Nghệ
thuật Dionysos với chất Đen và Mọi
trong
thơ Thanh Tâm Tuyền
Nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền, thành viên tạp chí Sáng Tạo, có những đóng góp đáng kể cho
sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ khi xuất hiện, thơ Thanh Tâm Tuyền
vẫn không thôi mới mẻ với mức độ dồn nén “đời sống” đậm đặc cũng như gây dậy những
tranh luận kéo dài. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu thơ ông càng được
quan tâm hơn. Dựa trên những nghiên cứu trước đó, bài viết này hướng đến khai
thác cội nguồn phát xuất một quan niệm nghệ thuật độc đáo và riêng biệt. Đó là
Nghệ thuật Dionysos. Từ đấy, nghệ thuật Đen và Mọi nảy nở mãnh liệt, góp thêm
vào vốn liếng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX; và Thanh Tâm Tuyền đã có công khai mở
cõi người sâu kín - cái góc khuất (nhiều khi cấm kị) mà ánh sáng mặt trời hiếm
khi soi chiếu tới.
1. Nghệ thuật Dionysos trong quan niệm
của F. Nietzsche
a.
F. Nietzsche và con đường đến với nghệ thuật Dionysos
F.
Nietzsche (1844-1900) thuộc dòng dõi những quý tốc Ba Lan, sinh ra và lớn lên
trong môi trường giáo dục Tin lành. Ngay
từ thơ ấu, triết gia tương lai thụ hưởng một nền giáo dục bền vững, vừa thuận lợi
để tiếp xúc với vốn kiến thức sâu rộng, nhưng theo đó, phải gò mình giữa môi
trường sống luân lý nghiêm khắc. Cha là mục sư Tin lành và là khối mẫu thuẫn lớn
trong tư duy thiếu thời của Nietzsche. Cõ lẽ vậy nên sự ra đi của cha cùng anh
trai để lại những mâu thuẫn vĩnh viễn trong lòng nhà thơ - triết gia ấy. Đó là
cuộc chiến của lòng yêu quý hay một thứ định kiến mà chính ông muốn rũ bỏ bằng
triết lý của mình; nhưng không thể.
Nietzsche
sống với mẹ và người em gái duy nhất. Theo học ở Đại học Bonn và sau là Đại học
Leipzig, triết gia đến với văn chương trước hết bằng lòng tôn kính và yêu quý đối
với Ritschl. Từ đó, Nietzsche bước vào thế giới Hy lạp cổ đại. Và chính ở đấy,
triết gia đạt được những thành tựu đầu tiên, tìm được thần tượng đầu tiên, tìm
được lối đi cho riêng mình, bằng cách giết chết thần tượng và thượng đế như một
ân huệ.
Tiếp
theo, chúng tôi muốn nhắc qua về con đường tư tưởng của ông. Quá trình hình
thành triết học Nietzsche chủ yếu trải qua ba chặng đường: - Vỡ mộng lần thứ nhất
( đảo hoán luân lý, mực thước truyền thống); – Vỡ mộng lần thứ hai (với
Schopenhauer và Wagner); – Đến với siêu nhân (tập thành triết học về người
hùng). Trong đó, “Sự khai sinh của bi kịch từ tinh thần âm nhạc” mà chúng ta vẫn
nhắc đến với tên gọi “Nguồn gốc bi kịch” xuất bản lần đầu tiên 1873 nhưng sau
được tập hợp và in lại 1886 bao gồm những bài viết khác. Đặc biệt trong bản in
lại với phần The Dionysiac World View[2],
những ý tưởng triết học quan trọng nhất trong giai đoạn đầu tiên cơ hồ xuất lộ
một cách mạch lạc. Và ở đây, quan niệm nghệ thuật của ông thể hiện một cách rõ
nét. Những suy tư hoan hỉ và mạnh dạn ấy ảnh hưởng sâu sắc đối với thế hệ sau.
Như Nietzsche vẫn nghĩ, ông sẽ được hiểu vào đầu thiên niên kỷ thứ III sau
Thiên Chúa.
