“NGƯỜI ĐỌC TIỀM ẨN” TRONG MỘT SỐ BÀI VĂN TẾ CỦA
ĐẶNG ĐỨC SIÊU[1]
[Võ Quốc Việt - Khol V., 2019]
Tóm tắt
Đi từ vấn đề người đọc
tiềm ẩn, căn cứ trên một số quan điểm tiếp nhận văn học (của Roman Ingarden,
Wolfgang Iser), trong bài viết này, chúng tôi muốn đặt ra vấn đề khả thể tiếp
nhận của thể loại văn tế. Từ đó, dựa vào việc khảo sát một số bài văn tế của Đặng
Đức Siêu, chúng tôi làm rõ thêm hình tượng người đọc tiềm ẩn với các đặc trưng
riêng biệt. Ngoài ra, để đạt được mục tiêu đó, bài viết còn nêu ra một số quan
điểm về phương pháp tiếp cận văn bản văn học, hay nói khác đi, làm cho các ý niệm
này từ bình diện lý thuyết đi vào ứng dụng trên một văn bản cụ thể. Sau hết, vấn
đề mà bài viết muốn trình bày là đặc trưng khả thể tiếp nhận (người đọc tiềm ẩn)
và văn tài của Đặng Đức Siêu ở thể loại văn tế.
Từ khóa: người
đọc tiềm ẩn, tiếp nhận văn học, văn tế, khả thể tiếp nhận, Đặng Đức Siêu.
1.
Mở đầu
Vấn đề tiếp nhận nổi lên với trường phái Konstanz ở thập
niên 60 của thế kỷ trước nhưng đâu đó trong hệ thống lí luận văn học đông tây,
vấn đề tiếp nhận cũng ít nhiều đã được đặt ra một cách trực diện hoặc gián tiếp.
Lưu Hiệp trong Văn
tâm điêu long có đề cập: “Như vậy để
xem xét tình ý của văn, trước nêu sáu điều: một
là xem xét vị trí thể văn; hai là xem xét bố cục văn từ; ba là xem xét thông biến;
bốn là xem xét kỳ chính; năm là xem xét sự nghĩa; sáu là xem xét thanh luật. Vận
dụng các điều trên thì ưu khuyết của văn có thể thấy được”[2]. Nếu xem xét quan điểm này
dưới góc độ tiếp nhận, chúng ta có thể thấy quan điểm của Lưu Hiệp không chỉ
đơn thuần liệt kê mà thực chất là sự sắp xếp các bước tiếp cận thế giới nội tâm
của văn bản. Nói khác đi, ở đây, Lưu Hiệp ít nhiều đặt ra vấn đề tiếp nhận văn
bản. Tuy ông quan niệm, khi người đọc tiếp xúc với văn bản phải “khinh trọng vô
tư, yêu ghét công bằng”, nghĩa là lột bỏ cái tư thế cá nhân của người đọc để đến
với tác phẩm một cách đơn thuần; tức là, ông lưu ý người đọc phải tiếp nhận văn
bản như chính nó, trong trạng huống tồn tại của chính văn bản. Vượt lên trên
quan niệm bước đầu ấy, chúng ta nhìn thấy các lưu ý cũng như chỉ dẫn quá trình
thâm nhập văn bản mà ông đưa ra kì thực có sự gần gũi với quan niệm hiện đại về
tiếp nhận văn học (R. Ingarden, W. Iser). Việc xem tình ý hay thăm dò thâm nhập
văn bản văn chương phải chăng là quá trình tiếp cận văn bản. Đó là quá trình đọc.
Phải chăng tư duy Á đông thường có khuynh hướng tổng hợp, nên khi đọc – tiếp cận
văn bản cũng có thiên hướng phóng tầm hình bao quát toàn thể đối tượng. Lưu Hiệp
xét từ thể văn đến thanh luật ấy là đi từ bình diện bao quát đến chi tiết, từ
chiều rộng đến chiều sâu.
Trong
sáu vấn đề nêu ra, Lưu Hiệp cho rằng thể văn là tiên quyết. Phải chăng vấn đề
thể loại mà bao quát hơn là loại thể tác phẩm văn học gần như là yếu tố then chốt.
Bởi vì thể loại nghĩa là mang tính định hướng cho sự hình thành của văn bản,
nghĩa là cái quy định (lập trình sẵn) trong tư duy người viết. Theo đó, thể văn
là tư thế mà người đọc “phải tự thu xếp” để bước vào cương vực của văn bản. Đó
là cái chiều hướng mà người viết phát xuất để chiếm lĩnh cái mà người đọc sẽ
triển khai vô hạn. Kẻ viết lập nghiệm. Người đọc là sự ứng nghiệm. Thế nên văn
bản ngay từ đầu là một chiều hướng. Và đó là gốc của cái véc tơ ý hướng mà
chúng ta có thể cứu xét: thể loại.
Chính thế, chúng tôi đến với bài viết này. Mục tiêu
trước tiên khởi đi từ suy nghĩ như thế về thể loại và sự tiếp nhận của người đọc.
Qua trường hợp cụ thể (văn tế của Đặng Đức Siêu), chúng tôi muốn đặt ra vấn đề
về sự quy định của thể loại đối với hoạt động tiếp nhận. Vấn đề này không hoàn
toàn mới mẻ, vì đâu đó, trong các công trình lí luận trước đây, với các đặc thù
thể loại, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến sự quy định của thể loại đối
với việc tiếp nhận một văn bản cụ thể. Cũng như mỗi loại hình nghệ thuật cần có
cách thưởng thức riêng, mỗi thể loại văn học cũng cần có cách tiếp cận phù hợp.
Do thế chúng tôi đi đến vấn đề người đọc tiềm ẩn của thể loại văn tế (trường hợp
văn tế của Đặng Đức Siêu) với xuất phát điểm này. Tất nhiên, mỗi thể loại đều
có cái hay cái thú vị riêng, nhưng đối với thể loại văn tế, sự định hướng (mà
chúng tôi gọi là vec tơ ý hướng) phát xuất từ người viết (nhắm đến kẻ tiếp nhận)
là điều đặc biệt quan trọng. Điều này quy định sự thành công của bài văn tế
cũng như cho thấy văn tài của người viết.
Nguyễn Văn Trung trong Lược khảo văn học có đề cập: “Ngôn ngữ, chữ viết, văn chương, nghệ thuật
đã chỉ có vì người khác và cho người khác”[3]. Viết – sáng tạo nghĩa là
Viết-sáng tạo cho người khác. Cơ bản viết là một hình thức tha hóa để vượt ra
khỏi vòng vây của tự ngã, thoát khỏi rào chắn cá nhân để vươn đến chỗ liên cá
nhân. Cũng như nhiều người đã nói: viết nghĩa là phải viết cho. Hơn bất cứ thể
loại nào, văn tế “viết cho”, nó hướng đến “người khác” đó. Là kẻ mất người còn,
quá vãng hay tại thế. Dù gì, văn tế vẫn là một dự phóng về tha nhân.
Trong bài viết này, chúng tôi không nhằm hướng đến việc
khảo cứu quan điểm của Wolfgang Iser. Thế nhưng, khi nói đến khái niệm “người đọc
tiềm ẩn”, thiết nghĩ cần có sự tham chiếu và khảo xét về tư tưởng tiếp nhận của
ông. Tuy nhiên, chúng tôi không tự bó buộc mình vào quan điểm của Iser. Là Iser
nhưng là một “Iser nối dài”. Xuất phát từ nền tảng lí luận như thế, công việc của
chúng tôi là khảo cứu quá trình đọc (hồi cố và phóng chiếu hay khứ viễn - hồi
quy) và phân tích các lớp kết cấu (có 4 lớp kết cấu). Thông qua đó, chúng tôi
hướng đến việc góp phần nhìn nhận vấn đề người đọc tiềm ẩn của thể loại văn tế
cũng như cho thấy văn tài của Đặng Đức Siêu.
