CHIỀU
KÍCH THỨ TƯ TRONG “MƯA NGUỒN VÀ LÁ HOA CỒN” CỦA BÙI GIÁNG
[Võ Quốc Việt - Khol V., 2019]
Tóm
tắt
Nghĩ về Bùi Giáng là nghĩ về thơ đến
nỗi Bùi Giáng nghĩa là thơ. Cuộc đời và thi phẩm của ông ẩn chứa khí chất thi vị
khác thường. Do đó, toàn cõi thơ Bùi Giáng là một trời sương dường như luôn
luôn xa lạ và mê đắm. Chúng tôi muốn tìm hiểu liệu có phải chính vì sự vượt
thoát trong thơ ca Bùi Giáng và sự tiếp cận thơ ca của ông không nằm chung chiều
kích tri nhận đã khiến cho những thi phẩm của ông giăng mờ một màn sương khói
hư ảo. Phải chăng, cõi thơ của ông biểu hiện sự tồn hữu ở một chiều kích khác.
Thế thì những phương cách nào khả dĩ gợi mở con đường đi vào thơ ca “Sáu Giáng”?
Đây là những vấn đề mà chúng tôi đặt ra và mong muốn giải quyết trong bài viết
này.
Từ khóa: Bùi Giáng, chiều kích thứ tư, chiều
kích tri nhận, vượt thoát.
1.
Đặt
vấn đề
Câu
chuyện văn chương vẫn luôn là những câu chuyện của cuộc sống con người. Xa rời
cuộc sống con người, văn chương trở nên trống rỗng. Nhưng cái đời thường của
văn chương, trong đó có thơ ca, là cái đời thường của sự phi thường hoặc khác
thường. Vẫn là cuộc sống con người nhưng hiện thực đời sống hiện lên với dáng vẻ
dường như xa lạ, một hiện thực khác mà ít khi hoặc chưa thể được phát hiện. Bản
chất của văn chương trong đó có thơ ca phải chăng là sự “lạ hóa” hay nói theo một
cách khác “là nguyên tắc thẩm mĩ, theo đó, cái quen thuộc được mô tả như cái xa
lạ và kì quặc, cái đã thành tập quán được mô tả như cái ngỡ ngàng và đáng ngạc
nhiên” (Hiunter,
2008). Nghĩa là sự phát hiện một hữu hiện có đấy hoặc chưa có đấy. Một hữu hiện
có đấy nhưng chưa được biết đến, hoặc một hữu hiện chưa có nhưng được phơi mở
thêm ra. Thế thì phải thừa nhận rằng nhận thức của trí não người chưa đầy đủ hoặc
sai lạc về hiện thực. Điều này đồng thời cho thấy khả năng nhận thức thiếu sót
và sai lệch của trí năng nhân loại đối với chân tính.
Nhưng
làm sao có thể phát hiện và khai mở những mô thức hữu hiện ấy; liệu con người với
tất cả quan năng và trí lực vốn có (mà con người vốn dĩ vẫn tự mãn giữa cõi trời
đất này), liệu rằng với tất cả những trợ thủ và khí cụ hữu hiệu đó con người có
thể nắm bắt được những hữu hiện ở thượng tầng hoàn vũ này không ? Điều này khiến
chúng tôi nghĩ đến những luận đề về nhận thức, nghĩ về Henri Bergson và vấn đề
nhận thức thế giới bằng trực giác: “Thông thường tư tưởng phân tích thu hình
cái mới chỉ như là một sự sắp đặt lại những cái đã có; tuy không có gì bị mất
đi, nhưng không có gì mới được tạo ra. Nhưng “trực giác, vì gắn liền với thời
gian tức là sự tăng trưởng, nó nhận thức được trong đó một sự liên tục không đứt
quãng của một cái mới không thể biết được; nó thấy, nó biết rằng trí tuệ tự rút
ra nơi mình nhiều hơn những gì nó có, và tinh thần chính là ở đó, và thực tại
thấm nhuần tinh thần là một sáng tạo”. Vì vậy trực giác khám phá ra rằng bản
ngã là một sự tồn tại trong thời gian, một dòng chảy liên tục” (Stumpf
2004, tr.346). Bergson đã nhìn thấy được xu hướng cố hữu của tồn tại. Mọi sự tồn
tại đều có xu hướng tiến lên một phương thức hữu hiện cao cấp hơn, toàn diện
hơn. Cả trên phương diện vật chất lẫn tinh thần. Và kì thực, tinh thần mới là
nơi tiếp thông với siêu cấp chiều kích (sinh giới đa chiều). “Theo Bergson, giải
thích tốt nhất về tiến hóa là ở một xung lực sinh tồn, gọi là élan vital (đà sống), là nội lực thúc đẩy
mọi sinh vật không ngừng hướng tới những phương thức tổ chức phức tạp hơn và
cao hơn. Élan vital là yếu tố nội tại
cơ bản của mọi sinh vật – và là lực sáng tạo chuyển động liên tục xuyên suốt mọi
sự vật” (Stumpf, 2004, tr.348). Hơn bất cứ sinh thể nào, kẻ làm thơ luôn là kẻ
không hài lòng với sinh thế mà hắn tồn tại và dự phần. Ở kẻ làm thơ, cái đà sống
ấy luôn chực chờ bộc phát cao độ. Phải chăng chính sự dự phóng vượt thoát khỏi
sinh quyển ba chiều ấy đã cho phép thơ ca có thể “thượng phương kim cương” ở những
cõi giới cao hơn. Nhận thức bằng trực giác là sự tiếp thông trực tiếp giữa chủ
thể và khách thể, đến mức sự phân định chủ thể và khách thể không còn nữa; vì rằng
chủ thể nằm trong cách thế của khách thể và khách thể được hiển hiện ra trong
chủ thể như là chính nó với tất cả chân tính và đặc thù vốn dĩ (có thể liên hệ
thêm với Thuyết chuyển cảm/Empathetics của Théodor Lipps).
