiên, là một phần không thể tách rời của thiên địa. Thế nên, trồng trọt về nghĩa là nó là phối ứng với thiên địa. Từ chỗ quan sát thiên văn, con người nảy sinh các quan tâm tư niệm về trời đất, về vạn vật, về vũ trụ. Lúc đó, nhu cầu nhận thức và tâm linh được thúc đẩy. Hơn nữa, như Kim Định có nhắc sơ qua, chính vì quan sát thiên văn, địa lý mà tư duy nông nghiệp có tầm bao quát và ưa về suy tư tổng hợp. Việc gieo gặt dựa vào mùa màng thời tiết khiến con người nông nghiệp: 1- có thái độ hòa hợp với thiên địa; 2- có óc băn khoăn, suy tư về vũ trụ. Thế nên, người nông nghiệp mạnh về suy niệm tổng hợp, có tính trực cảm và hòa ứng với vũ trụ. Đồng thời, từ chỗ có tư duy như vậy, người Viêm Việt giữ thái độ vừa kính ngưỡng vừa tôn trọng thiên địa. Đó phải chăng cũng là gốc của tính chất tự do và dân chủ. Hoa tộc nhiều khi phê phán Viêm Việt bởi tính vô lối, tự do, không chịu vô nề nếp lề luật cũng bởi một phần trọng cái quy luật trời đất hơn là thiết chế áp đặt của nhân quần.
Lại nói, chính vì tâm linh và nhận thức phát triển mà có kính ngưỡng, thành ra có lễ tục, thờ tự. “Nhà nông phải nhìn rộng nên bước lên bậc văn hóa cao hơn. Khi đạt văn hóa cao thì tất nhiên có lễ nghĩa và mở rộng mối giao tiếp….Khác với những giai đoạn săn hái hoặc du mục nay đây mai đó không có địa chỉ nhất định, nên chưa dùng đến ước lệ, lễ tục, mà chuyên dùng võ lực[14]. Thế thì, căn để hình thành và xây dựng nên chủ tính của Viêm Việt tạo đà cho sự hình thành chủ tính Việt Nho, dường như xoay quanh việc canh tác và mối tương quan giữa con người với trời đất một cách thường xuyên và sâu sắc. Hoặc giả, chính ở sự tương tác với thiên địa khác nhau mà gây ra sự khác nhau ở nhận thức của Hoa tộc và Viêm Việt. Cả hai đối tượng với hai địa bàn cư trú khác nhau về thổ nhưỡng và nhu cầu đời sống do đó cũng khác nhau; tiếp đó, lại khác nhau về mối liên hệ với hoàn vũ, dẫn đến cái nhìn về hoàn vũ và về chính bản thân con người ở hai tộc này cũng khác nhau. Chủ tính của Hoa tộc và Viêm Việt khác nhau là vậy chăng ? Và ở đây, hoàn toàn chúng ta có thể đặt vấn đề rằng, chủ tính của Việt Nho chính là thành hình ở những dị biệt như thế trong mối tương ứng với trời đất.
Tính chất này của Việt Nho thể hiện rõ nét trong Kinh Dịch, nói đến âm-dương nhưng vẫn giữ thái nhất, tạp đa nhưng không bỏ đơn nguyên. Không sa vào chỗ duy nhiên hay duy lý, không đánh mất bản nhiên. Hay như  trong Kinh Thi, thiên đầu tiên có ba chương, ở chỗ chú giải của Chu Hy có nói đến lời của Khuông Hành: “phối hợp thành vợ chồng là mối đầu của việc phồn sinh của dân chúng, là nguồn cội của vạn phúc. Nghi lễ của hôn nhân được chính đáng thì về sau phẩm vật thỏa thuận và thiên mệnh mới hoàn toàn[15]. Ở đây, gột bỏ sang tính chất nghi lễ của hôn nhân và thiên mệnh, chúng tôi muốn nói tới sự phối ứng âm dương. Đây là dấu tích của tư tưởng phồn thực nông nghiệp phương Nam. Thế nên, Kinh Thi đã đưa chuyện tác hợp chồng vợ ở vị trí đầu tiên của tập sách. Các yếu tố Việt Nho, một lần nữa có thể nói bị lẩn khuất chứ không mất đi. Cụ thể ở đây chính là quan niệm âm dương hài hòa là riềng mối của vạn vật là chỗ khởi sinh của đời sống văn hóa, xã hội. Đó cũng là “lưỡng diện tính”. Chính ở chỗ này mà Kim Định gọi Việt Nho là nền văn hóa hiếm hoi đi đến được chặng đường tâm linh trên đồ thị tiến hóa của nhân loại (Bái vật – ý hệ - tâm linh). Thiên niên kỷ thứ III sau Thiên chúa phải chăng là thiên niên kỷ của tâm linh. Khi các khoa học cơ bản lần lượt phá sản hoặc cho thấy sự hạn hẹp đáng kể của nó trong việc nắm bắt thế giới.