2. Vài nét về “Người đọc tiềm ẩn” trong quan niệm của W. Iser soi chiếu ở
thể loại văn tế
Phương hướng nghiên cứu của Wolfgang Iser (1926-2007) ảnh
hưởng từ R. Ingarden (1893-1970) hay việc nghiên cứu tiếp nhận trên nền tảng hiện
tượng học Husserl mà cốt lõi là mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, tính ý
hướng, cũng như phương pháp giảm trừ hiện tượng học. Văn bản là kết quả của hoạt
động ý thức, về cơ bản nó là một chiều hướng. Cái ý hướng mà người viết gán cho
câu chữ bằng ý lực của mình sẽ là một dự trình vận động. Và phương tiện chuyên
chở cho sự vận động ấy là người đọc – người tiếp nhận. Khi nghiên cứu về sự đọc,
Iser dường như đã sử dụng biện pháp giảm trừ hiện tượng học. Cơ bản sự khai
sinh văn bản và tiếp nhận văn bản cũng là một hiện tượng tồn tại. Quy giảm để
truy nguyên bản tính của sự đọc. Qua đó, Iser phát hiện và khai mở ra các khía
cạnh bản nhiên của sự đọc và sự thú vị, vô vàn, diệu kì của việc đọc.
Một cách tổng quan có thể thấy quan điểm của Iser về
tiếp nhận văn bản xoay quanh việc ông tìm hiểu quá trình đọc. Trong đó, Iser
xem xét trên hai bình diện: bình diện thời gian và bình diện cấu trúc (theo
Hoàng Phong Tuấn). Trên bình diện thời gian, ông đưa ra khái niệm tính không
liên tục hay điểm nhìn lưu chuyển. Tính không liên tục này chính là quá trình bảo
lưu – phóng chiếu hay hồi cố - tiên liệu mà người đọc tiến hành khi “dấn thân”
vào văn bản để văn bản được đặt trên bệ phóng của quá trình đi từ chỗ tiềm tàng
đến phát lộ. Trên bình diện cấu trúc, văn bản là sự kết nối các chất điểm tri
nhận mà giữa chúng là các khoảng trống, khoảng mờ để người đọc bằng khuynh hướng
“ảo tưởng hóa” – hay xu hướng kết nối, thống nhất hóa văn bản để làm nó có
nghĩa, hiểu được sự nghĩa của văn bản. Tất cả các khái niệm đó giúp cho chúng
ta hình dung về hình tượng một người đọc tiềm tàng mà văn bản hướng đến. Nói
khác đi, người đọc tiềm ẩn là cái khả thể triển khai của văn bản. “Thế nên để bắt đầu toàn bộ quá trình năng động
này: văn bản được viết ra phải gánh vác luôn cả những giới hạn hiển nhiên ở những
cái tiềm ẩn không được viết ra của nó để ngăn chặn chính những điều này khỏi trở
nên quá mờ mịt và mơ hồ, nhưng song song đó những cái tiềm ẩn này, được thi triển
bởi trí tưởng tượng của người đọc, thiết đặt lại cái tư thế đã định trước chống
lại cái kinh nghiệm phú cho nó ý nghĩa viễn đại hơn những gì có thể hình dung về
nó nhằm chiếm lĩnh chính nó”[4]. Về mặt nào đó, người đọc
tiềm ẩn không phải là kẻ đọc mà là cái dung môi cho sự đọc, là kẻ khêu khích kẻ
đọc thực sự tiến hành đọc. Người đọc tiềm ẩn là sự sắp sửa, là kẻ mê hoặc người
đọc bước vào địa giới của văn bản. Đó là vị lai của sự đọc. Văn tế, với tên gọi
thể loại, hay không gian – bối cảnh cho sự triển khai của thể loại này đã là việc
dự trình cho sự tiếp nhận nội dung bài văn tế. Thể loại cùng với bối cảnh sử dụng
làm cho hoạt động tiếp nhận thực tế trôi tuột vào trường cảm xúc, trường suy tưởng
– trường tiếp nhận của thể loại ấy. Chính cái khả năng kéo người đọc trượt dài
vào văn bản ấy, chính nó là bóng hình người đọc tiềm tàng, là “ma đưa lối quỷ dẫn
đường” vào địa mồ văn bản văn học.
Phải chăng vì thế nên Hoàng Phong Tuấn cho rằng: “Như vậy, người đọc mặc nhiên, như Iser nói,
là một “mô hình siêu nghiệm”, là điều kiện khả thể trong chính đặc trưng của
văn bản để cho hoạt động đọc có thể diễn ra”[5]. Điều kiện khả thể như đã
nói có thể gồm nhiều vấn đề lí luận hóc búa cũng giống như cách dùng từ của nhà
nghiên cứu, nhưng trước tiên, điều kiện cho sự thi triển văn bản, cho phép nó
hiển hiện và thực hiện sự tồn hữu của nó hẳn nhiên phải là những đặc điểm của
chính thể loại. Xác định người đọc tiềm ẩn của văn tế không thể không cứu xét đến
phương diện này.
“Nếu, sau nữa, chúng ta cố công và thấu hiểu
những tác động dẫn đến và những hồi ứng gây ra bởi tác phẩm văn học, chúng ta hẳn
phải chú ý đến sự hiện diện của người đọc mà không có bất cứ quyền hạn nào đặt
định trước đặc điểm và tình thế lịch sử (historical situation) của hắn. Nếu cần
thuật ngữ nào xác đáng hơn, chúng ta có thể gọi hắn là người đọc tiềm ẩn (the
implied reader). Hắn là hiện thân của tất cả “những thiên hướng/khuynh hướng về”(predispositions)
cần thiết cho tác phẩm văn học thi triển những tác động của nó – cái khuynh hướng/
thiên hướng này không được ấn định bởi bất cứ một kinh nghiệm vượt ngoài thực
tiễn nào mà là bởi chính bản thân văn bản. Do thế, căn cội của người đọc tiềm ẩn
như một quan niệm đã được thiết đặt một cách vững chắc ở cấu trúc văn bản; hắn
là một kết thức (construct) [mà chúng ta] không thể nào đồng hóa với bất kì người
đọc thực tế nào”[6].
Trong sự luận giải này chúng tôi đặc biệt chú ý đến sự
kết thức (tạm dịch). Sự kết thức nói đến việc kết tạo hình thái – sự mô thức
hóa của một chuyển động nội tại. Vậy thì đó là sự kết thức của những cái gì ?
Công việc của người viết về mặt nào đó cũng giống như việc Nữ Oa thổi sinh khi
vào những hình nhân đất biến chúng thành ra có sinh khí, có cuộc đời. Người viết
đã khởi xuất một ý hướng, hóa thân nó và ngụ ẩn ở những con chữ nhiệm nhàu. Bấy
giờ sự kết thức bắt đầu. Nhưng phải đến khi nó (cái ý hướng khai nguyên ấy) được
phơi mở trong “tử cung” của mẹ. Nghĩa là một chiều hướng về hình thái văn bản
hay nói khác đi là một sự nhắm đến của người viết về cái mà văn bản sẽ hình
thành. Nói trắng ra, đó là sự hình dung về mặt loại thể của văn bản. Tất nhiên,
người viết không nhất thiết gò ý hướng của mình vào một thể loại. Mỗi văn bản gần
như là một thể loại. Nhưng hẳn nhiên, bất cứ một ý hướng nào đó muốn lưu chuyển
và hình thành, nó cần có một hình thức, dù là cái hình thức của riêng nó. Cái
hình thức đó phải thâm nhập một cách triệt để vào ý hướng đến mức người viết
không còn nhận ra cái chiều hướng thể loại mà hắn muốn cái ý hướng ban đầu sẽ
thành hình. Thế nên, sự kết thức của ý hướng tính kia phải chăng là thể loại.
Hơn bao giờ hết, người viết văn tế ý thức rõ ràng về mục đích của văn bản.
Nghĩa là khi khởi sự viết văn tế, kẻ viết đã “phóng” ra trên một quá trình (gần
như mặc định) đi về kết cục hình thành của lòng ái mộ, tiếc thương và kính ngưỡng.
Hơn nữa, văn học trung đại, sự ý thức và định hướng về thể loại càng trở nên rõ
ràng, nếu không nói là quy phạm cho kẻ viết. Vậy nên, người đọc tiềm ẩn – cái
khả thể cho phép văn bản thi triển – cái kết thức ấy – nói khác đi chính là những
khu biệt của thể loại hòa quyện trong những đặc trưng về ý hướng khởi tạo văn bản.