Sau
nữa, để Zarathustra biết được rằng Thượng đế đã chết, Nietzsche phải mất nhiều
thì giờ quay về suối nguồn cổ Hy Lạp. Người hùng đầu tiên của Nietzsche là
Dionysos, tiếp theo là Schopenhauer và Wagner. Nhưng sau hết, ông chỉ còn một
người hùng siêu việt bị thời đại và con người Đức quốc bấy giờ ruồng rẫy. Trong
đó, cơ duyên với Thần Rượu giúp ông hình thành quan niệm về nghệ thuật, mà từ
đó, chúng ta có thể bao quát tầm nhìn về hai thế giới, hai đường hướng trọng yếu
của nghệ thuật nói chung. Tựu trung, chúng tôi đến với Nietzsche để tìm về
Dionysos, hay nói khác đi, là để hiểu về anh nhân tình giữa đời sống hơn là người
chồng đúng mực trước cộng đồng và Thiên chúa. Đó là kẻ mà siêu nhân cảm thấy ruột
rà, gần gũi hơn. Đó là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
b.
Từ hình tượng thần thoại đến quan niệm nghệ thuật
Trong
tác phẩm “The Birth of Tragedy”,
Nietzsche quan niệm Apollo là vị thần đại diện cho nghệ thuật lý tưởng hay niềm
mơ ước phải lẽ trong xã hội. Và rõ ràng, đó là loại hình nghệ thuật phát triển
trên nền tảng và trong chiều hướng của luân lý, nhà nước, của lý tưởng chính thể
(mang vẻ đẹp chân phương, chính thống, cân đối, an ngự trên cái chung, cái đẹp
tự nhiên hài hòa). Chính vậy mà nghệ thuật Apollo có thể nghiễm nhiên được tôn
sùng dưới ánh sáng. Có những luật lệ “trong chiều hướng cho phép” của thiết chế
xã hội đảm bảo uy quyền của “ánh sáng”. Nhưng sự hoàn hảo của nghệ thuật Apollo
trong mối tương quan với thực tế thường nhật hầu như chỉ phản ánh được một nửa
“cái thường nhật”. Đó chỉ là sự thực dưới ánh sáng ban ngày. Nhưng, cũng chính ở
đấy mà lý tưởng nghệ thuật Apollo cho thấy con người không thể với tới, không
thể chạm tay vào, hoặc chiếm lĩnh được; nghĩa là nó xa rời với đời sống thực của
con người (vì nó chỉ nói tới đời sống dưới ánh sáng ban ngày, sự thực của bóng
đêm là thứ gì đó không được thừa nhận).
Đối
với Nietzsche, đó là kiểu nghệ thuật gian lận và lừa dối. Vì nó “chỉnh tề, mực
thước, kiều diễm” và ông viết: “Người Hy
Lạp biểu hiện sự cần thiết hân hoan của kinh nghiệm mộng tưởng nơi Apollo: như
vị thần của tất cả năng lực tạo dựng hình ảnh[...]. Ngoài ra trong căn nguyên
tên gọi, thần đại diện cho những gì rực rỡ minh xác ['the luminous one' (der
Scheinende)], vị thần của ánh sáng, và theo đó, thần cũng ảnh hưởng đến dáng vẻ
hài hòa khởi đi từ thế giới nội tại của khả năng tưởng tượng” [2]. Hay “Apollon, thần linh của ánh sáng, của tưởng
tượng, ngự trị trên khắp các biểu hiện sáng tạo bởi linh hồn nhân loại này. Thần
mãi mãi giữ được vẻ nhàn nhã tự do, vẻ khôn ngoan tươi trẻ; thần đòi hỏi sự mực
thước và hòa hợp” [1;59]. Thực vậy, nghệ thuật Apollo hướng đến sự vừa ý, dễ
chịu. Ở đó, con người phủ phục dưới ánh sáng, yên phận trước niềm vui cao nhã
mang tính quy phạm của tập thể, của đám đông. Điển hình như “đám đông” George
Sand cùng Sainte-Beuve và cơ hồ truyền thống Apollo vẫn kéo dài cho đến khi họ
đánh giá G. Flaubert qua trường hợp Madame Bovary. Đấy là dấu ấn Apollo. Nhưng
như thế là không đủ, vì người sống ở vùng trời đầy biến động, phức tạp và chồng
lấn, xâm lẫn đa chiều giữa các miền tâm lý khác nhau; mà cho đến nay chúng ta vẫn
chưa hiểu được chính mình một cách tương đối chắc chắn. Người sống, nghĩa là sống
với thế giới. Người biến thế giới trở thành thế giới với tên gọi Thế giới con
người. Và Thế giới con người là tổng hòa của cái gọi là Người kia. Người là một
huyễn tưởng, Đời là huyễn tưởng thứ hai. Người Đời hay Đời Người là mối giao
tình đầy rẫy trái đắng, đam mê, phi lí, mơ hồ, bi kịch, đớn đau, tuyệt vọng và
hân hoan.....Người là tất cả và là “thế” một cách cụ thể. Tâm hồn người ngàn vạn
năm vẫn không thôi mới lạ. Và thơ cũng như nghệ thuật nói chung không thể chối
cái bên lề chẳng phải lẽ của đời sống.