Thêm nữa, chính ở chỗ có trình độ tiến hóa tâm linh sâu sắc, nhận ra được tính chất sinh sinh hóa hóa muôn vàn muôn vạn, dù đa tạp những vẫn cùng chung nguồn gốc linh thể, cùng bình đẳng như nhau. Đó là nguyên do của tính dân chủ và bình sản của lối tư duy phóng khoáng và cởi mở. Viêm Việt nhận ra lẽ huyền biến tế vi của vũ trụ mà theo đó linh ứng phối hợp với nó. Bởi người với thiên địa là các dạng thức khác nhau của nguyên ủy. Tuy có đặc thù dị biệt nhưng bản chất vốn dĩ là một là tổng hòa. Thế nên, người tuy nhỏ nhưng là tiểu vũ trụ, cùng một thể với vũ trụ. Sống là phối ứng với vũ trụ. Thành ra có tính ôn hòa, biết thuận theo lẽ trời (khác với quan niệm thiên mệnh và thiên tử ), không gây hấn với thiên nhiên, nương theo tự nhiên mà sống (mùa nào thức nấy, ăn theo thuở ở theo thời). Chung quy, ta thấy thái độ sống của Viêm Việt xuất phát từ nhận thức về thế giới. Chủ tính của Việt Nho chính là hình thành trên những nhận thức đó.
Nói thêm về vấn đề nhân chủ trong Việt Nho từ thần quyền đến thế quyền (vương quyền/địa quyền), thể hiện ở sự tôn trọng. Từ Thần Nông đến Thuấn, Vũ rồi nhà Chu, từ công xã nguyên thủy đến phong kiến, nhưng phong kiến nhà Chu dù mang hình phong kiến, tính chất Hán đã lấn át tính chất Việt, nhưng nền tảng nhân chủ vẫn còn. Điều này thể hiện ở sự tôn trọng giữa thể chế cấp trên và thuộc cấp. “Thay vì chuyên chế thì có tự do cho mỗi địa phương (làng xã); cho nên tiếng là phong kiến mafthaatj ra chỉ là một thứ liên bang, bắt Thiên tử phải tôn trọng nền tự do của chư hầu, cũng như chư hầu phải tôn trọng quyền tự trị của xã thôn vậy[16]. Có thể nói vấn đề cốt lõi trong Tinh hoa ngũ điển là vấn đề nhìn nhận lại cốt lõi trong kinh điển Nho giáo để truy tìm nhân chủ - nhân quyền hay nói khác đi là dấu vết của Việt Nho.
