MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ DÃ NHÂN HÓA/KHỬ NHÂN TÍNH HÓA TRONG XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
(Võ Quốc Việt)
Khai dẫn
Nhân tính liệu có phải khế ước hay
nhãn hiệu? Những “cậu bé rừng xanh” khiến bạn nghĩ: “Nhân chi sơ tính bản
thiện” hay nhân tính thuộc về một trong số phát minh của nhân loại?
Bạn thử nghĩ về mối quan hệ và tính
quá trình của ba khái niệm: nhân tính hóa (humanization), dã nhân hóa/ khử nhân
tính hóa (dehumanization)[1],
tái nhân tính hóa (rehumanization). Quá trình sản tạo nhân tính liệu có nghĩa lý
gì?
Sản tạo nhân tính-khử nhân tính-tái
nhân tính hóa: quá trình này liệu có phải vòng lặp vô tận của diễn biến nhân
tính song hành quá trình vận động xã hội người. Nếu không vượt thoát vòng lặp này,
văn minh người có thể đi đến chỗ triệt thoái, dần dà tự tiêu biến hoặc không tiến
hóa mà chỉ phì đại đơn thuần. Phì đại văn minh vẫn được nhắc tới bằng khái niệm
kỷ nguyên toàn cầu. Nguy hại của việc che đậy bản chất phì đại kỷ nguyên toàn cầu
đã bộc lộ từ khi Covid-19 nổ ra ở Wuhan (China). Đại dịch toàn cầu cảnh tỉnh nhân
loại nhiều vấn đề, trong đó có thực trạng dã nhân hóa và tái nhân tính hóa hay đúng
hơn phải hướng đến tiến hóa nhân tính (evolution of humanity/humanness).
Liệu tình trạng dã nhân hóa hiện nay có
phải biểu hiện “hạ ngươn” được nói đến trong nhiều mạt thế luận tôn giáo?
Tại sao có thể đặt vấn đề dã nhân
hóa?
Chiến tranh, giết chóc, cưỡng bức,
thóa mạ, chà đạp, đàn áp,… vẫn diễn ra hằng ngày trên khắp đại địa. Nhân loại vẫn
không ngừng đau khổ (dầu những chỉ số phát triển xã hội có khả quan đến mức nào!).
Dã nhân hóa hầu như trở thành biểu hiện chủ yếu của xã hội người trong suốt quá
trình lịch sử tồn tại trên cõi thế (hiểu lịch sử theo quan niệm Hegel về chính
thể và sử tính). Vấn đề dã nhân hóa có thể được định vị cách thế khác nhau
trong những hệ tư tưởng khác nhau tùy theo thời đại, khu vực địa lý, tôn giáo,
văn hóa, … Một số vấn đề dã nhân hóa có thể được tìm thấy trong phạm vi “mạt thế
luận” của nhiều tôn giáo khác nhau. Nói vậy, để minh định ngay từ đầu, dã nhân
hóa không phải vấn đề mới mẻ và xa lạ. Vậy tại sao một vấn đề hầu như đã cũ kỹ
và mặc nhiên hiện diện trong tư tưởng lẫn đời sống xã hội suốt lịch sử nhân loại
lại tiếp tục được mang ra mổ xẻ trong đời sống chữ nghĩa đầu thiên niên kỷ thứ
III sau Thiên Chúa?
Thứ nhứt, vấn đề cũ cho đến nay vẫn tiếp
diễn, cũng có nghĩa vấn đề ấy nhân loại chưa giải quyết triệt để, thậm chí vẫn
tiếp tục nảy sinh biến tướng phức tạp hơn. Vấn đề mặc nhiên không có nghĩa vấn
đề vô nghĩa, chẳng đáng quan tâm. Hơn thế, vấn đề hầu như mặc nhiên ấy cần được
mang ra quyết luận, ngõ hòng giải quyết (chí ít thúc đẩy sự giải quyết). May
ra, đời sống con người có cơ hội tiến phát trên đường tồn tại.
Thứ hai, đây là vấn đề cơ yếu của tồn
tại người trên cõi thế. Nghĩa là vấn đề đáng quan tâm chứ không phải ý niệm trừu
tượng, sản tạo bởi tư biện thuần túy của “nhóm người” mạo xưng tinh hoa.