Trở
lại đây, chúng ta nói về cuộc gặp gỡ của Nietzsche và Dionysos, nơi quỷ dữ và
thánh thần chia nhau tâm hồn triết gia. Đó là môn đệ của vị thần say sưa hoan lạc.
Nếu Apollo đại diện cho những gì kiểu cách, hoàn chỉnh thì “ngược lại, nghệ thuật Dionysos dựa trên cuộc vui chơi với nỗi say sưa
và trạng thái ngất ngây”[2;120] . Đó là kiểu nghệ thuật của sự đổ vỡ, say
sưa và nết ngây thơ chất phác lắm khi thô kệch như một mảng cuộc đời tươi mới
và sống động. Dionysos đại diện cho nghệ thuật trần gian, nghệ thuật của đời
người cụ thể đầy đủ cảm xúc và thể hiện hầu như toàn vẹn mọi ngóc ngách còn ẩn
khuất mà ánh sáng mặt trời hiếm khi soi chiếu tới. Ảo ảnh Dionysos buông tỏa rực
rỡ giữa say sưa, hoan hỷ và hân hoan phơi mở yếu tính hiện sinh đích thị nhân
gian. Những kẻ từ khước mực thước và phải lẽ hay những điều được cho phép bởi cộng
đồng; khi đó, chúng ngã hết vào lòng Dionysos mất rồi và “sự phong phú của đời sống vượt bỏ lề luật, mọi giới hạn. Nó không chùn
bước trước bất cứ hủy diệt, bất cứ phá hoại nào. Niềm vui sống còn có thể kéo
theo niềm vui hủy hoại” [1;60]. Kì thực hủy hoại gần với sự sống hơn cái chết.
Vì hủy hoại cho phép một giả định sắp sửa về tái sinh chân thực các giá trị mới,
các yếu tính nhân vị hoàn toàn nguyên khai.
Nhưng nếu bằng lòng sống dưới ánh sáng thánh
hiến rạng ngời Apollo, con người ta bằng lòng với sự cai trị của một thế lực vĩ
mô hiển linh trên toàn cõi nhân thế; với Dionysos – một nhà cách mạng thực thụ
- thì con người được vui thỏa trong tự do và mầm chồi tâm tính nảy nở triệt để.
Prometheus mang cho nhân loại lửa thiêng và sự sống nhưng chính Dionysos dạy
con người biết phải sống một cách đầy đủ và “dưới
ảnh hưởng của tinh thần Dionysos con người "cảm thấy mình là thần linh
"” [1;61]. Con người, vì thế, vượt thoát và siêu việt hơn từng chút một
khoảnh khắc tham gia vào đời sống. Và nghệ thuật Dionysos là nghệ thuật theo
chiều hướng như thế, là con đường hân hoan tột đỉnh, là con người biết đứng về
phía “mình thực chất”. Theo Nietzsche, khi đó, "con người không còn là nghệ sĩ nữa, họ đã trở nên tác phẩm nghệ thuật
"[1;61].
Nhưng
đến với nghệ thuật Dionysos, con người lao về hướng ngược dòng. Có những trở lực
nội tại ghìm giữ tâm hồn; đó là cuộc giằng co thật sự. Hình ảnh Dionysos bị xé
xác bởi lũ Titan, cơ hồ, là một ẩn dụ cho cuộc vật lộn long trời lở đất giữa
đam mê và đau khổ, giữa các cá thể hỗn hợp trên con đường đồng nhất hóa để cuối
cùng cá nhân hóa trong vòng tay Rượu nho.
Tiếp
theo, chúng tôi muốn nói đến sự trở lại của nghệ thuật Dionysos. Và tại sao thời
bây giờ nghĩa là thời Rượu nho ? Từ khi Nietzsche qua đời, Âu châu ngã vào lòng
Dionysos từ
ngấm ngầm đến trực diện. Điều đó chẳng khác gì cơn mưa lớn hân hoan, nhuần nhị
tâm hồn đã bao lâu nay gò mình trong nhà ngục Mặt trời, nơi mà truyền thống
Socrates và niềm tin Thiên chúa giáo ngự vì toàn cõi. (Socrates và Jesus Christ
cũng là hai đối tượng bị Nietzsche phê phán nặng nề).