Thế
thì văn chương, đặc biệt là thơ ca, với yêu cầu “nhận thức” thế giới như nó vốn
dĩ và siêu vượt để biến hữu hiện thành ra như là “xa lạ” đã đặt ra vấn đề khả
năng nhận thức của chủ thể. Điều này đòi hỏi khả năng nhận thức trực giác của kẻ
làm thơ. Và thơ thì phải làm chứ không thể viết. Nghĩa là thơ phải là sự nhận
thức trọn vẹn đến mức xóa nhòa ranh giới giữa thơ và phi thơ, giữa kẻ làm thơ
và những cái gì không phải kẻ làm thơ. Sự tiến thẳng trực giao đến vòm trời
“chân tính” của thị hiện, bay vượt lên siêu cấp chiều kích. Ấy là cảnh giới thượng
thừa của kẻ làm thơ vậy.
Vậy
ra kẻ làm thơ phải là kẻ vượt thoát. Thế thì hắn thoát ra khỏi cái gì và tìm đến
chỗ nào ? Nhưng phải nói ngay rằng: hắn là một kẻ mắc kẹt; là người trời mắc đọa,
là dạng sống dang dở và bất hạnh căn cơ. Bởi vì phải vượt thoát, thoát ra khỏi
chính cái dung chứa thân và tâm của hắn ấy, để về đến chốn hằng hữu của muôn
vàn mà từ chốn ấy thị hiện đã rớt rơi.
Hay nói khác đi, làm thơ bắt đầu bằng sự hoài nghi về hữu hiện ba chiều
(kẻ làm thơ đã “chán ngấy” thực tại lầm lũi và tẻ nhạt đến mức nực cười). Vì sinh
giới ba chiều cứng đọng và buồn chán.
Vậy
tại sao lại là hữu hiện ba chiều ? Tại sao trí não ta lại chỉ quanh quẩn trong
ba chiều kích cũng như sinh mệnh người cứ lại quẩn quanh dưới vòm trời “lý trí”
đã đặt để. “Và đây là vấn đề đáng chú ý: bởi do vài ba tính huyền nhiệm của
hoàn vũ cũng như một vài giới hạn thuộc về cơ trí não tủy, ta không thể mường
tượng về chính ta vượt ra ngoài ba chiều kích độc lập kia” (Ouspensky,
1922, p.27-28),. Chúng tôi muốn nói đến sự hạn hẹp của trí năng đã buộc chúng
ta cứ “lôi thôi lếch thếch” “quanh đi quẩn lại” trong sinh giới ba chiều. Chính
ở chỗ đó, chính sự không bằng lòng với sinh giới ba chiều mà kẻ làm thơ đã làm
thơ. Vì kẻ làm thơ, chính hắn, đã nhận ra một cách ngao ngán và không còn đường
chối chữa rằng thực hữu mà hắn có mặt và dự phần quá tạm bợ và không có gì đáng
kể. “Khi ta không thể dựng xây gì hơn ngoài ba đường trực giao độc lập ấy, và nếu
tính chất ba chiều của cõi đời này là thiết định, thì ta buộc phải thừa nhận một
sự thật không thể tránh khỏi là sự hạn định của cõi hồng trần này trong mối
liên hệ với khả thể có tính chất hình học: thế nên hiển nhiên nếu các thuộc
tính của không gian được tạo ra bởi một số giới hạn của ý thức, thì sự hạn định
[của chốn bụi đỏ hoen mờ] đang nằm trong bản thân chúng ta” (Ouspensky, 1922,
p.28),. Trong số muôn vạn cách thế trước cái sự thật bẽ bàng đó, rất có thể, hắn
sẽ làm thơ như một điều không thể khác được và làm thơ để cợt giễu sự bẽ bàng nực
cười về nhận thức thực hữu cũng như bằng ý hướng khởi tạo thơ ca, hắn tìm về
hoàn thiên thế giới siêu vượt.
Bấy
giờ, “ta nhìn vào sự vật, cả những cái ngoại hiện lẫn nội tại. Ta biết rằng các
yếu tố nội tại của sự vật cấu thành dòng luân chuyển dịch hóa vô biên của sự vật
cũng như căn tính nguyên ủy của chúng. Và hoàn toàn tự nhiên, ta bỗng hỏi chính
mình, các yếu tố nội tại này ở đâu, và nó biểu trưng chính nó trong/thông qua
cái gì. Và ta thấy rằng nó không bị gồm thâu trong không gian của chúng ta. Ta
bắt đầu nghĩ tưởng đến ý niệm về “siêu cấp không gian” có nhiều chiều kích hơn
cõi đời [ba chiều tẻ nhạt] của chúng ta. Cõi đời này hiển hiện ra như một phần
[khiếm khuyết, què quặt, dang dở] của siêu cấp không gian, tức là ta bắt đầu
tin tưởng rằng ta biết được, cảm thụ, đo định được một phần nhỏ của chân không[1] ; và cái phần nhỏ mà ta đo
định được ấy kia là cái không gian thuộc về phạm trù của dài, rộng và cao”(Ouspensky,
1922, p.30).
Chung
quy, đặt ra vấn đề nhận thức và nhận thức về siêu cấp chiều kích, chúng tôi muốn
tìm đến mối liên hệ của khả năng nhận thức này với thơ ca. Phải chăng thơ ca
chính là biểu hiện của sự vượt thoát đó. Từ đây, chúng tôi phóng chiếu vào thơ
ca Bùi Giáng (cụ thể là tập Mưa nguồn và Lá hoa cồn). Thơ ca như một phương thức
nắm bắt thực hữu. Một nỗ lực vượt thoát khỏi mặt bằng chung của hữu hiện ba chiều.