Trong công trình Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê có thu thập một số nhiều ý kiến đánh giá về thổ nhưỡng và tính khí cư dân phương Bắc (từ lưu vực sông Hoàng Hà trở lên miền Bắc) và cư dân phương Nam (từ lưu vực sông Dương Tử trở xuống phía Nam). Ông đề cập một cách cụ thể: “Do địa thế và khí hậu mà dân phương Bắc phải gắng sức kiếm ăn, cần, kiệm, chịu cực khổ, kiên nhẫn, cương cường, trọng sự dùng sức, thiên về lý trí; còn dân phương Nam thì thích một đời an vui, nhàn tản, thiên về tình cảm, ảo tưởng[17]. Ở đây, Nguyễn Hiến Lê không nói rõ đến vấn đề phương Nam, phương Bắc trong sự liên đới với cư dân du mục (Hoa tộc) và cư dân nông nghiệp (Việt tộc) tuy nhiên, có thể liên hệ với ý kiến của Kim Định về những đặc tính do thổ nhưỡng quy định ở hai đối tượng này. Bằng chứng là cũng ở công trình vừa trích, Nguyễn Hiến Lê nêu một cách cụ thể hơn những gì đã trình bày: phương Bắc – “áo giáp, binh khí, chết mà không sợ”, hung tợn, gây gỗ, tụ họp, thích tiểu xảo; phương Nam – “khoan nhu mà dạy tha thứ cho kẻ vô đạo”, khinh bạc, thiếu thực tế, phóng đãng. Mỗi đối tượng lại có ưu và khuyết điểm riêng. Nhưng trên thực tế, vì sự trọng tình – trọng lý mà cuộc diện bày ra: Bắc chinh phục Nam về chính trị, Nam chịnh phục Bắc về tư tưởng. Thế nên, Nguyễn Hiến Lê có nêu ra cái “chê” của người đời đối với cư dân phương Nam thuần nông là “ảo tưởng”. Tuy nhiên, chính sự phóng túng ảo tưởng đó là chìa khóa đi vào tư tưởng (theo cái nghĩa thâm sâu uyên áo, huyền vi).
Góp phần lí giải thêm chủ tính Việt Nho, xin nhắc lại cuốn Việt lý tố nguyên, Kim Định có dẫn ra nguyên do tác thành chủ tính Việt Nho là ở chỗ tư hữu về tư liệu sản xuất. Vì sự tư hữu mà thành ra đề cao cá nhân, hay có tính nhút nhát, hòa hiếu[18]. Điều này cần xem lại, bởi ở một trình độ phát triển nhận thức nhất định, con người không chỉ chú trọng ở việc kiến tạo các thành tựu văn mình mà còn nhìn ra được các vấn đề về phòng bị. Lại nói, tư hữu hay nền canh tác nông nghiệp giúp cho cư dân Viêm Việt có “của ăn của để”, dẫn đến tính chất cá nhân. Đó là phần chìm mà phần nổi mà chúng ta cần thấy, tính chất cá nhân đó giữ cho mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể được cân bằng. Tập thể cũng tôn trọng cá nhân và cá nhân tôn trọng tập thể. Tính chất tư hữu ấy cũng góp phần lí giải vì sao con người đòi hỏi tự do, thích được phóng khoáng. Và về mặt này, chính điều đó góp phần giúp cho Viêm Việt hình thành nền nhân bản mà mà trọng tâm là nhân chủ.

4.                       Nhìn lại để hướng tới
Trong số những ý kiến của Kim Định, chúng tôi đặc biệt chú ý đến những dòng sau: “Nếu quả thực Lạc Việt đã đóng góp vào kho tàng Nho giáo những yếu tố quý giá như đã nói ở trên, tại sao sau này không phát huy thêm được gì nữa ? Tại sao cả một khối người lớn lao như vậy lại không có được một hai đại diện xứng đáng để làm chứng nhân cho những đức tính vượt bực mà ta đang tự phụ là của tổ tiên mình ? Hơn thế nữa nói ngay việc duy trì cũng không xong, trái lại hết mọi nhóm Lạc Việt đều bày ra một cảnh chậm tiến kém văn minh hơn Tàu rõ rệt[19]. Tại sao chúng tôi lại nói đến việc này ? Bởi đa phần các nhà nghiên cứu thường đề cập đến văn minh Trung Hoa hoặc văn hóa Việt Nam ở những điểm mạnh ưu trội mà những góc khuất hoặc sự yếu kém, suy thoái chẳng mấy khi được nói tới hoặc chỉ nhắc sơ qua. Thế nên, thông qua bài viết này chúng tôi muốn đặt lại vấn đề nguyên do suy thoái chủ tính Việt Nho.
Vì sao ? Muốn định vị Việt Nho trong bản đồ tư duy nhân loại không chỉ nhắm ở những chỗ nổi bật mà hơn thế cần phải tìm ra nguyên nhân thoái hóa để ngăn ngừa và khắc phục. Ý nghĩa cuộc truy vấn của chúng tôi còn nằm ở mục đích như vậy.