Nguyên nhân thứ ba khiến dã nhân hóa đáng
vấn đề được mọi người nghiêm túc nhìn nhận, suy ngẫm: thực trạng này ngày càng
phổ biến với mức độ độc hại ngày càng tăng. Vấn nạn dã nhân hóa trải rộng toàn
cầu, không phải vấn đề thuộc về riêng khu vực, quốc gia, giai tầng, hình thái
chính thể, mô hình kinh tế, tô chức liên hiệp đa quốc gia nào, … Dã nhân hóa biểu
hiện trong chính góc khuất u uẩn của đời sống cá nhân cho tới từng cấp độ xã hội
người. Không lý nào, con người lại có thể làm ngơ trước thực trạng dã nhân hóa
hiện nay! Thờ ơ, chối bỏ, phủ nhận, hoặc che đậy thực trạng này, cũng chính là
tiếp tay khiến cho dã nhân hóa ngày càng lây lan, trở thành đại dịch toàn cầu
đe dọa nhân tính.
Đe dọa, cưỡng đoạt, cướp bóc, hãm hiếp,
tra tấn cho tới nghèo đói, bệnh tật, vô gia cư, tị nạn, phân biệt chủng tộc, kỳ
thị giới tính, bạo hành gia đình-nhà trường-xã hội, … những biểu hiện gần gũi dễ
thấy của thực trạng dã nhân hóa, vẫn hiện diện “sát nách” trong cuộc sống mỗi
người. Thế nhưng loài người vẫn ngó nhìn nỗi khổ niềm đau của đồng loại thể như
mục rao vặt xuất hiện trên các trang thông tin, đem ra phiếm gẫu cà phê gặp gỡ,
hoặc chỉ dừng lại đôi câu cảm thán! Nhận thức và hành vi đó cũng từng ngày “dã nhân
hóa” tự thân, từng ngày tự tước đoạt/trừ khử/tiêu pha tính người trong hiện hữu
chính mình!
Có thể hiểu dã nhân hóa như thế nào?
Nói ngay, dã nhân hóa: một vấn đề thuộc
phạm vi nhân tính luận. Từ thuở sơ khai, nhân loại vẫn không ngừng vật lộn với
hỗn mang, kiến thiết nhân tính cho sự tồn tại người. Nhân loại không hiện diện
kiểu bầy đàn mà phát minh ra khái niệm xã hội. Và khi không thể kiến thiết được
nền nhân tính, nhân loại không có quyền lẫn tư cách bàn đến hiện hữu trên cõi
thế. Trong quá trình đó, nhiều khái niệm nhân tính được sản tạo/phát minh hoặc
được thừa nhận và tồn tại như khế ước. Nhưng khế ước nhân tính lỏng lẻo không
thể kiềm tỏa “dã tính” trong nhân tâm. Rất nhiều người đã đến và rời bỏ cuộc thế,
chỉ để mở đường tư tưởng cho cuộc tiến hóa nhân tính; nhưng bao nhiêu nỗ lực ấy
dường như muối bỏ bể. Bằng tham lam, bịa tạc, ích kỷ, độc ác, … người càng ngày
càng tinh vi trong cuộc dã nhân hóa. Dã nhân hóa về phía đồng loại đồng thời tự
dã nhân hóa, dần biến mình và đồng loại trở thành cầm thú trong nền văn minh ngụy
tưởng. Cơ hồ, nhân tính chỉ hiện diện cách tạm bợ, phút chốc chớp lòe giữa hành
trình đời sống, chứ không phải biểu hiện đặc hữu của tồn tại người.
Cụ thể, dã nhân hóa có thể xem như thực
trạng/quá trình đối tượng này khởi phát thái độ-hành vi nhìn nhận và đối xử dưới
mức con người/không phải con người đối với đối tượng khác trong nhiều bối cảnh,
mức độ khác nhau[2].
Đó là hành vi đối tượng này trừ khử/loại trừ/triệt hạ đối tượng khác ra khỏi phạm
vi “nhân tính bình đẳng”. Việc này kéo theo quy chuẩn nhân đạo cũng thay đổi.