Đặt ra vấn đề này chúng tôi muốn trở lại với quan niệm của Henri Bergson về nghệ
thuật và sự giao cảm. Nếu chúng ta có cảm biến tương thông trực tiếp với vạn hữu,
chúng ta có thể trở thành nghệ sĩ. Nghĩa là lắng nghe, nếm, ngửi, xúc chạm và
tiếp ứng linh thông với vạn hữu trong tất cả vận hội giao hòa của trời đất hoàn
vũ. Nhưng thực tế đều này bị cản trở. Vì “giữa chúng ta và bản thân ý thức của
chúng ta, có một bức màn xen vào, bức màn dày đặc đối với đại đa số người, bức
màn mỏng, gần như trong suốt, đối với người nghệ sĩ và nhà thơ” (Meyer,
1999, tr.121). Điều này có vẻ đã nhấn mạnh vào khả năng linh thông của thơ ca đối
với chân tính của vạn hữu.
Vậy
thì điều gì đã cản trở chúng ta vươn đến việc tiếp chạm với chân tính của thực
hữu thậm chí siêu vượt đến các siêu cấp chiều kích của những chiều hữu hiện
khác. Và ở khía cạnh này, ngôn ngữ vừa là khí cụ đắc lực vừa là gông cùm cản trở
chúng ta đạt được trạng thái trực giao với các hữu hiện đa chiều. “Từ chỉ dùng
để ghi nhớ chức năng thông thường nhất và mặt tầm thường của đồ dùng, len lỏi
vào giữa vật thể, và sẽ che lấp hình dáng của nó trước mắt chúng ta nếu không
phải là hình dáng ấy đã dấu mình sau những nhu cầu đã tạo ra cho bản thân từ ngữ”
(Meyer,
1999, tr.123). Nhưng thơ ca không thể không y cứ trên ngôn ngữ, không thể không
dựa trên ngôn ngữ mà lập thành. Vì thơ ca là một ý hướng phát ra, nghĩa là vẫn
chuyển dịch từ nguồn khởi phát đến cái gì đó không phải là nó. Nghĩa là dịch
chuyển từ thơ đến cái không phải thơ, thơ mang theo cái ý hướng đó lây chuyển vạn
hữu. Thơ đi từ chỗ nắm bắt động hướng của hoàn vũ mà ý thức thông thường không
phát hiện ra để mang chính cái động lượng và động hướng quay trở lại hoàn vũ.
Phương tiện của thơ là ngôn ngữ. Hẳn nhiên vẫn có những phương thức chuyển tải
khác (đường nét, hình khối, màu sắc, kết cấu, ….) nhưng dù là sử dụng bất cứ
phương tiện nào, thơ cũng lại bị chính phương tiện ấy trì kéo lại. Đó là “lực
ma sát” mà thơ mắc phải trong suốt quá trình vận động thị hiện của nó. Cho nên
nói, thơ và kẻ làm thơ căn cơ là một mô thức mắc kẹt và bi kịch.
Vậy
nên, việc tìm kiếm “điển quang”[2] (Lê Trung Trực, 1993,
tr.25)hay nắm bắt siêu cấp chiều kích trong thơ cần phải dựa trên ngôn ngữ
nhưng lại phải từ bỏ ngôn ngữ. Có lẽ chúng ta nên quay lại với nguồn khởi xuất
ý hướng lập thành thơ ca. Não bộ là điểm giao thoa giữa không gian ba chiều và
không gian bốn chiều, hay nói khác đi là điểm dịch chuyển để khai mở ra chiều
kích thứ tư, thậm chí đa chiều (n-chiều). Điều này tùy thuộc và sự hành “Thiền”
(sự khai thị tâm linh để kích hoạt khả năng vượt thoát của siêu thức vốn ẩn
tàng). Quá trình này được gọi là đi từ điển
tới quang. Năng lượng của thơ chính
là phần “ánh sáng” như thế.
Vậy
làm sao có thể khai mở điển để thành
ra điển quang. Trong phạm vi hạn hẹp
của ý thức (nghĩa là lý trí), chúng ta có thể nhìn thấy sự lệ thuộc của ý thức
ta đối với ý niệm về không gian và thời gian. Thế nên chỉ khi nào tháo gỡ được
sự ràng buộc đến nghẹt thở của hai ý niệm căn cơ và hư vô này, chúng ta mới có
thể bắt đầu tiếp nhận vấn đề siêu cấp chiều kích của hiện hữu. Bản chất và đặc
trưng của thơ ca dường như tạo điều kiện cho sự rũ bỏ lối tư duy thông thường để
thoát xác vươn đến một phương thức tư duy đa chiều. Phải chăng thơ ca chính là
những khoảnh khắc “thượng phương kim cương” ở cõi trời vô lượng chiều hướng.
Vấn
đề tranh biện chỉ có thể đặt ra khi chúng ta cùng thuộc một mặt bằng tư duy và
cùng một ngôn ngữ phương tiện. Nhưng thơ ca lại sử dụng và ở trong một phương
thức tư duy khác. Nghệ thuật cũng như thơ ca sử dụng lối tư duy hình tượng như
thể trực giao nằm trong và tại thành đối tượng. Nghĩa là lối tư duy trong tính
liên tục không thể đứt quãng và phân tách mà Bergson đã nói đến. Thế nên, ý niệm
về không gian và thời gian nghệ thuật cũng theo đó được cô kết hiệp thành. Khi
sự hiệp thành đạt đến một mức độ nhất định thì có thể nhận ra không tính và thời
tính có cùng một bản chất. Dài, rộng, cao thuộc về không tính. Còn thời tính dường
như là cái gì trải ra, căng phơi, chuốt chảy từ trước đến sau. Dường như có một
dòng dịch chuyển liên miên của hoàn vũ trên cái trục thời tính đó. Nhưng sự dị
biệt của những ý niệm đó bị gột rửa, tinh thần trở về với tâm linh nguyên ủy,
hoặc ít nhất là đã nằm trên bệ phóng để trở lại “cõi trời hồng hoang”.