Như vậy, sự kết thức ấy đi từ đâu và đến đâu ? Nó bắt
đầu như thế nào ? Trước sự kết thức đó là gì, sự kết thức diễn ra như thế nào
và quá trình đó tạo nên điều gì/cái gì ?. “Thuật
ngữ này [the implied reader] hợp nhất chặt chẽ cả tiền thiết định cơ cấu
(prestructuring) nghĩa tàng ẩn của văn bản và cả sự hiện thực hóa
(actualization) những cái tàng ẩn này ở người đọc thông qua quá trình đọc”[7]. Quá trình vận động từ ‘Tiền
cơ cấu lập nghĩa’ đến ‘hậu cơ cấu lập nghĩa’ hay người đọc tiềm ẩn là chiều hướng
của sự thi triển từ tiền cơ cấu lập nghĩa đến hậu cơ cấu lập nghĩa. Và Tiền cơ
cấu lập nghĩa là sự dự phóng về hành động viết. Đó chỉ là một “xao động” về sự
viết. Kẻ viết chỉ phóng ra một ý lực về cái đích đến mơ hồ của sự nghĩa. Mà sự
nghĩa ấy, kẻ viết cũng chưa hình dung rõ. Chỉ là một thôi thúc tự thân cần khởi
xuất. Rồi từ đó, việc xác định bắt đầu từ chỗ lập nghĩa tiền cơ cấu. Lúc này,
văn bản chỉ là một ý hướng, nó cần hình hài để thể hiện sự nghĩa của nó. Tựu
thành sự lập nghĩa cần có một hình thái. Sự hình thái hóa này cần một cơ cấu. Dự
phóng về một cơ cấu này, đồng thời kéo theo sự lập nghĩa, lập ngôn, lập cơ để cấu.
Và văn bản bước đầu đi vào quá trình tạo tác. Rồi cứ thế, sự vận động của quá
trình lập nghĩa diễn ra song hành với cơ cấu hóa. Hai quá trình này không phải
lúc nào cũng đồng thời (hầu như luôn có độ chênh nhất định, để lại những khoảng
trống vi diệu, 1 sự khêu khích, 1 sự chờ đợi) nhưng dù gì, cuối cùng cả hai quá
trình này cũng phải cùng về đích. Dù gì, văn bản cũng phải thành hình. Và đến
giai đoạn hậu cơ cấu lập nghĩa, quá trình cơ cấu hóa mà người viết phát khởi dừng
lại, để nhường lại sự lập nghĩa hậu cơ cấu cho người đọc tiếp tục hai quá trình
như đã nêu. Đối với văn tế, sự tiếc thương, kính ngưỡng, tán thán kia sẽ tiếp tục
lưu chuyển trong lòng người nghe/người đọc/người tiếp nhận. Tự thân người tiếp
nhận sẽ nới rộng phạm vi của quá tình cơ cấu lập nghĩa ấy. Nói khác đi, người
tiếp nhận sẽ phá vỡ quá trình cơ cấu lập nghĩa ấy. Tế văn của kẻ viết sẽ trở
thành tế văn của người nghe/người tiếp nhận. Kết thức đến đây coi như là đã
hoàn thành một chu kỳ của nó. Đến khi người đọc của tế văn này đọc những văn bản
sau nữa, thì kết thức đã có tiếp tục vận động, để lại phá vỡ sự lập nghĩa cơ cấu;
và cứ thế miên viễn vô cùng cực.
Đến đây, chúng tôi muốn trở lại và xoáy vào thể loại
văn tế để làm rõ mục tiêu mà chúng tôi muốn hướng đến. Điều quan tâm tiếp theo
của chúng tôi, đó là: khả thể của sự thi triển văn bản đã bắt lấy người đọc thực
tế như thế nào để bắt đầu quá trình thi triển ? Hay nói khác đi, người đọc tiềm
ẩn của văn tế đã “chộp lấy” người đọc thực tế của văn tế bằng cách nào ? Giữa
cái chiều hướng thi triển và sự thi triển có một “dung môi” nào khiến cho sự tiếp
nhận bắt đầu ? ““Cấu trúc nguyên tác” của
người đọc tiềm ẩn bao gồm ba bộ phận cấu thành cơ bản: những hòa phối [về mặt kết
cấu] của nguyên tác, trường hội tụ (convergent place) của chúng và mặt ưu trội
của người đọc. Trường hội tụ và mặt ưu trội của người đọc được hiện thực hóa bởi
người đọc thực tế, mặt khác chúng vẫn tàng ẩn trong cấu trúc nguyên tác”[8].
Sự bắt lấy mà chúng tôi đã nói chính là nằm ở việc văn tế có khả năng tạo dựng
một trường hội tụ. Chính trường hội tụ này là dung môi mà cũng là chiếc cầu nối
kẻ xưa người nay, kẻ mất người còn. Mỗi nhịp của chiếc cầu tâm linh này, mỗi hợp
hóa của dung môi này chính là các lớp kết cấu của văn tế mà ở phần tiếp theo
chúng tôi sẽ phân tích nhiều hơn cũng như qua đó cho thấy văn tài của Đặng Đức
Siêu.
Tiếp theo, thế thì ở văn tế, đó là trường hội tụ của
cái gì ?
“Hành động bị cơ cấu” (structured acts) của
người đọc tiềm ẩn đã khởi động quá trình hiện thực hóa [văn bản]. Theo ý kiến của
Iser, văn bản chỉ có nghĩa khi nó được đọc, thế nên tác phẩm văn chương chỉ trở
nên có nghĩa trong cuộc gặp gỡ với người đọc. Với quan niệm về người đọc tiềm ẩn,
hai thành tố người đọc và văn bản không còn được xem như hai thực thể tồn tại
riêng rẽ nữa. Chúng là hai mặt của một đồng tiền và là một toàn thể thống nhất
hữu cơ với nhau. Vì thế, trong mối tương tác qua lại giữa văn bản và người đọc,
những thông tin văn chương bắt đầu xuất hiện. Do vậy, người đọc tiềm ẩn có thể
được lĩnh hội như một kết thức (construct) hiện tượng học của người đọc thực tế.
“Cấu trúc nguyên tác” của người đọc tiềm ẩn tương ứng với cấu trúc mời gọi hồi ứng
của văn bản. “Hành động bị cơ cấu” của người đọc tiềm ẩn là một cơ chế phóng
chiếu-hồi ứng trong bản thân người đọc. Điều đó có nghĩa là, đối diện với cấu
trúc ma lực của văn bản, người đọc có cảm giác về sự tồn hữu của cái ma lực lôi
kéo hắn ngã vào mối tương tác với văn bản, để hiện thực hóa những ý nghĩa tiềm
tàng”[9].
Cái “ma lực” – nghe đọc tế văn, chẳng rõ vì sao ta cảm
thấy ngậm ngùi, thương tưởng. Ta chẳng rõ lòng mình nhưng sự thương tưởng là có
thật. Ta chẳng biết lòng thương tưởng phát khởi lúc nào, từ đâu và do đâu ? Chỉ
biết nó ngự trị giữa lòng mình. Cái ý hướng của người viết giống như đột khởi
có đấy giữa lòng mình. Thế nên, gọi là “ma lực”. Kì thực, đó là sự “bị cơ cấu”.
Người đọc tiềm ẩn giống như hồn ma bóng quế hiển hiện về lôi người đọc thực tế
nhào té vào nội tâm văn bản. Tùy theo mãnh lực và ý lực của người viết mà sự dấn
thân của người đọc xảy ra ở mức độ nào, tất nhiên còn tùy thuộc vào sự “nhập đồng”
của kẻ tiếp nhận. Sự tương thông diễn ra. Văn tế có thể tạo dựng một tam trùng
vận động của linh tính. “Linh xưa”, “Linh nay-người tiếp nhận”, “Linh trung
chuyển-người viết” tạo thành tam trùng linh ứng. Kết thức tương thông trong một
trường tư tưởng đuộm màu tán thán. Phải chăng đây là khí lực của văn ngôn, ma lực
của văn tế, uy lực của văn tâm.
Một số ý luận bàn ở trên, chúng tôi muốn kết nối vấn đề
người đọc tiềm ẩn với vấn đề đặc trưng của thể loại văn tế. Nhưng bằng cách nào
chúng ta tìm thấy “người đọc tiềm ẩn” của văn tế hay nói khác đi là nhìn thấy
văn tài của người viết văn tế - vấn đề này sẽ tiếp tục được trình bày ở phần
sau của bài viết.
3. Hình tượng người đọc tiềm ẩn trong một số bài văn tế của Đặng Đức
Siêu.
Tiếp theo, chúng tôi muốn đề cập đến một vài đặc điểm
của văn tế[10]
có thể kết dẫn với vấn đề người đọc tiềm ẩn. Phải nói ngay rằng đã có nhiều tài
liệu nghiên cứu văn tế, bài viết của chúng tôi không hướng đến khai mở gì thêm
về đặc điểm thể loại. Công việc mà chúng tôi muốn thực hiện ở đây cốt yếu dựa
trên các nghiên cứu trước đó - những hiểu biết cơ bản và được số đông người đồng
thuận - để mở lối về người đọc tiềm ẩn.