Và người ta có quyền (hoặc tự cho mình quyền) đối xử với kẻ khác thua con người/chưa
phải con người, đối xử với kẻ khác như là vật. Dã nhân hóa: quá trình từ “tác ý” đến “tác
hành”, manh mún từ suy tư đến nhìn nhận người khác dưới mức (hoặc không có) lượng
tính người, dẫn đến thái độ biểu hiện và hành vi tác động đến tha thể như là dã
nhân/phi nhân. Tác ý hình thành dã nhân hóa có nhiều nguyên nhân khác nhau (từ
nguồn cơn chủ động hoặc bị động, từ nguyên nhân ở mức độ cá thể đến mức động cộng
đồng). Dã nhân hóa muôn hình vạn trạng trong mọi ngóc ngách, mức độ, phạm vi đời
sống: sỉ nhục, bóc lột, giết hại, tra tấn, săn đuổi, nô lệ, phục dịch, cưỡng hiếp,
cung bức, kỳ thị, … cho tới diệt chủng, thảm sát quy mô, thủ tiêu văn hóa, đàn
áp tôn giáo, độc tài chính trị, diệt chủng sinh thái, …
Nói thêm, Dã nhân hóa
(Dehumanization) và Hậu nhân luận (Posthumanism): mối can hệ ra sao? Hậu nhân
luận-hậu hiện đại chủ nghĩa thể như phản ứng với nhân bản luận-hiện đại chủ
nghĩa. Kỳ cùng, bản chất hậu nhân luận vẫn thù thuộc vấn đề nhân bản- cách thế
luận thuyết nhân bản. Tiền-hiện-hậu dường chăng chỉ là những tiền tố mang bản
chất thời tính và do đó mang tính võ đoán. Phải chăng lập định luận thuyết nên
khởi đi từ thể tính chứ không phải thời tính. Và bạn có thể nhận ra: hậu nhân
luận có lẽ chính là những luận thuyết lập thành trên bản diện quá trình vận động:
nhân tính hóa-dã nhân hóa-tái nhân tính hóa.
Lịch trình nghiên cứu thực trạng Dã
nhân hóa?
Đề khởi quan niệm (khoảng trước Đệ nhị
Thế chiến)
Trong phạm vi xã hội Tây phương, quan
niệm này xuất hiện từ đầu thế kỷ XIX. Cụ thể trong thư tịch di cảo (1818, ấn
hành 1853)[3], “Memoirs, Journal, and
Correspondence of Thomas Moore (Vol II)”, Thomas Moore (1779-1852) băn
khoăn về căn cơ nhân tính dựa trên việc nhìn nhận tình trạng đối xử vô luân giữa
người với người, nhìn thấy nhiều góc khuất u tối trong bản chất người. Đó là những đề khởi của thực trạng dã nhân
hóa, để khái niệm này được kiện toàn về sau. Trong “A narrative of a visit to the
Mauritius and South Africa” (1844), James Backhouse (1794–1869) cũng nói tới
những điều mắt thấy tai nghe về giới hạn mong manh của xã hội người bị chà đạp
và thực trạng dâm loạn tràn lan khắp mọi ngóc ngách đời sống trong chuyến tham
thú[4].
Tuy nhiên, biểu hiện quá trình dã
nhân hóa thực chất song hành suốt lịch sử tồn tại người. Sản tạo nhân tính và
khử nhân tính hầu như đồng thời suốt lịch sử hình thành phát triển của xã hội. Theo
Stuurman, khái niệm này khởi đi từ thái độ và cách đối xử với nô lệ thời cổ đại
và từ đó vấn đề này nằm ở ranh giới dao động giữa humanity (nhân tính/nhân hữu)
và humanness (nhân hiện)[5].
Giới hạn này dao động không ngừng bởi tác động của nhiều yếu tố khác nhau trong
suốt chiều dài lịch sử.
Các vấn đề xoay quanh humanity và
humanness cũng được Heidegger bàn đến trong “Thư về nhân bản chủ nghĩa”.
Theo ông, nhân tính trong nhân tính luận đích thực có thể được xem như đã ra đời
từ thời Cộng hòa La Mã. Đó là sự kết hợp giữa La Mã tính (Romanitas) và “chủ
nghĩa Hy Lạp hậu kỳ”. “Chính vào thời Cộng Hòa La Mã mà lần đầu tiên,
humanitas (nhân tính) mới được khảo sát và theo đuổi một cách rõ rệt dưới tên
đó. Homo humanus đối nghịch với homo barbarous”[6].