Trong Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Kim Định có nhắc đến hai nguyên do dẫn đến sự suy thoái của Việt Nho. Đó là yếu tố tự nhiên và hoàn cảnh mới. Lịch sử văn minh thế giới cho thấy nhiều nền văn minh dù phát triển rực rỡ cách mấy cũng có lúc tàn lụi khi nó đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó. Sự “chìm lắng” của Việt Nho âu cũng là lẽ thịnh suy. Còn nguyên do thứ hai, nếu chúng ta dùng thuyết tiến hóa để soi vào quá trình phát triển của văn minh nhân loại có thể thấy sự chọn lọc tự nhiên (thôn tính, thâu tóm) diễn ra ở ba bình diện cơ bản: tư tưởng, kinh tế-phương thức sản xuất, khả năng tự vệ. Rõ ràng, cư dân Viêm Việt dù phát triển về kinh tế đã có sự hiện diện của tư hữu nhưng ít chú trọng trui rèn quân bị và khả năng tự vệ, không thể địch lại quân du mục thiện chiến; thêm vào đó, họ lại có tư tưởng ôn hòa bởi lối canh tác ứng phối với trời đất. Tuy nhiên, dù thua cuộc trên bình diện chính trị nhưng về văn hóa Viêm Việt đã chiến thắng. Khi mà kẻ chiến thắng chiếm dụng tư tưởng của kẻ thua cuộc để minh định cho văn minh của mình. Lí do của việc này có thể lí giải bằng việc muốn cai trị dân Việt còn sót lại trên địa bàn mới thôn tính; hai là, phàm nền tư tưởng nào cao hơn sẽ giữ thế thượng phong lấn át. Vậy nên, vấn đề tư tưởng vẫn là yếu tố cốt lõi góp phần xác định địa vị của một dân tộc. Vậy thì trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hóa là xu thế khó cưỡng nhưng mỗi dân tộc vẫn không hề xem nhẹ việc giữ vững bản sắc văn hóa. Sự suy thoái của Việt Nho nhắc nhở chúng ta về việc tìm lại chủ tính dân tộc bằng việc “khai quật” các yếu tố Nho siêu việt và phổ quát còn sót lại trong kinh điển cũng như những tàn tích khác. Điều này hẳn sẽ có ích cho việc định hướng phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay.
Tiếp nữa, lí do thứ hai mà Kim Định nhắc đến trong sự suy thoái của Việt Nho là do thay đổi hoàn cảnh mới hay nói khác đi là Viêm Việt bị đánh bật khỏi địa bàn cư trú nguyên gốc của nó. Đó chính là lí do tai hại. Bởi đây là sự mất liên lạc – mất kết nối giữ quá khứ-hiện tại-tương lai, giữa tổ tiên và hậu duệ. Coi như “con lân què” đã rúc vào rừng sâu mờ mịt, dòng chảy huyền sử phương Nam đã bị ngán dòng. Vấn đề là chúng ta cần đả thông sự gián đoạn đó bằng những cuộc “về nguồn” nghiêm túc và kì công hơn.
Về nguồn mà nói trắng ra là về với tính chất Mẹ (Âm-Dương), trong phần “Âu Cơ túy”, Kim Định muốn nói về những tinh túy của nền văn minh Mẹ. Nghĩa là tính chất âm bao trùm nhưng không có nghĩa là cái Âm tính là chủ tính. Ngược lại, tính chất Dương trong văn minh Cha (Hoa tộc) lại là chủ tỉnh, nghĩa là đi vào chỗ “duy”, đi vào chỗ hệ thống nghiêm nhặt. Ở nền văn minh Mẹ, tính chất âm dương điều hòa, đó là ôn nhu, là phối ứng, tương hợp, xoay chuyển nhịp nhàng – sự linh ứng. Thế nên, nói văn minh Mẹ là nói sự điều hòa, bình đạm, và cân đối âm dương, không sa vào chỗ “duy”. Chọn lý bỏ tính hay chọn tình bỏ lý, phàm bỏ một chọn một là Duy, là cực đoan. Do dó, “chính những cái duy này đã là nguyên ủy sâu xa nhất cho cuộc khủng hoảng hiện nay đang lay tận gốc rễ hết mọi giá trị cũ[20]. Chính cái duy này đã và đang là vấn nạn của người Việt trong mối quan hệ với các nước Châu Á nói riêng và các nền văn minh tiên tiến trên thế giới nói chung. Bởi, có thời chúng ta theo “Tàu”, nằm trong vòng cương tỏa của văn hóa Trung Hoa (Hán Nho); có thời ta theo “Tây”, nằm trong vòng cương tỏa của văn hóa và tư tưởng phương Tây thế kỷ XX”. Và cho đến nay, chúng ta theo “Hàn Lưu”, “Nhật Lưu”, “Thái Lưu”, …Từ chỗ sa vào “Duy”, cực đoan phiến diện, đánh mất chủ tính hài hòa cân đối, chúng ta trở thành kẻ chạy theo bám đuôi các dân tộc khác, trở thành bộ phận “lưu ban” của thời đại. Đánh mất Việt Nho, đã là điều đáng tiếc, chạy theo thời cuộc một cách ‘trống rỗng”, mất luôn cơ hội tìm lại chủ tính của dân tộc, điều này nghĩ còn đáng tiếc hơn. Thế rồi, hiện nay chúng ta đang nhìn thấy một cuộc diện có thể nói là “trận đồ thất điên bát đảo” về mặt tư tưởng, thời buổi mà Việt Nho-Việt tính mờ nhạt và yếu ớt.