Tuy
nhiên, không phải thơ ca nào cũng là sự hiển lộ cái hành tàng của tâm linh và
là sự biểu hiện của động hướng hay chiều kích thứ tư. Chúng ta cần có những dấu
chỉ để nắm bắt siêu cấp chiều kích trong văn bản thơ ca cụ thể. Điều này sẽ tiếp
tục được nói đến trong phần sau của bài viết.
2. Để đi vào siêu cấp chiều kích trong
thi ca Bùi Giáng.
Khi
bàn luận văn chương, Bùi Giáng hay vò đầu bứt tóc, nhất là khi nói đến Truyện
Kiều và Nguyễn Du. Lắm khi bật khóc tức tưởi, tưởng như ông bị một cơn co thắt
dữ dội về tinh thần. Những biểu hiện đó khiến không ít người lo ngại về chứng
loạn thần kinh của Bùi Giáng. Nhưng dù gì đi chăng nữa, đó vẫn là một biểu hiện
của sự bột phát năng lượng dữ dội ở tinh thần. Bằng chứng là sức viết của ông. Vậy
thì, liệu đó có phải biểu hiện của sự “co thắt” tinh thần do việc giãy thoát khỏi
thực hữu ba chiều ?
Như
đã nói, chúng ta phải có căn cớ trên dấu chỉ để tìm thấy siêu cấp chiều kích
trong thơ ca, cụ thể là trường hợp Bùi Giáng.
Bước
đi đầu tiên để đi vào địa hạt của siêu cấp chiều kích trước tiên là sự rũ
bỏ ý niệm không gian và ý niệm thời gian. Sự rũ bỏ này không có nghĩa
là chối bỏ và phủ nhận sự tồn tại của hai ý niệm này. Sự rũ bỏ này trước tiên
là việc thừa nhận chúng có cùng bản chất. Không có sự chia biệt không gian và
thời gian. Mà hai ý niệm đó là một thể tính hay một chiều kích của hữu hiện. Và
hai ý niệm đó không tách rời nhau. Công việc của chúng ta đối với thơ ca là đi
tìm sự rũ bỏ ấy. Đó là bước đi đầu tiên cho “kẻ lữ thứ” trên con đường vượt bay
từ sinh giới ba chiều sang sinh giới bốn chiều thậm chí đa chiều.
Vấn
đề thứ hai của việc đi vào sinh giới siêu cấp chiều kích chính là việc
truy tìm động hướng. Theo dõi sự biến dịch của đối tượng (trong cả địa
hạt ý thức và linh thức) để nắm bắt nguồn năng lượng thúc đẩy đối tượng đó di
chuyển và thay đổi. Thay đổi trong ý nghĩa căn cơ của nó chứ không phải chỉ là
sự thay đổi trạng thái. Trước hết đó phải là sự thay đổi bản chất. Chúng ta cần
tìm kiếm và theo dõi động lượng với động hướng ấy để phát hiện véc-tơ ý hướng của đối tượng. Và điều
này là khả dĩ đối với thơ ca. Bởi ngôn từ tâm. Tâm khởi thì ngôn thành. Tâm hay
sự khởi sinh từ chỗ vô trụ của ý thức mà thành ra ý thức. Sự lập thành ấy mang
một lượng năng động xác định mà những máy cơ học của loài người xưa nay bất lực.
(Tuy nhiên hiện nay có một số thiết bị cơ học đã lượng ước được nguồn năng lượng
này, chẳng hạn như biofeedback). Và nguồn năng lượng ấy mang một chiều hướng
xác định. Vấn đề của chúng ta là dựa trên ngôn tự để truy về căn cơ của nguồn
năng lượng ấy để ngõ hầu thấy được sự phơi mở chiều kích mà nhà thơ (kẻ sáng thế
nối dài của thế giới) đã tạo nên.
Vấn
đề thứ ba của việc vượt thoát khỏi mặt bằng hữu hiện ba chiều chính là việc
nhìn thấy sự bất ổn và trật tự cùng chung bản chất và thị hiện. Vì
trong cõi giới ấy, vật chất cứ tháo rời, rã tan liên tục không ngừng và cũng
không ngừng hợp thể, cô kết, tương liên phối hợp trong một mô hình nào đó.
Có thể hình dung đến một bóng ma không cố định có thể di dịch xuyên suốt không
thời gian. Không bị hạn định trong một chiều kích nào. Từ ở mức độ hạ nguyên tử
(hư vô) cho đến tam thiên đại thiên thế giới không đâu là không có mặt, không
đâu là không hiển hiện, vì đó là sự tan tụ không ngừng đến mức xuyên không. Và ở
thơ ca, trước hết chính là sự tháo rời như vậy, sự tháo rời và tái thiết của một
ý hướng (khởi ngôn) và bất đắc dĩ phải trú vịn trong một ký tự nào đó. Đó là điều
tai hại đối với thơ ca. Bởi linh tính của thơ ca là động hướng nhưng ngôn ngữ
đã thu chộp và giam cầm thơ ca trong một dáng hình thể tính nào đó. Bởi do đó, ở
thơ ca trước hết là sự tháo gỡ, tách rời, rã tan, bay vọt, biến hoạt không ngừng
mà cũng vừa là sự cứng đọng thui chột, định hình, tích hiện. Thơ ca là sinh hiện
đa chiều mà ý thức người trong những giờ phút siêu vượt khỏi sinh giới ba chiều
đã tác dựng được. Trong thơ ca Bùi Giáng, mỗi âm vị, mỗi âm tố, mỗi từ, mỗi ngữ
đều dường như chẳng can hệ hoặc sợi dây tính lí của những đơn vị ngôn ngữ ấy dường
như rất lỏng lẻo nếu như không nói là rất mơ hồ huyền mị (đến mức người ta cho
là ông ngộ chữ và những câu chữ của ông cũng không hơn lời của kẻ lên cơn tâm
thần là mấy); nhưng chính ở những lúc bột phát ngôn từ mà tâm hướng đã phát khởi
một động lượng đủ mạnh để đẩy thần thức khởi sinh những con chữ “lưu li” và “óng
ánh” – cái đẹp lộng lẫy của huệ nhãn.