Thời kỳ đó homo humanus (kẻ nuôi dưỡng và trau dồi đức hạnh) đối nghịch homo
barbarus. Theo quan niệm Hy Lạp hậu thời, homo humanus được hình thành trong hoạt
động giáo dục (paideia). Tiếp thu, người La Mã xây dựng La Mã tính (Romanitas)
= Humanitas. Thế nên, Phi La Mã tính = Phi Nhân tính (dã man). Cụ thể:
(*) Hy Lạp hậu thời: Humanitas-Paideia >< không đức hạnh, thiếu giáo
dục à bản chất nhân tính luận cũng có tính
chất “-centrism”;
(*) Cộng hòa La Mã: Humanitas=Romanitas
>< phi La Mã tính à bản chất nhân tính luận cũng có tính chất “-centrism”;
(*) Thời Phục Hưng:
Humanitas=reneascentia romanitatis hay homo romanus >< homo barbarus à bản chất nhân tính luận cũng có tính
chất “-centrism”;
Rõ ràng giới hạn dao động của việc “sản
tạo nhân tính” quả thực chỉ là phạm trù lịch sử tạm bợ/thời tính thuần túy. Bởi,
“dẫu những biến thái của chủ nghĩa nhân bản vừa nói có khác biệt đến đâu về
mục tiêu và nền tảng, thể thái và những phương tiện thực hiện, hoặc hình thức của
học thuyết, thì tất cả chúng cũng đều cùng đồng ý về điểm nầy là: humanitas
(nhân tính) của homo humanus (nhân tính nhân) được quy định khởi từ một lối giải
thích đã cố định về nhiên tính hay bản tính, về lịch sử, về thế giới, về nền tảng
của thế giới (Weltgrund), nghĩa là về vật hiện thể trong toàn thể”[7].
Nghĩa rằng lối giải thích thụ động dựa trên hệ quy chiếu (mà hệ quy chiếu này
chỉ là những phạm trù lịch sử tạm bợ). Nhưng sự dao động/di dịch/phiên biệt
trong quan niệm “như thế nào nhân tính” và “như thế nào phi nhân tính” chỉ cho bạn
thấy xu hướng/tính chất “trung tâm luận”. Tức luôn phiến diện, thiên lệch; hay
chỉ là nhân bản luận nửa vời, ngụy tạo thể như sự thông đồng/cam kết/khế ước của
các cá thể hữu quyền trong cộng đồng, chứ không phải nhân tính luận đích thực.
Rõ ràng, lịch sử nhân tính luận Tây phương, suy cho cùng, cũng chỉ là nhãn hiệu
nhân tính luận. Nhãn hiệu này che đậy bản chất Dã nhân hóa/khử nhân tính hóa từ
trong máu tủy. Chẳng hạn lập trường “Âu tâm luận/Tây phương trung tâm luận”
trong nghiên cứu Nhân học thế kỷ XIX. Sang đầu thế kỷ XX, trường phái đặc thù lịch
sử với thuyết tương đối văn hóa (Cultural relativism[8])
của Franz Boas có thể xem như sự phản ứng lập trường thiên lệch của thuyết tiến
hóa văn hóa và thuyết truyền bá văn hóa. Nói khác, thuyết tương đối văn hóa phản
ứng lại lập trường nghiên cứu “trung tâm luận”, đi tới nghiên cứu đặc thù, hóa
giải thành kiến kỳ thị (bộc lộ ở cách nhìn nhận cấp độ tiến hóa và thái độ độc
đoán lấy Tây phương làm hệ quy chiếu đánh giá). Ở Đông Phương, Hán trung tâm luận / Sinocentrism/ 以華為中 / 中國中心主義 (hay đột biến của
nó 習近平新時代中國特色社會主義思想) đã tồn tại hàng ngàn năm. Tất cả đều
biểu hiện “ác tính” mạo danh nhân tính để biến tướng ra nhiều hình thù khác
nhau.
Định hình khái niệm (khoảng từ sau Đệ
nhị Thế chiến)
Từ đầu thế kỷ XX, cho đến khoảng thời
gian giữa hai cuộc thế chiến, đặc biệt với họa thảm sát, nạn diệt chủng hồi Đệ
nhị Thế chiến, con người đã nghiêm túc quan tâm đến bản diện hung ác của nhân
tâm và do đó vấn đề dã nhân hóa có thể nói càng khởi dậy và nóng bỏng hơn trên
các trang luận thuyết của giới học giả khắp nơi. Nghiên cứu dã nhân hóa là sự
kháng cự/phản ứng lại thực trạng phi nhân của cuộc thế chiến. Ví dụ:
- Sự độc hại của chủ
nghĩa toàn trị trong “The Origins of Totalitarianism”[9]
(1951) mà Hannah Arendt
gọi là gánh nặng thời đại;
- Sự thường tình ác niệm
trong “Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil”[10]
(1963) cùng với kết quả thí nghiệm Milgram và thí nghiệm
Stanford cho thấy ác niệm trong tâm thức người: vốn có và được kích hoạt hoặc
sản tạo dưới sức ép của các thiết chế/quy phạm/trật tự xã hội;
- Những truy vấn về
phía đức lý trong “The Life of the Mind: Thinking” (Vol. 1, 1971)[11]
có thể xem như cuộc “thám quật” vào căn nguyên ác niệm;
Đáng chú ý, từ việc phân tích tội ác
chiến tranh của Đức quốc xã, Arendt chỉ ra ba bước khử nhân tính: tước đoạt quyền
có quyền, tước đoạt tư cách luân lý, tước đoạt nhân vị.