Có
thể nói điểm nổi bật nhất ở văn tế là trường cảm xúc của cái bi, là niềm đau. “Nỗi đau đớn trong văn tế không chỉ dừng lại ở
tình cảm cá nhân, càng về sau càng có xu hướng xã hội hóa. Đó là sự uất ức về cảnh
nước mất nhà tan, nhân dân đồ thán, xót thương cho những người hi sinh vì nghĩa
lớn, căm hận giặc thù, lên án bất công xã hội….”[11]. Thế thì cái khả thể cho
sự triển khai của văn bản văn tế là một trạng huống mang tính xã hội. Trạng huống
của người đọc tiềm ẩn là con dân của một đất nước đang hồi nguy biến, cùng
chung chịu cảnh đời ly tán, giặc giã lan tràn, người mang nỗi buồn thương đau
đáu nghẹn ngào. Về cơ bản, hình tượng người đọc ở đây là một kẻ trong cảnh tình
yếm thế. Đó là tình cảnh của sự mất mác và thất bại. Nhưng vượt lên trên sự thất
bại như một bệ phóng, tâm thức bị dồn nén đến mức bột phát tôn thượng. Thế nên, diễn trình của người đọc tiềm ẩn ở
đây là quá trình đi từ cái bi đến cái cao cả.
Trong
“Văn tâm điêu long”, Lưu Hiệp có nói
đến thể “Ai điếu”. Phân tích nghĩa của “ai” “điếu”, Lưu Hiệp đã nói đến cốt lõi
của ai điếu mà nếu phóng chiếu vào văn tế dễ thấy mối liên hệ. Đại khái, ai là
để khóc người chết yểu, điếu để viếng “người
quân tử qua đời, làm tang ma định thụy hiệu là vô cùng bi ai vậy”[12]. Ai điếu hay văn tế đều
là viết cho người chết, hướng đến linh xưa là những vong hồn. Viết nhằm mục
đích khóc than, tán tụng công đức, thương tiếc trước sự ra đi một hay tập thể
người. Thế nên để cho khả thể của sự thương cảm ấy diễn ra, cần thiết phải:
+
người đã khuất được tái hiện
+
người viết kết thông với người đã khuất
+
người tiếp nhận có 1 tiền giả định để kết thông với người đã khuất (bao gồm tư
thế đọc và trạng huống lịch sử về người đã khuất)
Vậy
nên, văn tế lấy cái cao cả để tạo nên cái bi; ngược lại cái bi tôn vinh cái cao
cả. Đó là biện chứng của văn tế. Cụ thể, ở đây có 2 mệnh đề tiền giả định đối lập:
tài cao, đức cả - thực tại phũ phàng.
Mô
thức chung: linh xưa><thực tại à gây nên tiếc nuối,
thương cảm.
a.
Điều kiện khả thể trong văn tế Đặng Đức
Siêu hay ba quá trình thị hiện của tiếp nhận.
“Những tác động
và những phản hồi không phải là những thuộc tính của cả văn bản lẫn người đọc;
văn bản trình bày một tác động tiềm năng được hiện thực hoá trong quá trình đọc”[13]. Chúng ta hãy bám vào cái
tác động tiềm năng đó. Tác động tiềm năng nghĩa là một dự trình. Một khả năng về
sự tác động của văn bản đến người đọc. Như thể có một người đọc mơ hồ có đấy
cho văn bản. “Một người tình chung” không hẹn ước. Nói khác đi, đó là cái chiều
hướng của văn bản. Và văn tế hơn bất cứ thể loại nào là một văn bản luôn luôn
hướng đến cái hình bóng mơ hồ đó. Viết như thể cho anh linh người đã khuất, viết
như thể cho một người rầu rầu cảm thương và tiếc nuối. Hình ảnh người đọc mà
văn bản hướng đến là một hình tượng với những nét đặc trưng như vậy. Ngoài ra,
đó còn là một hình tượng con người trong tư thế kính ngưỡng, cảm kích hoặc trân
quý. Nói chung lại, hình tượng người đọc tiềm ẩn mà thể loại văn tế hướng đến
là đại diện cho cái nhìn của 1 chủ thể đối với cái cao cả. Cả người viết và người
đọc dường như đứng phía dưới cái mà văn bản nói đến trong chiều hướng tích cực.
Vậy biện chứng cái bi – cái cao cả của văn tế có thể quảng diễn và nắm bắt bằng
cách nào ?
Như
đã nói, văn tế thường có 4 phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết. Nội dung
và đối tượng được tế thường là để dụ tế các vị quan lại anh hùng, người có công
với triều đình, nhân dân, người thân, các yếu tố tâm linh trong tín ngưỡng dân
gian. Nguyễn Đông Triều khi nhận xét về “Dụ tế huân thần” của Lê Quý Đôn và Phạm
Quý Thích đưa ra ý kiến: “Câu bốn chữ hoặc
tám chữ, câu song quan, cách cú, gối hạc thường đi theo từng cặp được vận dụng
nhuần nhuyễn, đa dạng trong các bài theo lối phú, trong đó, tần suất cao nhất
là kiểu câu cách cú. Điều này giúp tạo nên sự cộng hưởng về âm điệu: lúc dồn dập
thống thiết, lúc chậm rãi tiếc nhớ, lúc mênh mang tư lự…”[14] . Vấn đề được Nguyễn Đông
Triều đặt ra là lớp ngữ nghĩa (từ, câu) mà R. Ingarden (1893-1970) phải chăng
đã đề cập đến trong nghiên cứu của mình về tác phẩm văn chương. Chính lớp “ngữ
nghĩa” này thực sự đã đóng góp rất nhiều vào việc hình thành trường lực tiếp nhận,
là dung môi quy định tính chất của người đọc tiềm ẩn. Hay nói khác đi, nó hình
thành cái khả thể tiếp nhận của văn tế, cái chiều hướng thụ tưởng tiếp chuyển về
tinh thần của người đọc khi va chạm với văn bản tế văn.
Xin
nhắc lại ý kiến của Hoàng Phong Tuấn như duyên cớ để để dẫn quá vào trình khảo
sát đặc trưng thể loại cho cái khả thể tri nhận văn tế; rằng người đọc tiềm ẩn
là một “mô hình siêu nghiệm”. Từ đó,
chúng tôi đặt ra câu hỏi: “mô hình siêu nghiệm” trong văn tế Đặng Đức Siêu đã vận
động như thế nào ? Điều gì khiến cho “mô hình siêu nghiệm” đó được triển khai ?
Chính ở đây, nhu cầu truy vấn buộc chúng tôi phải nhìn lại quan niệm của Iser về
quá trình đọc và kết thông với sự đọc văn tế.
+
Hồi cố: - cái nhìn về người đã khuất; - cái nhìn về thời cuộc; - cái nhìn về
nhân tâm, nhân tình.
+
Khứ viễn: - từ người đọc đến sự kết nối với linh xưa; - sự hiển linh hay sự tồn
tại nối dài của người chết trong hoạt động tế văn; - người chết và đời sống xã
hội.
+ Vô cùng/vô cực: trường tương tác hay khả lực thiết lập
bởi linh xưa-người viết-người tiếp nhận; - trường cảm xúc ở trạng thái tinh thần
(hiển hiện ở các lớp kết cấu: lớp ngữ âm, lớp ngữ nghĩa, lớp tương tác, lớp mô
hình).
Linh xưa tài cao đức cả, thần thái phi phàm,
khí phách anh dũng, uy danh thao lược hơn người. Trong bài văn tế Bá Đa Lộc (viết
thay Đông Cung Cảnh), linh xưa hiện lên là người tài cao, đức độ. Trong đó, cái
đức nhuần khắp thiên hạ, lẽ ấy cũng bởi “chẳng đoái công danh”. Vượt lên vòng
danh lợi ấy là đạo của thánh hiền. Người viết đứng ở góc độ đạo đức học Khổng Mạnh
để đánh giá về linh mục Tây Thiên. Dường như trúc trắc nhưng Đặng Đức Siêu đã
khéo léo gồm thâu hiền thánh Tây phương về phương trời Viễn Đông bằng cách kết
nối linh xưa với đạo nghĩa ân tình chung cuộc dưới gầm trời này. “Giữ tình giời mong hoá dân giời, qua Đông thổ
vui niềm nhân đức”. Đấy là sức thuyết phục của Đặng Đức Siêu trong văn tế vậy.