Từ
những suy nghĩ mang tính chất gạn mở như trên, có lẽ, công việc truy tìm chiều
kích thứ tư trong thơ ca không phải hoàn toàn là không thể. Nhưng công việc này liệu rằng có mang lại ích
lợi gì cho việc nghiên cứu thi ca và tồn hữu thế giới hay không ?
Trước
hết, với những gì có thể mang lại được cho việc phơi mở chiều kích thứ tư trong
thi ca với những đặc trưng tìm thấy được trong một tác giả hay tác phẩm cụ thể
có thể đóng góp ít nhiều cho hoạt động nghiên cứu và lí luận. Dưới góc nhìn của
thế giới bốn chiều, thi ca dường như mở ra trong tất cả sự thể đặc hữu của nó.
Hơn thế nữa, đây cũng lại là một gợi mở có ý nghĩa ít nhiều đối với hoạt động
tư duy. Vì chỉ khi nhìn thấy sự hạn hẹp của “lồng sắt” không gian và thời gian
mà chúng ta mới nhìn thấy được “hội chứng” ý thức mà con người mắc phải. Bằng
thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung, con người từ xưa nay vẫn luôn luôn ấp
ủ một sự vượt thoát nào đó khỏi mặt phẳng “ao đời” chật chội và tù đọng này.
3. Từ “liên tồn” bốn chiều đến bội phân
đa chiều trong thơ Bùi Giáng qua “Mưa nguồn và Lá hoa cồn”.
Đã
gọi là liên tồn nghĩa là sự hằng hữu bất tận của cái gọi là chân tính miên viễn
không thể cạn cợt nửa vời. Đã là cái gì trôi đi thì luôn luôn bất tận. Hiện thể
ba chiều trong hạn định (gián đoạn) về sự có mặt của nó bằng một trương độ mà
lý trí cô kết trong ba chiều (dài, rộng, cao) cơ hồ chỉ là một lát cắt - li ti
khoảnh khắc của cái hiện thể bốn chiều và đến lượt nó – hiện thể bốn chiều – lại
là một lát cắt cực hữu của hiện thể năm chiều và cứ thế đến vô lượng thể và vô
lượng giới. Thơ ca Bùi Giáng nằm trong cái xu hướng vượt thoát khỏi hạn định ba
chiều nghĩa là sinh giới được nhà thơ chuyển tải dường như đang căng trải ra
trong tính chất “liên tồn” bất tận của nó. Chúng ta có thể dễ dàng nhấc bổng từng
chữ từng âm của dòng thơ nhưng làm như thế là giết chết dòng thơ. Làm như thế
là hoại diệt dòng thơ[3]. Bởi trên cái lạch nước rỉ
ra từ ngàn năm trước đến vạn năm sau thì sơ xưa với mai hậu đã hằng thủy vĩnh
tuyệt không thể tách rời. Thơ của ông (mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy
trong tập Mưa nguồn và Lá hoa cồn) nhiều câu thơ (dòng thơ) hiển lộ như một hiện
thể bốn chiều. Và sự mơ hồ mong manh nhưng lôi cuốn mê hoặc mỗi khi ai đó “lén
phén” bước vào địa giới của thơ ca Sáu Giáng; kẻ đó lập tức cảm nghiệm một sức
mạnh thần trợ ngã vào “bất khả tri”. Đó chính là sự vượt giới, trôi vào cõi bất
khả tư nghị của lý trí. Bởi vì lý trí bất lực với hiện thể bốn chiều.