Nhận ra phần chủ tính gắn liền với tâm thức và cốt tủy của Việt tính là điều không dễ. Nhưng nếu khai quật được, kết nối được với phần căn nguyên Việt Nho, dân tộc Việt có thể kế thừa sức mạnh tàng ẩn của tổ tiên. Việc đưa kinh điển vào giáo dục với tinh thần Việt Nho, thiết nghĩ, có thể góp phần tái thiết lại nội lực của dân tộc. “Ngày nào mà người Việt chịu đưa kinh điển vào chương trình giáo dục, thì ngày ấy người Việt sẽ nhận thức rõ được năng lực vô biên của mình, nhờ đó sẽ dần dần thoát ra khỏi cái thế bị động theo các trào lưu bất kỳ từ đâu tới, hầu đưa quê hương tiến theo hướng của nhân chủ an lạc[21]. Chúng tôi muốn nhấn mạnh ở cái thế bị động mà Kim Định nói đến. Bởi điều này ông đã nói đến từ thế kỷ trước và đến hiện nay đặc biệt có ý nghĩa. Bởi chính giáo dục chính không phải cái gì khác - ở đó – cuộc tái thiết có thể khởi xuất. Giáo dục luôn là vấn đề đầu tiên, bởi đó là việc tái thiết lại vấn đề con người, tiền đề đầu tiên của mọi vấn đề. Trong thời đại mới, thời đại mở cửa và toàn cầu hóa, giáo dục vẫn chưa khi nào bị bỏ quên. Các vấn nạn của giáo dục được đưa ra mổ xẻ, được dư luận xa hội quan tâm, được chính thể chú trọng phát triển. Tuy nhiên, để nói về một hệ thống triết lý giáo dục e rằng chúng ta chưa thể mạnh miệng phát biểu. Do đó, việc xây dựng và duy trì một hệ thống triết lý giáo dục là thực sự cần thiết. Ở Hội thảo “Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông”, chúng tôi đặc biệt chú ý đến bài viết của PGS.TS. Phạm Thị Phương[22]. Vấn đề xây dựng một triết lý nền tảng cho toàn hệ thống giáo dục không phải là vấn đề xa lạ trên thế giới nhưng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đến nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trước đây, Đại học Văn Khoa Sài Gòn và sau này là ĐH KHXH&NV TP.HCM có đề cập và mở rộng: Giáo dục toàn diện – Khai phóng – Đa văn hóa (Whole Person – Liberal – Multi Cultural Education). Tuy nhiên, để nói về triết lý giáo dục của cả nền giáo dục thì theo như đa phần các tham luận trong Hội thảo Triết lý giáo dục Việt Nam cũng do ĐH Sư phạm TP.HCM tổ chức, đã nhận định: Việt Nam vẫn đang loay hoay tìm triết lý giáo dục. Chúng ta không có triết lý giáo dục hoặc chúng ta đã và đang có triết lý giáo dục nhưng không phù hợp. Tất cả những điều đó chỉ nói lên rằng, chúng ta đang “ngơ ngác giữa chợ đời” trong việc định hình một nền triết lý giáo dục toàn diện và xuyên suốt.