Và
hình ảnh “linh xưa” ấy được đặt trong tình thế “phận mỏng cánh chuồn”. Chính đó
là “ngữ cảnh” tiền tiếp nhận, nghĩa là người tiếp nhận đã biết rằng linh xưa
không còn nữa, cũng có hiểu biết chút ít về người đã khuất. Nắm bắt chỗ đó, người
viết với vai trò trung gian kết thông linh xưa và người nay để xoáy vào, để tái
dựng trường lực cảm xúc. Từ đó, câu chữ gây dậy xót thương. Niềm xót thương cho
linh xưa giữa lúc “Tiệc trung hung cuộc
rượu đang gầy, trời nỡ khiến lìa tay khúc nhiệt” (Văn tế Châu Văn Tiếp) hay
“Năm mươi lẻ xuân thu, sao nỡ rẽ ngoài
vòng cực lạc” (Văn tế Bá Đa Lộc viết thay Đông Cung Cảnh). Điều này cho thấy
người viết đã nhạy bén nắm bắt mạch suy tưởng từ tâm thế tiền tiếp nhận của người
nghe và lập tức gắn kết sự liên thông tư tưởng giữa người sống và người đã khuất.
Hay nói khác đi, người đã khuất thông qua con chữ người viết và tâm tưởng của
người tiếp nhận để hiển linh và trỗi dậy. Chợt nghĩ đã có ai nói: đọc dường như
là một hành động bị ma ám. Hơn bất cứ thể loại nào, văn tế, mà cụ thể là văn tế
của Đặng Đức Siêu, người viết trước kẻ tiếp nhận sau đã bị hồn ma của linh xưa
ám hoặc. Hình ảnh người đã khuất từ lúc tiền tiếp nhận đến khi thực hữu trong
tâm tưởng của người nghe đã hình thành và quy định chiều hướng tiếp nhận. Đó
chính là khả thể cho sự tiếp nhận văn tế. Chỉ cần phần lung khởi, Đặng Đức Siêu
đã kéo tụt người nghe vào văn bản của mình. Và ở đây, đọc – nghe văn tế là nối
dài hiện hữu của người tiếp nhận bằng cách kết thông với hiện hữu của linh
xưa.Và đây là yếu tố dường như cơ bản trong quá trình tiếp nhận văn tế. Thế nên
mới nói, hơn bất cứ thể loại nào, văn tế đã là một khả thể tiếp nhận.
b.
Phân tích các lớp kết cấu
Sau nữa, chúng tôi đi vào phân tích các lớp kết cấu để
cho thấy các bộ phận của cái khả thể đã nói ở trên. Đồng thời, chúng ta cũng có
thể thấy được tài hoa trong ngòi bút của Đặng Đức Siêu:
+ Lớp ngữ âm bao gồm âm, tiếng, thanh điệu, hòa âm (ngữ
điệu), nhạc điệu (gồm nhạc hiển lộ và nhạc thầm, nhạc của ý thức); ở văn tế, lớp
ngữ âm rất quan trọng. Văn tế của Đặng Đức Siêu sở dĩ lay động lòng người chính
là ở sự hòa âm và nhạc điệu bi ai thống nhất của lớp ngữ âm. Mà trong đó, âm sắc
của giọng đọc, sự hòa quyện của tinh thần người tế với nội dung tế văn ảnh hướng
nhiều đến sự thành công của văn bản. Có thể nói Đặng Đức Siêu là người viết văn
tế có sự cảm âm nhạy bén. Phải chăng đó là sự nhạy cảm của tâm hồn văn nhân
cũng là sự thành thật trong tấm lòng dành cho người đã khuất. Ông sử dụng rất hữu
hiệu các thanh điệu ở âm vực thấp (thanh huyền và thanh nặng). Nhờ đó, sự tiếc
thương dường như dầm dề hoặc chùng xuống, kéo tâm tư người nghe ngưng đọng.
Trong bài Văn tế phò mã chưởng hậu quân
Võ Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu[15],
kết thúc mỗi cặp câu thường là thanh huyền và nặng[16], là những thanh điệu ở âm
vực thấp. Nhưng chưa hết, khi kết lại bằng những thanh điệu ở âm vực thấp, các
âm tiết dường như lắng xuống nhưng không kết thúc mà dội vào tâm tưởng người đọc,
biến thành thứ nhạc thầm. Bởi khi âm tiết cuối của mỗi cặp câu dừng lại thì âm
thanh của âm tiết cuối với đặc trưng thanh điệu của nó vẫn tiếp tục len lỏi vào
lòng người đọc. Chất nhạc thầm này kết hợp với tiền giả định tiếp nhận trở
thành thứ nhạc của ý thức. Thế nên, lễ tế dù không có khí cụ tang ma nhưng
chính bài tế văn đã là một thứ nhạc lễ dành cho người đã khuất. Thêm vào đó,
các thanh sắc và ngã, cũng thể hiện vai trò ở những chỗ nêu gương và giương cao
lòng tiết nghĩa. Đó là sự hòa quyện giữa văn và tâm vậy. Bởi văn từ tâm mà ra
thì văn là tiếng lòng thành thực, hồn hậu. Chính bởi lẽ đó, văn từ tâm nên mới
đến được với tâm. Hơn bao giờ hết, văn tế phải xuất phát từ tấm lòng chân thực
của người viết. Mà ở đây là tấm lòng của Đặng Đức Siêu với các bậc hiền tài như
Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Bá Đa Lộc, …
+ Lớp ngữ nghĩa: hay tính luận lí của văn bản, sự lập
luận hay kết cấu tế văn (bao gồm từ - câu – đoạn – sự lập luận). “Nếu người đọc để cho tác phẩm dẫn dắt thì tức
là anh ta đang trải qua những cảnh tượng mà các phác thảo của chúng được tác phẩm
duy trì sẵn. Ngoài ra, có nhiều loại ấn tượng của sự hưởng thụ thẩm mỹ thay đổi
trong bạn đọc, chúng tạo nên nguồn gốc của những giá trị thẩm mỹ, và có thể
phát triển rộng ra một cách rõ ràng. Cuối cùng thì có nhiều loại cảm xúc và nỗi
đam mê bừng dậy trong lòng bạn đọc (và người xem) do tác động của việc đọc”[17]. Nói như vậy nghĩa là, kẻ
viết - cụ thể là kẻ viết văn tế, chỉ đưa ra các đường nét sơ lược, các phác họa
mang tính gợi mở để người tiếp nhận lập thành. Và cũng bởi người tiếp nhận có
xu hướng kết nối hay thiết đặt các “ảo tưởng” (illusion) để thống nhất hóa các
dữ kiện “nghĩa”, từ đó, kết dệt thành hệ thống các suy tưởng lý tính (system of
reason) đi từ chỗ không hiển lộ đến hiển lộ, đi từ không đến có, từ âm điệu nhạc
ý đến từ - ngữ - đoạn – nghĩa – lập nghĩa. Sự sắp xếp ngữ âm hay dụng công tác
tạo nhạc ý ở các bài văn tế của Đặng Đức Siêu đã phần nào nói đến trong lớp ngữ
âm. Tiếp theo, người viết đưa ra các dữ kiện về nhân vật “linh xưa” mà người
nghe – người đọc buộc phải xâu chuỗi và lập thành công việc mà Đặng Đức Siêu đã
phát khởi. Biểu hiện rõ ràng nhất cho thấy sự lập thành lớp ngữ nghĩa chính là
đặc trưng bốn phần của văn tế: lung khởi – thích thực – ai vãn – kết. Vấn đề
đang nói ở đây phải chăng là tính quy phạm và xu hướng quy phạm hóa của một số
thể loại văn học trung đại. Và trong phạm vi đó, việc dụng điển là thủ pháp phổ
biến để bổ trợ cho việc kết cấu các lập luận. Nhưng chúng ta thấy Đặng Đức Siêu
ít dụng điển. Bởi không gian tiếp nhận của văn tế là hướng về người đã khuất
không phải “sàn diễn” của người viết. Ở văn tế của Đặng Đức Siêu, ngoài kết cấu
bốn phần như đã nói cần bàn thêm về cách lập luận. Văn tế chủ tính thương tưởng,
kính ngưỡng – thiên về tình; nhưng lí sự cũng chặt chẽ. Thế nên văn tế của Đặng
Đức Siêu, tình thì đầy đặn, lý thì nghiêm nhặt mà sáng rõ, không nặng nề ngôn từ
hoa mỹ điển tích. Người viết hạn chế đưa ra các nhận định cá nhân về nhân vật
“linh xưa”, mà chủ yếu trình bày tính tình, công trạng, lối sống, đạo đức của bậc
hiền nhân[18].