“Lạc
về đầu rú khe truông
Vốc
năm ngón nhỏ gieo buồn ra riêng
Tuổi
xanh nhiếp dẫn sai miền
Đổ
xiêu phấn bướm phi tuyền vọng âm”
(Phượng – Mưa nguồn)
(Bùi
Giáng, 1973, tr.23)
“Rằng
nhịp gió chạy đầu cây gọi nước
Kết
sương mây về cổng cụm xanh chùm
Cầu
nức nở kéo chân trời xô ngược
Xuống
hồng quần em ố lục hoen lam”
(Rằng – Lá hoa cồn)
(Bùi
Giáng, 1973, tr.334)
Để
đi vào cõi thơ Bùi Giáng phải chăng người đọc phải nhận thức về chính sự hạn định
của ý thức và từ đó tìm lấy chất điểm tư duy và phương tiện tư duy phù hợp. “Tuy
nhiên, ta biết rằng đường thẳng bị giới hạn bởi điểm, mặt phẳng bị giới hạn bởi
đường thẳng và thể khối thì bị giới hạn bởi nhiều mặt phẳng. Vậy thì có thể lập
luận rằng hiện thể bốn chiều bị hạn định bởi hiện thể ba chiều” (Ouspensky,
1922, p.36),. Tại sao lại có sự hạn định đó ? Bởi vì không có điểm thì lý trí hạn
hẹp của bầy “linh trưởng tự phụ” trên quả đất không thể lập thành đường thẳng,
bởi vì không có đường thẳng thì không thể lập thành mặt phẳng. Vì sự yếu nhược
của trí não ta mà cái nhìn về hiện thể bị bóp méo đến mức nghèo nàn.Vậy thì làm
sao có thể xé toạc các hạn định của trí não để trí não thực thành trí huệ. Chỉ
có thể là “điên rực rỡ”. Từ năm 1969 trở đi, khi sự điên lập thành “chính quả” (
kì thực sự điên đã khởi đi từ mấy lần bỏ về Quảng Nam chăn bò hoặc ghi danh vào
Văn Khoa rồi lại bỏ học ngồi nhà viết sách, dịch thuật), cái điên trước hết là
sự rũ bỏ. Rũ bỏ để ngó lại cõi hồng trần ngao ngán đến nực cười. Cười rồi sẽ
chơi. Tháng ngày ngao du, rong chơi lục tỉnh từ ngàn xưa đến mai sau cùng những
Nietzsche, Heidegger, Nguyễn Du hoặc Edgar Marilyn Poe Monroe… Đó là con đường
khai thị phơi mở thần trí đẩy Sáu Giáng rời khỏi cõi giới ba chiều tẻ nhạt để
đi vào tính chất toàn thị hiển lộ của thực hữu bốn chiều. Để người đời lắm kẻ gọi
ông điên loạn, ngộ chữ. Nhưng cũng nên hiểu cho những lời dè bỉu sơ xưa lằn nhằn
ấy, chung quy, cũng bởi vì hai bên sử dụng hai ngôn ngữ khác nhau, hai mặt bằng
với phương cách tư duy khác nhau.
Khi
thần trí đi vào con đường điển quang thì thần trí cần có và lập tức sử dụng một
ngôn ngữ thị hiện khác biệt. Và thế thì khi ai đó sử dụng ngôn ngữ của giới ba
chiều để áp đặt đuổi đánh lối “dịch thuật”, “nghiên cứu”, “bàn luận” và “làm
thơ” của Bùi Giáng thì nghĩa là họ giẫm đạp lên cái xác ve còn sót lại trên
cành lá nội cỏ âm u rù rì rơi rớt. Trong khi thiên hạ bám riết vào các sự thể của
giới ba chiều thì đối với Bùi Giáng những chuyện ấy rẻ rúng nực cười biết là
bao. Có điều gì đáng nói đâu, cứ rong rêu phiêu dật trên sự cứng đọng ba chiều.
Khép hai con mắt để mở ra con mắt thứ ba. Nhìn và nghĩ tưởng bằng ngôn ngữ bốn
chiều. Nghĩa là ngôn thị.
“Ngày
mở mắt dòng xuân xanh đổ lại
Mùa
trổ bông là chi chít chim kêu
Vườn
vẫn đợi tin hoa về tuổi dại
Bóng
nguyệt trùm là phủ rộng sân rêu”
(Khép mắt – Mưa nguồn)
(Bùi
Giáng, 1973, tr.70).
Ngôn
ngữ của chúng ta chỉ có thể huyễn hoặc gán định hiện thể. Đó là cái lưới rách
nát chộp bắt hiện thể. Nói khác đi, ngôn ngữ đã phanh thây hiện thể để thực hiện
cho mục đích cầm tù hiện thể trong tù ngục lý trí yếu nhược phải lê lết trên
hai trục Không – Thời gian. Nhưng hiện thể bốn chiều cần có ngôn thị. Chỉ có sự
phụng hiến của ngôn thị mới đẩy thần trí tìm về hiện thể bốn chiều và siêu cấp
chiều kích khác nữa. Ngôn ngữ chộp bắt đối tượng. Ngôn thị mở phơi đối tượng,
nó tạo ra một đường dẫn kết liên giữa rơi rớt tinh thần với hiện thể khai triển
muôn vàn; nghĩa là khai mở cái trạng huống, cách thể dịch chuyển biến đổi không
ngừng của thực hữu, ghi lại được cái đà sống bất tận, những mãi luôn vĩnh hằng
của thực hữu. Ngôn thị nằm trong cái chiều hướng khai triển đó của hiện thể. Từ
cái rũ bỏ, cười cợt, rong chơi, Bùi Giáng ít nhiều lập thành lối ngôn thị của
chính ông. Bằng ngôn thị (Mặc Lâm, 2008), Bùi Giáng là kẻ của ngàn đời, là bạn
của khoảnh khắc, là người của muôn năm, là hết thảy thượng thiên thệ thủy Đông
Tây ba ngàn cõi trời thơm bát ngát.
“Thiên
thu mở gió hai hàng
Mở
trang mỏng mảnh con đàng thiên di
Bước
chân chớ vội vã gì
Xuân
là trì ngự trên kì mộng rơi”
(Liễu Desmemone – Lá hoa cồn) (Bùi
Giáng, 1973, tr.266)
“Thưa
em rượu uống bây giờ
Là
thiên thu lại còn trơ hận trường
Cầm
chung dâu biển khôn lường
Chân
trời mộng lý con đường chia ba
Nam
đình doanh trại dàn qua
Trống
chầu trùng ngộ thưa là không mong
Hoạt
tồn phát tiết sầu đong
Tràng
giang thế kỷ xô dòng xuống lên”
(Phạm Thái thưa em rượu uống – Lá hoa cồn) (Bùi
Giáng, 1973, tr.269).