Nietzsche
lên án gông cùm giả danh của thời cuộc và đây cũng là phản ứng trước hậu quả ngớ
ngẩn của sự phải lẽ Mặt trời. Ông nhìn thấy điều đó và cũng nhìn thấy khả năng
tái sinh, phục hồi sự nguyên vẹn nhân tính bằng tấm lòng Rượu nho. Vì “Ảo ảnh Dionysos không dứt con người ra khỏi
cá nhân nó [....] nó đưa con người đến chỗ hình dung các biểu hiện, sáng tạo
các hình ảnh mới và hòa hợp. Nó làm con người sống trong mơ mộng và dứt bỏ được
mọi khổ đau của thực tại không chỉ gợi ra các hình ảnh vừa ý, dễ chịu họ còn
trình bày các khuôn mặt nghiêm khắc và buồn thảm của một hiện sinh, họ chịu đau
khổ, đồng thời họ cũng không từ bỏ ý tưởng đó chỉ là bề ngoài, là bộ mặt phù
vân, họ tự nhủ: “toàn là mơ mộng !”[1;58-59]. Đó là thái độ đương đầu trực
diện và toàn diện với việc sống của chính mình ngay tại trần thế. Và sống nghĩa
là sống ở thời bây giờ - thời của nghệ thuật Dionysos. Đó chính là lí do cho sự
trở lại của Dionysos trong cuộc đời hiện có và sắp sửa. Nietzsche trước, và sau
đó rất nhiều tâm hồn, ngã vào lòng Rượu nho tìm lấy nghệ thuật để hiểu lấy
chính mình. Thanh Tâm Tuyền là một người như thế.
2. “Nghệ thuật Đen và Mọi” của Thanh Tâm Tuyền
Thanh
Tâm Tuyền đứng về phe nỗi buồn.
“Chúng tôi theo cơn cuồng nộ bi thảm của
Dionysos của cuộc đời hôm nay.....Nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có, hỗn
loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng
mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm...(Người làm thơ)
không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn đã là một hình dáng, họ muốn nhìn thực
tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng, phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện
ra với cái thực chất hỗn loạn không che đậy”[6;64-71].
Một
tuyên bố rõ ràng và đanh thép, ông đứng về phía Dionysos để xác lập nghệ thuật
hôm nay. Nietzsche là kẻ chống chúa, còn Thanh Tâm Tuyền là người lật đổ thi
pháp thơ Mới để tái sinh cho thơ một linh hồn và giá trị khác. Nietzsche cũng
như Thanh Tâm Tuyền đều triệt để trong cuộc đảo hoán các giá trị mà họ chủ
trương. Có thể, đôi khi chúng ta thấy ngượng người trước thái độ hư vô nóng nảy
của cả, hoặc cụ thể hơn là chính Thanh Tâm Tuyền. Nhưng không thể phủ phận, cơn
hồng thủy vĩ đại là điều duy nhất cần thiết để tái lập một trần thế hoàn toàn mới
mẻ. Sự nóng nảy triệt để cần cho cuộc cách tân và xếp xó những hình hài cố cựu
cản đường phát triển của văn chương. Trong cách hiểu của Thanh Tâm Tuyền, đó là
Thơ mới, là nền văn nghệ tiền chiến cũng như những dư âm khôi hài của nó.
F.
Nietzsche (1844-1900) và Thanh Tâm Tuyền, hai con người, hai thời đại khác nhau
nhưng đã gặp nhau ở cuộc đảo hoán những giá trị. Với Nietzsche, đó là người tiền
trạm của thời đại mới, kẻ gieo mầm cho tư duy nhân loại. Thanh Tâm Tuyền cũng
như Heidegger đã chịu ảnh hưởng từ Nietzsche một cách rõ nét. Đặc biệt, quan niệm
về thơ của Thanh Tâm Tuyền có thể nói là phát triển dựa trên “The Birth of
Tragedy”. Tất nhiên dựa trên quan niệm đó, Thanh Tâm Tuyền đã phát triển và tiếp
thu những ảnh hưởng khác tạo nên phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Là
Nietzsche, nhưng Nietzsche đã hóa thân, là Nietzsche khác.
Chính
ở khía cạnh này, Thanh Tâm Tuyền xây dựng quan niệm nghệ thuật đen – nghệ thuật
mọi. Xuất phát từ niềm kiêu hãnh của những kẻ yếu thế giữa đời sống, nhà thơ
mang về tim dòng máu phản kháng. Đó là ý muốn đảo hoán giá trị. Thơ ông, như Đặng
Tiến nhận xét, là sự tháo gỡ và sắp xếp lại không chỉ những cấu trúc ngữ âm mà
còn cả nhịp điệu của tư tưởng. Đó là thay đổi từ chính cội rễ của tâm hồn mà một
cuộc cách tân triệt để cần có. Đấy cũng lại là dấu vết của sự đổ vỡ, càn quét từ
mùa giông bão say sưa Dionysos[4].