Phần đánh giá và bày tỏ thái độ, người viết trao lại cho người đọc thực hiện. Đặng
Đức Siêu ít dùng các từ ngữ “bệ vệ”, đao to búa lớn, hạn chết dụng điển (hoặc nếu
có dùng thì thường là các điển quen thuộc, phổ biến nhất); thực chất người viết
có xu hướng “bình dị hóa” hình ảnh linh xưa. Để bóng hiền nhân dường như trở về
cuộc đời thực và hiển hiện trước mặt người tiếp nhận. Đó vừa là cái nhìn và ý
hướng khi người viết tiếp cận linh xưa, vừa là tư thế tác dựng văn bản văn tế
nhưng đồng thời cũng là cái “đà” mà kẻ viết muốn thiết lập ở người tiếp nhận
khi văn bản được mang đến với họ. Thành ra, cái hay và đáng trân trọng ở đây là
cái tình đậm đà, nồng hậu, giản dị mà thâm sâu của lòng kính ngưỡng. Đặng Đức
Siêu khiến cho người nghe – người đọc rơi vào từ trường tiếc thương, tán thán
nhưng không bằng cách tôn phò xây dựng một huyền thoại “u viễn thượng tôn” mà
mang lại hình ảnh “linh xưa” như bậc hiền thánh bằng xương bằng thịt giữa đời sống.
Đó cũng là chất “ma mị”, “liêu trai” của văn tế mà chúng ta có thể thấy rất rõ ở
sáng tác của Đặng Đức Siêu.
+ Lớp tương tác: bao gồm các yếu điểm và khoảng trắng
mà ở đó người viết và người đọc cùng làm việc. Hai lớp này thường khi rất khó
tách bạch. Chung quy, sự mổ xẻ phân tách thành 4 lớp kết cấu cũng là vạn bất đắc
dĩ. Bởi văn bản là một thực hữu thống nhất có tính ý hướng. Nó là cái “véc-tơ”
đang chuyển động. Cái động hướng đó không gián đoạn – gián cách mà miên viễn vô
cực. Trở lại với Đặng Đức Siêu, các bài văn tế của ông chủ yếu viết theo lối
phú mà bản chất của “phú” là “trình bày rồi nói hẳn ra”, cơ bản là trần thuật,
kể lại. Nên “khoảng mờ” mà người viết để lại là sự nhìn nhận về linh xưa. Người
viết cho người đọc một loạt dữ kiện mang tính chất liệu, người đọc từ đó tự
mình dựng xây hình ảnh về người đã khuất. Và các dữ kiện đó mang tính “thô sơ”
nhưng lại là “mồi nhử” cho người đọc tự thực hiện công việc của mình. Như đã
nói, văn tế đi từ cái bi đến cái cao cả; sự cao cả lập thành do ở người tiếp nhận
mà ra. Nếu người viết văn tế “khua chiêng gióng trống” về người đã khuất thì sự
cao cả không thể lập thành. Sự cao cả của linh xưa thông qua văn bản tế văn là ở
sự cộng hưởng, tương thông của ba chất điểm ý hướng. Đó là: 1- dự tưởng về linh
xưa; 2- ý hướng của người viết; 3- ý hướng của người tiếp nhận. Sự giao thoa đó
dựa trên kết nối về tâm linh của 3 chất điểm ý hướng tạo thành “bản giao hưởng”
của phường bát âm hùng hồn bi ai mà thiêng liêng. Tiếng “kim” khí tiết, tiếng
“mộc” ân cần, tiếng “trúc” xuyến xao, tiếng “bào” buồn bã thiết tha, tiếng “thạch”
dư vọng âm dương, tiếng “thổ” u minh linh hiển, tiếng “ti” mơ hồ ai thiết, tiếng
“cách” truy điệu âm hồn. Mỗi bài văn tế của Đặng Đức Siêu như mỗi bản “Lâm khốc”,
“Lưu thủy” vang lên trong đêm tang lễ với âm điệu nỉ non não nuột, vừa hùng hồn
vừa bi ai, lưu luyến làm mủi lòng người.
+ Lớp mô hình hay kết cấu yếu tính – lớp này có thể được
làm rõ bằng giảm trừ hiện tượng học (quy giản thể tính) hay truy nguyên bản chất.
Công việc của chúng tôi ở đây: là thông qua bài một số văn tế của Đặng Đức Siêu,
quy giản kết cấu 4 phần của văn tế về mô hình tối giản của văn tế, và mô hình
này mang bản chất gì, đặc trưng gì, biểu hiện cái gì? Để tìm hiểu mô hình tính
thể của văn tế Đặng Đức Siêu, chúng tôi trở lại với kết cấu thường thấy của văn
tế: lung khởi – thích thực – ai vãn – kết. Đi từ cái nhìn về lẽ sống chết và sự
ra đi của linh xưa đến đoạn kể phẩm hạnh công đức rồi bày tỏ tiếc thương và cuối
cùng là lời cầu nguyện cho linh xưa an yên miền âm cảnh để soi xét lại văn tế của
Đặng Đức Siêu, dường như văn tế là sự gọi hồn. Văn tế mang bản chất của 1 hoạt
động ma thuật – tâm linh. Phải chăng cấu trúc tính thể văn tế là cấu trúc của
vô thức tâm linh cổ sơ. Ở khía cạnh này, văn tế là một thể loại nằm ở xu hướng
huyền thoại hóa. Nếu truy nguyên kết cấu văn tế về kết cấu tính thể của nó thì
lung khởi-thích thực-ai vãn-kết là vòng tuần hoàn của dương – âm – dương – âm
và tiếp tục như thế thành 1 vòng tuần hoàn. Văn tế phải chăng bắt nguồn từ tư
duy huyền thoại ở buổi hồng hoang của loài người, khi mà các huyền thoại còn gắn
liền với hoạt động tế lễ, ma thuật. Nó gắn bó mật thiết với nhu cầu tâm linh của
cộng đồng. Mãi sau này, dù xã hội phát triển, nhưng con người vẫn có xu hướng lập
thờ các hiện tượng hoặc cá nhân có ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đó chính là
xu hướng huyền thoại hóa (mystification)[19] mà văn tế là một biểu hiện.
Và ở đây, Đăng Đức Siêu đã hóa huyền thoại các nhân vật như Châu Văn Tiếp, Bá
Đa Lộc, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu. Thông qua đó, người viết đã đóng góp vào tâm thức
văn hóa của cả cộng đồng người hay các bài văn tế của Đặng Đức Siêu đã kết nối
linh xưa với cộng đồng diễn dịch (interpretive community) mai hậu. Tựu trung, bản
chất mô hình tính thể của văn tế và văn tế Đặng Đức Siêu nói riêng là cấu trúc
của quá trình huyền thoại hóa hay lời gọi hồn mà ông truyền lại cho hậu thế.
(Trong phạm vi bài viết này, khó có thể nói cho tường tận vấn đề này. Vấn đề ở
phần này, chúng tôi muốn đề đặt hơn là tựu thành).
Chung quy, tìm hiểu người đọc tiềm ẩn hay cái khả thể
cho sự thi triển đặc trưng của văn tế, chúng tôi bám vào 3 quá trình và 4 lớp kết
cấu. Từ đó, chúng tôi phóng cái nhìn từ văn tế của Đặng Đức Siêu đến thể loại
văn tế nói chung. Qua đây, chúng tôi thấy rằng, các thể loại văn học trung đại (trong
đó có văn tế) luôn có một tiền giả định về sự tiếp nhận trong tự thân quá trình
sáng tạo. Viết đồng thời có nghĩa là viết cho ai và phải viết như thế nào.