Nhưng
Bùi Giáng không “nghiên cứu” để tạo ngôn thị. Ông sống như là ngôn thị. Sống
như là “ngôn thị” nghĩa là sống như chưa từng. Nghĩa là sống trong tất cả ý hướng
căn cơ của nó. Sống như những ánh sáng nguyên thủy và rực rỡ; vượt lên trên những
chất chồng hạn định. “Nếu mặt phẳng di dịch trong không gian và rời ra khỏi sự
chồng chất các dịch chuyển [của hằng hà đường thẳng thì nó đã dự trình cho 1
hình khối], thành ra hình khối cũng là sự chuyển dịch vượt ra ngoài chiều hướng
của mặt phẳng. Nếu nó không dịch chuyển khác đi thì mãi hoài nó chỉ là mặt phẳng.
Thế thì để vượt thoát khỏi sự chồng chất kết tạc như là “hình khối” hay 1 dáng
hình thuộc về cõi ba chiều, thì nó [hình khối ấy] phải rũ cốt lột xác (set off
from itself), chuyển dịch theo cái chiều hướng mà tự thân nó không có [và hoàn toàn xa lạ]” (Ouspensky, 1922,
p.35). Nghĩa là dịch chuyển như thể không còn là nó nữa. Nói khác đi, sự dịch
chuyển như vậy đã phá vỡ ranh giới giữa Nó và Phi-Nó (không còn đâu là Giáng mà
cũng chẳng còn đâu là Phi Giáng). Sẽ là Nó nhưng cũng là Phi-Nó (đâu cũng là
Giáng và đâu cũng là Phi Giáng). Bởi không còn nó và Phi-Nó nữa. Điều này có thể
nói thêm là, nếu tôi dịch chuyển theo
một phương cách mà tự thân sự tồn hữu của tôi
chưa bao giờ dịch chuyển như thế, tôi vượt ra ngoài cách dịch chuyển vốn có.
Tôi bước vào giai đoạn Phi-Tôi đến mức không còn biết đâu là Tôi, đâu là
Phi-Tôi. Và sự dịch chuyển theo kiểu như thế là một bước nhảy vọt, chuyển từ sự
tồn tại không gian ba chiều sang không gian bốn chiều. Người đời vẫn hay gọi sự
dịch chuyển đó là cái chết. Chết là sự dịch chuyển theo một chiều hướng mà cõi
người hoàn toàn xa lạ. Khi đó, tôi đi vào và trở thành Phi-Tôi. Chết là cửa mở
đến tồn hữu bốn chiều và thậm chí đa chiều. Bùi Giáng có thực sự chết vào năm
1998. Bởi rất có thể trước đó từ 1969, khi cơn điên rực rỡ thì hiện hữu ba chiều
của ông đã tới hạn. Bấy giờ, Bùi Giáng có thể là …Bùi Giàng Giáng, Bàn Giùi
Giúi hoặc là Trung niên thi sĩ, gã mục đồng trên thảm cỏ Việt Nam, hay cuồng sĩ
thời đại đang tu luyện “đười ươi chân kinh”,….
Hỏi
tên: Rằng biển xanh dâu
Hỏi
quê: Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi
tên là một hai ba
Đếm
là diệu tưởng, đo là nghi tâm
(Tặng Mã Giám Sinh)
Vậy
thì diệu tưởng, nghi tâm có thể mở phơi trí huệ được chăng ? Từ chỗ rã riêng, mờ
nhòa phiên biệt Tôi với Phi Tôi, việc đó có thể khai thị trí huệ được chăng ? “Nếu
mỗi hiện thể ba chiều là một lát cắt của hiện thể bốn chiều thì mỗi điểm của hiện
thể ba chiều là một lát cắt của đường thẳng bốn chiều. Ta có thể xem “nguyên tử”
của một hiện thể vật lý, không phải như một cái gì mang tính chất liệu, mà là
như giao điểm của đường thẳng bốn chiều với mặt phẳng ý thức” (Ouspensky,
1922, pp.36-37),. Nếu như vậy thì ý thức của ta chính là bằng chứng của sự tồn
tại bốn chiều. Ý thức chính là chỗ giao nhau giữa không gian ba chiều và không
gian bốn chiều ở cấp độ nguyên tử và hạ nguyên tử. Phải chăng do thế mà máy móc
cơ học và các thiết bị tinh vi vẫn chưa giải mã được hoạt động và sự khởi sinh
của ý thức, chưa tìm được bản chất của ý thức. Bởi ý thức đâu có thuộc về cõi
người ba chiều này. Nhưng ý thức cũng không hẳn là tồn tại bốn chiều và đa chiều.
Như đã nói, ý thức là chỗ giao nhau giữa tồn hữu ba chiều và tồn hữu bốn chiều.
Các thiết bị của giới ba chiều không thể nắm bắt được hết ý thức. Ngược lại ý
thức là sự trụy đọa của giới bốn chiều. Còn ý thức, thì con người không thể vượt
thoát đi vào cõi bốn chiều và đa chiều. Nhưng chỉ với ý thức, con người mới có
thể đi vào giới đa chiều. Ý thức là con đường bất đắc dĩ mà nhân loại phải đi
qua nếu muốn thoát lên phương trời siêu cấp. Cho nên thơ của Bùi Giáng dường
như cũng là sự vạn bất đắc dĩ phải nói ra, buột rơi khỏi cửa thành xiêu vẹo của
ý thức. Nói ra theo thể điệu của một kẻ câm nín.
4.
Kết
luận
Đặt ra vấn đề về siêu cấp chiều kích
để từ đó phóng chiếu vào địa hạt thơ để ít nhiều mở ra những đặc thù thể loại
cũng như một thể cách đi vào địa hạt thơ trong bài viết này, chúng tôi e rằng có
nhiều người sẽ cho rằng còn quá vội vàng và sơ sài. Nhưng thiết nghĩ, việc đặt
để có lẽ sẽ đánh động ít nhiều quan tâm và từ đó có thể khơi dậy một vài trao đổi
hữu ích.