Thứ
hai, Thanh Tâm Tuyền chịu ảnh hưởng thái độ của Nietzsche đối với hiện hữu xung
quanh mình. Từ đó, nó trở thành điều kiện cho những trầm tư về đời người theo
kiểu Sartre nảy nở tiếp theo. Trong đó, sự khẳng định ý chí thể hiện rõ ràng và
tiên quyết. “Bởi vậy nhân vật người viết
ngày nay sẽ không là một người vỗ về kẻ đọc. Nó chính là những con quỷ ám ảnh –
những con quỷ thời tiền sử về ám ảnh – kẻ đọc, trong những lúc tỉnh thức. Đó
chính là một cớ mà tôi thành thật với tôi và với bạn tôi mà nói rằng: Nhiều lúc
tôi khó chịu với nhân vật ôn hòa của Doãn Quốc Sỹ”[3;116]. Hơn thế, đó là ý
chí hùng cường tàng ẩn trong mỗi con người (dù là kẻ nhu nhược nhất), khẳng định
sự tồn tại của mình thông qua tác động dữ dội đến ngoại thể. Thái độ đó là của
người biết xác lập giá trị và cho đấy là căn nguyên của việc xác định giá trị độc
đáo cho bản thân. Theo đó, chất hiện sinh ở nhà thơ khởi đi từ chính những băn
khoăn về đời sống xung quanh. Với thơ, Thanh Tâm Tuyền là con người của nghệ
thuật, nhưng còn là người như chính mình, cái chính mình riêng biệt và được khẳng
định. Có lẽ thế nên khi mở đầu tập thơ “Tôi không còn cô độc”, chúng ta nhận thấy
ngay chất giọng trầm hùng của siêu nhân. Một kẻ ngạo mạn trên ngai vàng duy nhất.
Kẻ chí tôn luôn là kẻ cô độc. Hắn có quyền đặt ra luật lệ nhưng hắn cần tự do
như môi trường sự sống. Hắn không thể chối tự do, ngay cả chối tự do về phía
người đọc. Người đọc và nhà vua hoàn toàn tự do. Không một ràng buộc nào kiềm
chế mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc. Nhà thơ hùng mạnh do thế đã trở nên
cô độc vĩnh hằng.
“Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi
vì người vào trong đất đai của tôi.
người hoàn toàn tự do.
để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần
mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ.
người hoàn toàn tự do.
và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ” (Tôi không
còn cô độc, 1956)
Tiếp
theo, Nghệ thuật đen là gì ? Đó là nghệ thuật của sự phẫn nộ. Thanh Tâm Tuyền
lên tiếng cho một nửa sự thật xưa nay luôn bị những nhà luân lý và tư tưởng
chính thống kiềm nén, lờ đi, hoặc xua đuổi. Thanh Tâm Tuyền đứng về phía những
kẻ yếu hèn. Đó là một tuyên ngôn:
“Gọi
nghệ thuật đen thứ nghệ thuật bi đát phẫn nộ, thứ nghệ thuật dục tính suồng sã,
thứ nghệ thuật vô luân trắng trợn. Thứ nghệ thuật bị các nhà đạo đức lên án, bị
con người văn minh chối nhận, .......– những người rất ngược nhau lại gặp nhau ở
điểm này. Gọi nghệ thuật đen là nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của
những tên “mọi” trong xã hội. Nhưng này, tất cả những nhà đạo đức, những người
văn minh, ........., hãy nhận lấy một sự thực: “mọi” cũng là người và nghệ thuật
của “mọi” cũng là nghệ thuật của người. Và bọn “mọi” ấy cũng muốn được phát biểu
ý kiến như các ngài vậy”[5;35-48].
Trong
bài viết này chúng tôi đặc biệt chú ý đến khía cạnh ưu tiên bộc lộ và chân
thành thể hiện những bí mật sâu thẳm trong đời sống tinh thần con người. Do thế,
thơ Thanh Tâm Tuyền đạt được chiều sâu tư tưởng và đụng chạm đến từng tế bào
căn cựu nhất trong cảm xúc con người, những cảm xúc rất con người. Cũng do thế
mà thơ ông mang lại được chất đau đớn tột cùng trong dáng hình đứa con thế kỷ
XX. Tuổi hai mươi như thế kỷ nỗi buồn - mất mác – bấn loạn – đau thương – giải
thoát. Thế giới thơ Thanh Tâm Tuyền đầy rẫy những đột biến hiện sinh mà bóng tối
của vũ trụ tâm thức đùn dậy khắp nơi. Thế giới của mọi và đen, nơi khai mở một
chân trời giá trị nhân tính.