KẾT
LUẬN
Tựu trung, công việc mà chúng tôi đặt ra ở vấn đề này
có thể vấp phải một số hạn chế. Bởi con đường đi từ thuyết tiếp nhận đến vấn đề
thể loại (đặc biệt là thể loại văn học trung đại) cần nhiều công sức và thời
gian hơn. Do đó, những ý kiến trình bày trong bài viết chủ yếu mang tính chất
thảo luận.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh lần nữa một
số ý. Trước hết, từ việc tiếp nhận chúng tôi nhìn lại sự viết cũng như nhìn
xuyên suốt quá trình vận động từ sáng tạo đến tiếp nhận và hậu tiếp nhận. Ở đó,
viết là một dạng tha hóa. Kẻ viết trào thoát khởi tự ngã và những hạn định của
ý thức cá nhân. Bằng cách kết thông, tam trùng đồng hiện, viết nghĩa là viết
cho ai, viết luôn bào hàm một khả thể cho việc đọc. Trong sự viết đã tàng ẩn sự
đọc. Và cái khả thể cho sự đọc ấy là một dự phóng về tha nhân. Hơn bất cứ thể
loại nào, văn tế biểu hiện một cách rõ ràng tính chấn hướng đến/nói về/viết cho
một ảnh hình tha nhân mơ hồ hư ảo ấy.
Hư ảo nhưng không có nghĩa là hư vô. Hư ảo bởi không
thể nắm bắt được nó. Trường cảm xúc thương tưởng gây dậy trong lòng người đọc
không thể phân bua, lí giải tường tận, cũng như không thể cấu cắn, ôm riết nó
nhưng nó có thật trong ý thức tiếp nhận. Và điểm nổi bật dễ thấy của trường cảm
xúc ấy là sự tiếc thương, kính ngưỡng, tán thán. Trường hội tụ ấy là sự dịch
chuyển từ linh xưa, kẻ viết đến kẻ đọc rồi tiếp tục vận động ở giai đoạn hậu tiếp
nhận. Đến đây, tự thân người tiếp nhận sẽ nới rộng phạm vi của quá tình cơ cấu
lập nghĩa ấy. Khi người đọc tế văn đọc những văn bản sau nữa, thì kết thức đã
có tiếp tục vận động để lại phá vỡ sự lập nghĩa cơ cấu; và cứ thế miên viễn vô
cùng cực.
Riêng nói về khả thể tiếp nhận văn tế của Đặng Đức
Siêu, chúng tôi muốn nhắc lại nét nổi bật của hình tượng người đọc tiềm ẩn. Đó là
một kẻ yếm thế. Đó là tình cảnh của sự mất mác và thất bại. Nhưng đau thương để
mà phi thường. Cho nên, diễn trình của người đọc tiềm ẩn ở đây là quá trình đi
từ cái bi đến cái cao cả. Hay biện chứng khả thể của văn tế là biện chứng của
cái bi và cái cao cả vậy.
Thông qua bài viết này, ngoài việc làm rõ khả thể tiếp
nhận hay người đọc tiềm ẩn của thể loại văn tế, chúng tôi còn mong muốn có thể
góp phần làm rõ văn tài của Đặng Đức Siêu. Trong địa hạt văn chương, có thể
nói, ông đã đóng góp vào tâm thức văn hóa của cộng đồng. Qua ngòi bút của ông,
các vị anh hùng hiền nhân có cơ hội hiển hiện ở các địa phận thượng tầng kiến
trúc xã hội khác nhau. Không chỉ là các danh nhân trong đời sống văn hóa xã hội
mà còn là hình tượng văn chương, tượng đài lịch sử. Còn trên bình diện tiếp nhận,
các bài văn tế của Đặng Đức Siêu đã kết nối linh xưa với cộng đồng diễn dịch.
Đó là những tượng đài ngôn từ mà ông đã đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam
nói chung.
Nói về tài nghệ ngôn từ của Đặng Đức Siêu, chúng tôi
còn nhìn thấy tấm lòng chân thành nồng hậu của người viết. Ấy là cái tình vừa đậm
đà, vừa giản dị mà thâm sâu của lòng kính ngưỡng. Ta càng thấy, văn đúng là từ
tâm mà khởi. Khởi ở tâm nên văn cũng thành ở tâm vậy. Cái tâm của Đặng Đức Siêu
là rây mạch cảm xúc bén nhạy, dễ dàng chộp lấy và kết thông với rây mạch cảm
xúc của người đọc. Sở dĩ như thế là do sự chân thành rất mực của ý hướng khởi
nguyên sáng tạo.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tầm (?), Trận vong tướng
sĩ văn và Văn tế Phò mã Vũ tôn Tính & Thượng thư Ngô Tùng Châu (Thư viện Đại
học Yale, mã số AB.297 và AB.383), Hoa Kỳ.
2.
Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ giáo dục –
Trung tâm học liệu xuất bản, Saigon.
3.
Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung Quốc, Nxb Văn học, Hà
Nội.
4.
Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới,
HN.
5.
Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, (Trần
Thanh Đạm và Phạm Thị Hảo dịch), NXB Văn học, Hà Nội.
6.
Phan Mạnh Hùng – Nguyễn Đông Triều (2017),
Theo dấu người xưa, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
7.
Iser, Wolfgang (1972), The Reading
Process: A Phenomenological Approach, trích từ New Literary History, Vol. 3,
No. 2, On Interpretation: I, pp. 279-299, The Johns Hopkins University Press.
8.
Iser, Wolfgang (1978). The Act of Reading:
A Theory of Aesthetic Response. London and Henley: The Johns Hopkins University
Press.
9.
Iser, Wolfgang (1974). The Implied Reader.
Patterns of Communication in Prose Fiction from Bunyan to Beckett. Baltimore
and London: The Johns Hopkins University Press.
10.
Shi, Yanling (2013), Review of Wolfgang
Iser and His Reception Theory, Theory and Practice in Language Studies, Vol. 3,
No. 6, pp. 982-986, ACADEMY PUBLISHER Manufactured in Finland.
11.
Thanh Tùng Lê Tùng Thanh (?), Văn học từ
điển (Tiểu sử tác giả), Xuân Thu xuất bản, Nhà sách Khai Trí, Saigon.
12.
Nguyễn Văn Trung (1963), Lược khảo văn học
– Những vấn đề tổng quát, Nam Sơn xuất bản, Huế.
17.
https://www.thivien.net/%C4%90%E1%BA%B7ng-%C4%90%E1%BB%A9c-Si%C3%AAu/author-eBQzoZa9VR_J2tUrTfa3-w
[1] “Đặng Đức Siêu: (1750-1810) Ông
người huyện Bồng Sơn (nay thuộc phủ Hoài Nhơn, Bình Định), năm 16 tuổi đậu
hương tiến, đời Duệ tông (Định Vương 1765-1777) làm quan trong viện Hàn lâm.
Khi quân Trịnh vào đánh, kế đến quân Tây sơn lấy kinh thành, đều có vời ông ra
làm quan nhưng ông không ra. Khi Nguyễn Ánh nổi binh ở Gia định, ông tìm vào
giúp, lập được nhiều công lớn, làm quan đến Lễ bộ thượng thư. Khi mất, ông được
tặng chức Tham chính. Đến đời Minh mệnh lại được tặng Thiếu sư hiệp biện đại học
sĩ và đời Tự Đức được liệt vào miếu Trung hưng Công thần.
Tác phẩm:
- Hồi loan khải ca
- Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ
Tánh và và Lễ bộ thượng thư Ngô tùng Châu.
- Văn tế đức giám mục Bá đa Lộc.
- Thiên Nam thế hệ (1807) sử, chép
từ đời Triệu tổ Nguyễn Kim đến đời Định Vương”.
Theo Thanh Tùng Lê Tùng Thanh (?),
Văn học từ điển (Tiểu sử tác giả), Xuân Thu xuất bản, Nhà sách Khai Trí,
Saigon tr.63.
[2] Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu
long, (Trần Thanh Đạm và Phạm Thị Hảo dịch), NXB Văn học, Hà Nội, tr.530.
[3] Nguyễn Văn Trung (1963), Lược khảo
văn học – Những vấn đề tổng quát, Nam Sơn xuất bản, Huế, tr.227.
[4] Wolfgang Iser, The reading
process: A phenomenological Approach (New literary history), trang 281. The
Reading Process: A Phenomenological Approach Wolfgang Iser, trích từ New
Literary History, Vol. 3, No. 2, On Interpretation: I (Winter, 1972), pp.
279-299The Johns Hopkins University Press.
[5]https://hoangphongtuan.wordpress.com/2016/08/13/mot-so-diem-chinh-trong-ly-thuyet-tiep-nhan-cua-wolfgang-iser-hoang-phong-tuan/
[6] Wolfgang Iser (1978). The Act of Reading: A Theory of
Aesthetic Response. London and Henley: The Johns Hopkins University Press,
p.34.