Phải chăng, để khỏi rơi vào thế bị động trước các trào lưu từ mọi phía, nền giáo dục hiện thời cần cân nhắc xác định chủ tính Việt Nho và xem đó như một lối về cho chủ tính dân tộc và cũng là nền tảng triết lý giáo dục mà Việt Nam cần hướng tới cho thiên niên kỷ mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Khổng Tử (2004), Kinh Thi, Nxb Văn học, Hà Nội.
2.      Khổng Tử (2004), Kinh Thư, Nxb VH-TT, Hà Nội.
3.      Kim Định (1967), Chữ thời, Tử sách Văn Hiến, Saigon.
4.      Kim Định (2017), Cơ cấu Việt Nho, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
5.      Kim Định (2017), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
6.      Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
7.      Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, Lá Bối, Saigon.
8.      Nguyễn Hiến Lê (2006), Sử Trung Quốc, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.
9.      Phạm Thị Phương (2014), Nguyên lý tự do của Lev Tolstoi như một gợi ý cho đổi mới giáo dục Việt Nam – TCKH chuyên đề Khoa học giáo dục (tham luận Hội thảo Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông), TCKH ĐH Sư phạm TP.HCM, số 56(90),03-14.
10. Võ Quốc Việt (2013), Biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Thanh Tâm Tuyền (Luận văn Thạc sĩ Văn học), Đại học Sư phạm TP.HCM.



[1] Quả thực, nếu có thể lấy chủ tính của Việt Nho để soi xét văn học trung đại Việt Nam, chẳng hạn như trường hợp Hồ Xuân Hương, chúng ta hẳn sẽ thấy được nhiều ánh sáng mới, đặc sắc và thú vị. Cũng như chúng ta có thể nhìn thấy tinh thần “tam giáo đồng nguyên” trong văn học trung đại Việt Nam. Phải chăng tinh thần này, “tam giáo” có thể kết hợp hài hòa ở tinh thần Việt cũng bởi chủ tính nhu thuận-ứng phối-hài hòa của Việt tộc trong việc tiếp nhận, hơn nữa, căn bản của “tam giáo” chính vì đã bắt gặp hằng số của chủ tính Việt Nho mà sự dung hợp “tam giáo” trở nên thuận lợi và hết sức tự nhiên. Quả thực, nếu chúng ta dựa trên góc nhìn của chủ tính Việt Nho để nhìn nhận các vấn đề văn hóa, văn học Việt Nam trung đại có thể sẽ gợi ra rất nhiều vấn đề đáng để bàn luận.
[2] Kim Định (2017), Cơ cấu Việt Nho, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.23.
[3] Võ Quốc Việt (2013), Biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Thanh Tâm Tuyền (Luận văn Thạc sĩ Văn học), Đại học Sư phạm TP.HCM.
[4] Kim Định (2017), Cơ cấu Việt Nho, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.29.
[5] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.22-23.
[6] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.25.
[7] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.34.
[8] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.35.
[9] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.37.
[10] Kim Định (2017), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, tr.85-86.
[11] Kim Định (2017), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, tr.86.
[12] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.25.
[13] Khổng Tử (2004), Kinh Thư, Nxb VH-TT, Hà Nội, tr.234-235.
[14] Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, Lá Bối, Saigon, tr.55.
[15] Khổng Tử (2004), Kinh Thi, Nxb Văn học, Hà Nội,tr.40.
[16] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.106.
[17] Nguyễn Hiến Lê (2006), Sử Trung Quốc, Nxb Tổng hợp Tp. HCM, tr.25.
[18] Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, Lá Bối, Saigon, tr.55.
[19] Kim Định (2017), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.99.
[20] Kim Định (1970), Việt lý tố nguyên, Lá Bối, Saigon, tr.272.
[21] Kim Định (2016), Tinh hoa ngũ điển, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.129.
[22] Phạm Thị Phương (2014), Nguyên lý tự do của Lev Tolstoi như một gợi ý cho đổi mới giáo dục Việt Nam – TCKH chuyên đề Khoa học giáo dục (tham luận Hội thảo Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông), TCKH ĐH Sư phạm TP.HCM,số 56(90), 3-2014, tr.57-67.

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...