Tại
sao lại cần đến nghệ thuật đen ? Trong tư thế phản kháng mọi giá trị giả dối, lố
bịch đang còn ngổn ngang xung quanh, Thanh Tâm Tuyền đứng ra vạch trần bộ mặt
trưởng giả, yếu hèn và cả tin của lũ người bị tha hóa. Đó là các nhà luân lý,
các nhà khoa học, các đồ vật nói tiếng người. Vì “hai tay nắm chặt hư vô”, chúng
ta cần có nghệ thuật đen để: có thể mang lại thế cân bằng cho tồn tại đích thực,
có thể phô bày chân thật nhất từng u nhọt đớn đau của cuộc sống. Chúng ta không
giả dối, không run sợ, không chạy trốn bao nhiêu bất cập và bất khả ập đến
mình. Nghệ thuật đại diện cho những người đã thức tỉnh trong cuộc hiện sinh và
quay đầu lại chống chọi với những bi kịch căn cựu ngay tại cuộc đời mình. Không
chạy trốn, không tự lừa dối, không xa lánh, đó là thái độ cần có để nghệ thuật
đen tồn tại và cũng là nét nổi bật của nghệ thuật đen. Nghệ thuật hôm nay, nghệ
thuật đen không phải thứ nghệ thuật hủ nút, phá phách, trụy lạc, ngu muội,
thoái hóa; càng không phải dấu hiệu lâm chung của đời sống. Như đã nói, nghệ
thuật đen có đấy để cứu chuộc những tật nguyền u tối còn ẩn khuất trong tầng bậc
sâu thẳm nhất của tâm hồn người. Nhờ đó, chúng ta có thể nhìn thấy hậu quả của
những biến động xã hội đã ảnh hưởng đến tinh thần người như thế nào, thấy được
những dị dạng khiếp đảm. Điều này có thể dễ dàng nhìn thấy qua những hình ảnh
và biểu tượng thành hình từ kỹ thuật và tư duy siêu thực trong thơ Thanh Tâm
Tuyền hay như chính lời thi sĩ của Tôi không còn cô độc (1956) thốt lên:
“Những ngày đã sống trói tay
những ngày đã sống tù đầy
lòng tôi điên cuồng
mồm tôi khấn nguyện
tự do tự do tự do tự do tự do
em gái cười riễu cợt
chữ tự do không nghĩa
mỗi người đã chính một tự do
hãy tưởng tượng
những ngày băng ngục
đêm dài vô kể
tôi chẳng dám chạm tay người yêu
khi ấy chúng tôi là hai xác cứng
tôi đau quằn quại từng mảnh thịt
phải có tự do chỉ có tự do
không chúng tôi thành súc vật
người mất nơi trú ẩn
lang thang như bầy cừu
được lùa nhốt trong chuồng lớn
rào gai sắc chết người
người bị móc con ngươi trái tim tinh thần
ném vào thú dữ
cấu xé nhau”
Nghệ
thuật đen có những đặc trưng gì ? Nói về đặc trưng của nghệ thuật đen,“trước hết
là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu bằng sự chia lìa cần
thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự nhận thức cao thấp là
tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt....”[5; 35-48]. Thanh Tâm Tuyền nhấn
mạnh trước hết là sự phân ly của ý thức hay sự từ bỏ. Không một chi tiết nào
cho thấy rõ ảnh hưởng của Nietzsche đến nhà thơ như ở vấn đề rũ bỏ các giá trị
cũ và rũ bỏ bộ mặt trưởng giả lố bịch của xã hội. Sự hài lòng với các đặc tính
của sự vật lầm lì (Sartre tóm vào trạng thái buồn nôn) hay sự bằng lòng yếu hèn
của con người; Thanh Tâm Tuyền cho rằng như thế không phải nghệ thuật, hay chí
ít chỉ là nghệ thuật lừa –nghệ thuật của những kẻ nịnh hót cuộc đời. Bắt đầu từ
nhận thức, nghệ thuật đen mang ý muốn thức tỉnh mọi người hãy vươn lên và thiết
lập các hệ giá trị độc đáo của cá nhân. Để trên từng dấu chân, con người luôn
ghi khắc dấu ấn độc đáo của mình. Ý chí khẳng định mình, ý chí tồn tại; bằng
cách tác động đến ngoại vật, để ngoại vật nhuốm màu chủ thể. Đề cao vai trò của
ý chí, điều này xuôi chúng ta quay lại nguồn cội tư tưởng của Nietzsche – hay
Schopenhauer. Mặc dù vậy, Thanh Tâm Tuyền không sa vào duy tâm thuần túy. Vì ở
nhà thơ, các biểu tượng chẳng hạn, đã trở thành những đối tượng ý chí có tính vật
chất, tồn tại như những vật chất trong đời sống tinh thần. Ý chí đã lìa bỏ những
đặc tính lầm lì tại nó một cách vô nghĩa hoặc bị quy định. Ý chí đòi hỏi, và do
đó, đã vươn lên sáng tạo.