Bên cạnh đó, bài viết còn hướng đến
việc nắm bắt chiều kích thứ tư trong thơ Bùi Giáng quan tập Mưa nguồn và Lá hoa cồn. Tuy nhiên, vấn
đề không chỉ dừng lại ở chiều kích thứ tư vì vật lí học đương đại đã có nhiều
giả thuyết về tồn hữu 7 chiều thậm chị n-chiều. Cũng như Ouspensky trong công
trình Tertium Organum cũng không tự giới hạn trong giả thuyết về chiều thứ tư.
Hơn hết, chiều kích thứ tư chỉ là bước đầu cho việc đi từ tồn hữu ba chiều đến
đa chiều mà thôi.
Đối với thơ ca, cụ thể là thơ Bùi
Giáng, chúng tôi dựa trên một số biểu hiện của việc nắm bắt siêu cấp chiều kích
để phóng chiếu vào thơ ông. Qua đó có thể thấy đó vẫn là một bóng hình thơ đầy
bí ẩn. Gọi là bóng hình vì chúng ta đâu có giữ được ông, vì có lẽ ông đã là kẻ
của “phương trời tại ngoại”. Chính điều này có thể nhắc nhở chúng ta về việc tiếp
cận và đi vào cõi thơ của ông, rằng chúng ta phải có cùng mặt bằng tư duy và
phương tiện phù hợp mới có thể nói đến việc tìm hiểu thơ ca Bùi Giáng. Nhược bằng,
chúng ta có thể dễ sa vào chủ quan thiển cận.
Hơn hết, Bùi Giáng vẫn là tiếng thơ
xưa nay hiếm có. Phong cách thơ của ông có thể nói là dấu ấn nổi bật của văn học
Quảng Nam trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại.
Tài
liệu tham khảo
1.
Bùi
Giáng (1973). Mưa nguồn và Lá hoa cồn
(Có thêm phần Mưa nguồn hòa âm). Saigon: An Tiêm xuất bản.
2.
Hiunter
Kh. (2008). Поэтика//Словарь актуальных
терминов и понятий.- Изд. Кулагиной, Intrada, Cтр. 154. (Lã Nguyên dịch), Truy
xuất từ https://phebinhvanhoc.com.vn/la-hoa/).
3.
Mặc
Lâm (2008). Thi sĩ Bùi Giáng – nhà thơ kỳ lạ. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật – RFA. truy xuất từ:
https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/LiteratureAndArts/Bui-giang-a-mysteriuos-poet-mlam-10182008123006.html
4.
Meyer
F. (1999). Để hiểu Bergson (Nguyễn Nguyên
dịch từ Pháp ngữ). Hà Nội: Nxb ĐHQG Hà Nội.
5.
Ouspensky
P. D. (1922). Tertium organum (The third canon of Thought – A Key to the
enigmas of the world), trans. from the Russian by Nicholas Bessaraboff and
Claude Bragdon with an Introduction by Claude Bragdon. USA: Vail-Ballou Co.
6.
Stumpf
S. E. (2004), Lịch sử triết học và các luận
đề (Người dịch Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Hiệu đính Nguyễn Việt Long). Hà
Nội: Nxb. Lao động.
7.
Lê
Trung Trực (1993). Điển quang biện chứng
pháp 1 – Không gian bốn chiều trong ngôn ngữ Thiền Việt. USA: Sebastian and
Company.
[1]
Chân không: không gian siêu cấp chân thực. Thế giới như ta biết và nghĩ tưởng
được chỉ là một bộ phận, một phần nhỏ dở dang của chân không. Chân không hay
không gian chân thực hoàn bị và thực hữu là cõi trời bát ngát xa trông, mênh
mông, bao la, vĩnh hằng, bất biến, lắng tịnh và rùng rùng dịch chuyển tự nội ,
luân chuyển hư – hữu miên viễn vô hạn định.
[2]
Trong ngôn ngữ Thiền Việt Nam, dòng điện phát ra do công phu thiền định, là loại
điện năng (energy) thanh nhẹ, tần số cao, gọi là “ĐIỂN”. Khi thiền định đến độ
có “điển” chạy trong cơ thể, hành giả có thể phát triển được nhiều khả năng
trong con người, về cả hai phương diện vật thể (being) lẫn siêu vật thể
(meta-being). Ở mức độ thiền thức cao hơn nữa, hành giả sẽ nhìn thấy ánh sáng.
Đó là “Quang”. Ánh sáng này là mức độ siêu diệu của thiền thức, mà siêu khoa học
Tây phương đã hiểu biết tầm quan trọng và đang đổ xô tìm về Đông phương để tìm
phương cách đạt được thứ ánh sáng đó”.
[3]
Nhưng điều đó lại bao hàm khả năng tái thiết trong tinh thần của việc tiếp nhận.
Câu thơ/dòng thơ của Bùi Giáng không thể bị phân tách nhưng chính các khoảng
cách mơ hồ giữa các âm-ý-niệm-tưởng phát ra mỗi mỗi hằng hằng trong dòng thơ đã
tự nó là trạng thái hỗn mang mà ý thức khi bắt gặp phải tái thiết. Thế nên thơ
Bùi Giáng như kim cương nguyên khối, là cái đà sống không thể đứt gãy nhưng tự
thân nó là một thể cách động (bởi nó khởi đi là một động hướng mang động lượng
nhất định) nên cứ rùng rịch chuyển động tự thân. Chúng ta chỉ có thể xét thấy
điều này khi đặt thơ Bùi Giáng trong dòng chảy liên tục từ sinh giới – người
thơ – thơ – đến người thơ (tiếp nhận) đến sinh giới bội phân.
Comments
Post a Comment