[7] Wolfgang Iser (1974). The Implied Reader. Patterns of
Communication in Prose Fiction from Bunyan to Beckett. Baltimore and London:
The Johns Hopkins University Press, p.xii.
[8] Yanling Shi, Review of Wolfgang
Iser and His Reception Theory, Theory and Practice in Language Studies, Vol. 3,
No. 6, pp. 982-986, June 2013, ACADEMY PUBLISHER Manufactured in Finland,
p.984.
[9] Yanling Shi, Review of Wolfgang Iser and His
Reception Theory, Theory and Practice in Language Studies, Vol. 3, No. 6, pp.
982-986, June 2013, ACADEMY PUBLISHER Manufactured in Finland, p.984.
[10] Theo Dương Quảng Hàm, văn tế thường
có 5 lối: - lối văn xuôi; - lối tán; - lối phú cổ thể hoặc lưu thủy; - lối phú
đường Đường luật; - lối song thất lục bát. Kết cấu 4 phần: - Đoạn mở đầu (than
ôi, than rằng, ….) trước đặt 1 câu cách cú hoặc gối hạc sau đến câu song quan);
- đoạn kể công đức, công nghiệp của người chết; - đoạn than tiếc người chết; -
đoạn tỏ tình thương nhớ của người đứng tế. (Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ giáo dục –
Trung tâm học liệu xuất bản, Saigon, tr.144-145).
Theo Phạm Thị Hảo: “祭文(tế
văn) thể văn để tế người đã chết. Thời cổ có loại văn tế Trời, Đất, Sông, Núi,
nội dung là dâng cúng đồ tế lễ, hoặc hứa sửa điều sai, làm điều tốt. Đời sau,
khi có tang lễ, dùng bài “Tế văn” chủ yếu để nói lên tình cảm thương tiếc. Loại
“Tế văn” khác với loại “Mộ chí”. “Mộ chí” thường nêu lên công lao và đức hạnh của
người chết là chính, có thể mời người có văn tài viết. “Tế văn” thì do chính
người thân hoặc bạn bè viết, tình cảm rất nồng hậu. Đời Đường – Tống có những
“Tế văn” nổi tiếng như Văn tế Thập nhị lang của Hàn Dũ, Văn tế Thạch Man Khanh
của Âu Dương Tu”. (Phạm Thị Hảo (2008), Khái
niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội,
tr.177-178).
Theo Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới,
HN, tr.1970. (Mục Văn tế do Phạm Văn Ánh biên soạn): “Trong nghĩa hẹp, văn tế
là những bài văn dùng để tế người chết, nhằm kể tính nết, công đức của người đó
lúc sinh thời và bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ”
Theo Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới,
HN, tr.1970-1971. (Mục Văn tế do Phạm Văn Ánh biên soạn): “Về bố cục, một bài
văn tế thường được chia làm bốn phần: 1. Đoạn mở đầu (thường bắt đầu bằng hai
chữ “Than ôi”, “Than rằng”, “Thương ôi”, …); 2. Đoạn kể công đức người chết
(thường bắt đầu bằng chữ “Nhớ cha (linh, ông, …) xưa …; 3. Đoạn than tiếc người
chết (thường bắt đầu bằng “Hỡi ôi” hoặc “Ôi!”…); 4. Đoạn bày tỏ lòng thương tiếc
của người đứng tế hay của những người sống nói chung đối với người chết (thường
bắt đầu bằng mấy chữ “Con (tôi, chúng tôi, bản chức, …) nay… và kết lại bằng mấy
chữ “Phục duy”, “Thượng hưởng”…)”
[11] Theo Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004),
Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, HN, tr.1971. (Mục Văn tế do Phạm Văn
Ánh biên soạn)
[12] Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu
long, (Trần Thanh Đạm và Phạm Thị Hảo dịch), NXB Văn học, Hà Nội, tr.171.
[13]https://hoangphongtuan.wordpress.com/2012/02/03/l%E1%BB%9Di-noi-d%E1%BA%A7u-hoang-phong-tu%E1%BA%A5n-d%E1%BB%8Bch/
[14] Phan Mạnh Hùng – Nguyễn Đông Triều
(2017), Theo dấu người xưa, Nxb Tổng hợp TP.HCM, tr.64.
[15] Dựa trên bản chép tay của Huỳnh
Chiếu Đẳng, mượn từ thư viện Đại học Yale và trang web thivien.net.
[16] Văn tế phò mã chưởng hậu quân Võ
Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu có 14 cặp câu thì có đến 18 câu kết lại
bằng thanh huyền và thanh nặng, chưa kể thanh hỏi cũng là 1 thanh điệu ở âm vực
thấp.
[17]
http://nguyenducmau.blogspot.com/2016/07/tac-pham-van-hoc-roman-ingarden.html
[18] Nói về Phò mã Chưởng hậu quân Võ
Tánh: “Phù vạc Hán thuở ngôi trời chếch lệch”, “Mối nghĩa sánh duyên gác tía”,
“Hậu quân thuở trao quyền tứ trụ”, “Ngoài cỏi vuốt nanh ra sức”, “Miền biên khổn
hai năm chia sức giặc”, “Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió”; Nói về Lễ bộ Thượng
thư Ngô Tùng Châu: “Với xe Đường khi thế nước chông chênh”, “bề trung ái sớm
khuya chẳng trễ”, “Trong thành then khoá chia lo”, “nặng việc nước phải lấy
mình làm nhẹ”, “Chỉ non sông giã với cô thành”, … (Văn tế phò mã chưởng hậu
quân Võ Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu). Nói về Châu Văn Tiếp: “gương
trượng nghĩa bóng ngời nước Việt”, “nghĩa vì quân đất võ trời gầy”, “Trăm trận
phơi đùm mật Tử Long, oai dẹp loạn sương sầu nắng thiết”, “Trong khuôn cứu nắm
quyền ngoại tả, chống giềng trời, cầm mối nước, son nhuộm tấm lòng”, “Ngoài chiến
chinh đeo ấn tướng quân, tru đảng nguỵ, diệt loài gian, máu dầm mũi bạc”, “Lừng
lẫy quyết lấy đầu tặc tử, danh tôi còn ngõ được vuông tròn”, “Rủi ro khôn dẹp
máy binh cơ, sao tướng đã bóng đà lờ lệch”, … (Văn tế Châu Văn Tiếp). Có thể
nói, trong văn tế các bậc trung thần ái quốc (đặc biệt ở Văn tế Châu Văn Tiếp)
của Đặng Đức Siêu, người bình dân nghe một lần có thể hiểu ngay, dễ đồng cảm dễ
xúc động. Văn tài của ông phải chăng là ở hiệu ứng cảm xúc như vậy.
[19] Huyền thoại hoá (Mystification) là
quá trình tạo lập huyền thoại. Theo Daniel-Henri Pageaux, “Huyền thoại là tất cả
những gì mà một nền văn hoá có thể và mong muốn biến thành huyền thoại”. “Nếu một
nhân vật lịch sử trở thành huyền thoại (chẳng hạn Napoléon xuất hiện như một
Achille mới, một Prométhée khác hay con yêu tinh vùng Corse) thì điều quan trọng
là khả năng cấu thành của nó trong ý thức cộng đồng”. Rolland Barthes thì cho rằng
“Huyền thoại hoá là một vận hành có nhiệm vụ biến những hiện tượng ngẫu nhiên
mang tính lịch sử trong một nền văn hoá thành những câu chuyện, những điều
thiêng liêng, thần thánh, hoặc những chân lý hiển nhiên, không còn gì thắc mắc
hay đáng ngờ.” Huyền thoại hoá tạo nên “doxa”. Barthes dùng lại thuật ngữ
“doxa” của Platon, với nghĩa “giọng nói của tự nhiên”, để chỉ tất cả những quan
điểm chính thống về sự vật, về cuộc đời… Người ta bị thuyết phục tin rằng tất cả
những gì đang xảy ra chung quanh: các định chế xã hội, các nguyên tắc đạo lý,
các quy ước văn học…đều hoàn toàn tự nhiên, không có gì phải bàn cãi về “tính
chất tự nhiên” của chúng. Tính thiêng liêng, thần bí giả tạo bao quanh những sự
vật, hiện tượng đó được hình thành do sự cố tình xoá bỏ, lãng quên tính ngẫu
nhiên lịch sử của chúng. (http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/47-phan-thu-hien-huyen-thoai-hoc-va-van-hoa-hoc.html)
Comments
Post a Comment