“Nghệ
thuật đen bắt đầu bằng một ý thức chia lìa ghê gớm đó. Chia lìa ghê gớm thế là
nghĩa gì? Đó là một bệnh trạng của trí thức thời nay chăng? Không. Đó là khởi
nguyên của ý thức là mầm mống của thay đổi, của sáng tạo. Sự chia lìa ghê gớm
kia là điều kiện cho một nhận thức sâu xa về đời sống, rũ bỏ những huyễn ảnh của
kẻ bấy lâu ngồi trong hốc đá chỉ nhìn những bóng chiếu in trên vách mà tưởng là
sự thật”[5;35-48].
Phải
nói thêm rằng, từ chỗ nhìn thấy sự phân ly của ý chí và đối tượng, Thanh Tâm
Tuyền càng khẳng định đặc tính và điều kiện cho sáng tạo là đớn đau. Chỉ trong
đớn đau, các động lực sáng tạo mới được kích thích triệt để và là con đường
cùng khiến kẻ sáng tạo không thể thoái lui hay lẩn tránh. “Như con nai bị chiều
giăng lưới” (Xuân Diệu). Đó là sự bi đát – tuyệt vọng – chìm ngập trong nỗi
đau. Nên lưu ý, vì nỗi đau hay niềm “cô độc sâu” ở đây không đơn thuần là những
vết thương của đời sống cảm xúc. Hơn thế, đớn đau là hậu quả do “sự chia xé tan
hoang của một ý thức tận trong phần sâu hút của nó bơ vơ trơ trọi ngoài đời sống
muốn trở về gia nhập nhưng không thỏa mãn với trật tự hiện hữu và chưa nhìn thấy
cái trật tự tìm kiếm”[5;35-48]. Đau đớn vì nhận ra vẻ ác độc của bóng đêm nhưng
không chạy đâu được trước buổi chiều chắc chắn ập đến không gì cưỡng lại được,
còn vì “nai” kia không chắc có tìm thấy bình minh hay không ? Nghệ thuật đen,
do đó, luôn trong tư thế vùng vẫy – giẫy thoát, muốn trào ra và rút lại cô đọng
thành những niềm “cô độc sâu”, những “lệ đá xanh”, những “trời không xanh không
tím không hồng”.
Thừa
nhận đôi ý hướng mâu thuẫn trong bản thân nó, nghệ thuật mà Thanh tâm Tuyền chủ
trương luôn biến động và dữ dội. Đó là cái hố đen xoay tít, tập trung vật chất
một cách cao độ với sức hút ghê gớm về phía những người đọc cứng đầu nhất.
Nhưng bọn zombie trưởng giả hầu như run sợ với nghệ thuật đen. Không chấp nhận
– lẩn tránh – xua đuổi – chửi bới – quy trục...là những thái độ mà bọn chúng
gán cho nghệ thuật đen.
Ngoài
ra, cần phải nói thêm rằng, nghệ thuật đen đứng về phía những kẻ yếu thế bị xã
hội lưu đày và nêu cao tinh thần dân chủ trong sáng tạo. Chính Thanh Tâm Tuyền
đã nói ngay từ đầu – nghệ thuật đen là nghệ thuật của “mọi”.
“Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hồn bắt
đầu ngày tháng”
(Đen
– Liên đêm mặt trời tìm thấy, 1964)
3. Kết luận
Bằng
cách nhìn vào thế giới cổ Hy Lạp, Nietzsche tìm kiếm yếu tính của bi kịch và từ
đó phát hiện cái góc tối hiển hiện lâu nay. Triết gia tìm vào đó và nhìn thấy
tâm hồn bóng đêm, phát hiện ra hư vô, nhận chân sự thối nát giả danh và bãi
hoang đời sống để từ đó nhìn thấy sự cần thiết một cuộc đảo hoán vĩ đại và triệt
để. Không ai khác, đó chính là Dionysos, vị thần say sưa hoan lạc, là người có
thể đủ quyền năng thực thi guồng xoay đảo hoán ấy. Vì thần đi giữa đời bằng đôi
chân trần nóng bỏng, với gò ngực cường tráng và đôi mắt ngất ngây của nhân
tình. Ở đó, quả tim nóng cháy trước hề trò trưởng giả nhưng cũng biết đam mê hết
mực với nguồn đời bất diệt sinh sôi.
Đi
từ Nietzsche trở về Dionysos, Thanh Tâm Tuyền gột nhào nên chất Đen và Mọi. Nhà
thơ trẻ đứng về phía những kẻ cô thế và yếu đuối giữa xã hội. Ông giận dữ với
những kẻ nhu nhược hèn kém, hài lòng sống với ánh sáng giả danh Apollo nhưng vẫn
đứng về “thiểu số” (theo cách hiểu là những người bị nô lệ về tinh thần) trong
xã hội, hay lũ mọi theo cách gọi của ông. Là kẻ quan tâm, lắng nghe và thẳng thắn
lớn tiếng bênh vực Mọi, Thanh Tâm Tuyền trở nên gần gũi với tinh thần phản
kháng của Dionysos một cách kì lạ, tưởng như khoảng cách thời gian, khoảng cách
huyền thoại không còn nữa, hai tâm hồn chấp nhận cuộc chơi và vị trí bên lề đời
sống. Chính ở đấy, nhà thơ kết án đời sống bằng con mắt trợn tròn. Những chấn động
long trời lở đất đã lay chuyển hồn đá cằn cỗi nhất của đời sống. Với thơ tự do,
Thanh Tâm Tuyền gây dậy sinh lực mới cho sinh hoạt thơ ca đương thời. Mặc cho
những tranh luận và đánh giá ngược chiều, thơ ca Thanh Tâm Tuyền vẫn rất đáng
trân trọng. Vì ông và thơ ông đứng về phía con người – con người theo cách hiểu
đầy đủ và chân thực nhất của nó. Phải chăng đây là con đường hướng đến các giá
trị nhân văn cao đẹp trong tâm hồn “thi sĩ ca dao”.
Để
kết thúc bài viết, chúng tôi xin nói thêm về những đóng góp của nhà thơ, tất
nhiên, chỉ tập trung ở quan niệm nghệ thuật, mà theo chúng tôi, là đóng góp trước
nhất, quan trọng nhất và đáng kể hơn cả trong sự nghiệp văn chương Thanh Tâm
Tuyền. Khởi đi từ một ý thức cách tân triệt để, theo chúng tôi, nhà thơ là người
thật sự có lòng với văn chương, chứ không đơn thuần và cái tên mới toanh muốn
phá bỉnh để tìm lấy một chỗ trên văn đàn. Không ! Thanh Tâm Tuyền bằng cách
nghĩ về Mọi, bằng cách sống với Đen và niềm phẫn uất trước ánh sáng giả danh của
thời cuộc, đưa thơ ca Việt Nam bấy giờ ở Miền Nam Việt Nam nói riêng và thơ ca
Việt Nam hiện đại nói chung tiến thêm một bước dài đáng kể. Cũng như, một lần nữa
khẳng định các giá trị “người” một cách đáng trân trọng.
Tài liệu trích dẫn
1. Felicien Challaye (2007), Nietzsche – cuộc đời và triết lý, Nxb Văn Nghệ, Tp. HCM.
2. Friedrich Nietzsche (2007), The Birth of Tragedy and Other Writings, Cambridge University
Press, UK.
3. Nhiều tác giả (1965), Thảo
luận, Nxb Sáng Tạo, Saigon.
4. Đặng Tiến (2008), Vũ
trụ thơ II (Thơ trong thời chiến), Thư Ấn Quán, tr.99-100.
5. Thanh Tâm Tuyền, “Nghệ
thuật đen”, Sáng Tạo bộ mới số 3, ra ngày 1-9-960, tr. 35-48.
6. Thanh Tâm Tuyền (1972), Nỗi buồn trong thơ hôm nay – 1955, in lại trên Tạp chí Văn (số đặc
biệt về Thanh Tâm Tuyền), Saigon, tr.64-71. (Dẫn theo Đặng Tiến, Vũ trụ thơ II,
Thư Ấn quán, 2008, tr.106)
Comments
Post a Comment