Ngoài ra, Heinämaa và Jardine cũng
xem: “Etre Et Le Neant: Essai D’Ontologie Phenomenologique (Sartre, 1937); Le
deuxième sexe I&II (Beauvoir, 1949); Peau noire, masques blancs (Fanon,
1952); … là những công trình tương giao với quan niệm dã nhân hóa/khử nhân tính
hóa[12].
Mở rộng nghiên cứu (khoảng ba thập
niên cuối thế kỷ XX)
Từ sau WWII, nhất là trong thời kỳ
Cold War, dã nhân hóa mở rộng biên giới khảo luận. Chiến tranh Việt Nam cũng khiến
cho giới học giả đề vấn về khả năng biến tướng của nhân tính cũng như mối âu lo
về bùng phát chiến tranh hạt nhân và đại dịch toàn cầu. Giai đoạn sau đó, dã
nhân hóa không chỉ được bàn đến trong hoàn cảnh chiến tranh và thế cuộc chính
trị, mà đã mở rộng đến nhiều lĩnh vực nghiên cứu nhân văn (bản chất tội ác, độc
tài luân lý, …). Chẳng hạn nghiên cứu dã nhân hóa trong tâm lý học xã hội
(social psychology)[13].
Đáng chú ý, có vấn đề “mô thức nhân tính mang tính cơ học và thú tính”
(the mechanistic-animalistic humanness model)[14].
Nếu như giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, dã nhân hóa được mô tả như là các biểu hiện
trong xã hội người. Từ việc này, dã nhân hóa được nhận thức và định danh. Đến nửa
sau thế kỷ XX, có một khuynh hướng đưa dã nhân hóa vào địa hạt tâm lý. Đây là nỗ
lực lý giải căn nguyên thực trạng dã nhân hóa trong địa hạt tinh thần. Qua đó,
tâm lý học có thể khảo cứu Dã nhân hóa và kiến giải hiện tượng này ở tầng sâu.
Đặc biệt tội ác của Đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, khiến con người ngày
càng nghiêm túc suy nghĩ về dã nhân hóa. Quá trình này là sự phản ứng lại nguy
cơ chiến hạt nhân và những nguy cơ đời sống khác nói chung[15].
Dã nhân hóa dần được xem như cùng bản chất với bạo lực. Những thập niên sau chiến
tranh Việt Nam, dã nhân hóa được xem như một phần trong việc nghiên cứu về tội
ác, kỳ thị nhóm/giới/giai cấp, diệt chủng[16],
… Dã nhân hóa liên quan đến biểu hiện độc đoán luân lý[17].
Nhìn chung, dã nhân hóa ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Nhất là ở lĩnh vực
tâm lý học xã hội cho tới biểu hiện phổ biến trong tồn tại người thời kỳ đương
đại.
Dã nhân hóa-tái nhân tính hóa trong hậu nhân luận (từ đầu thiên
niên kỷ thứ III)
Giá trị người hay giới hạn giữa nhân
hiện và nhân hữu đẩy tới mức phổ quát trên phạm vi toàn cầu trong bối cảnh toàn
cầu hóa, khởi đi từ mối tương liên chồng chéo, đa chiều, phức tạp trong đời sống
con người hiện nay. Tác động một chiều cũng như ảnh hưởng qua lại giữa các yếu
tố nội tại cá thể cho tới ngoại hiện xã hội, khiến cho ranh giới giữa nhân hữu
và nhân hiện không ngừng dao động và được xét lại (đặc biệt cuộc chạy đua vũ
trang đương đại do các tranh chấp lãnh thổ gây ra, chiến tranh thương mại đa
phương, đại dịch toàn cầu Covid-19, …). Nhân hiện biến động dẫn tới định chuẩn
nhân hữu cũng biến đổi. Trên thực tế, cuộc biến động này đồng thời gồm ẩn hai quá
trình: quá trình phổ quát hoá và khu biệt hóa nhân hữu. Xem xét theo hướng phổ
quát hay khu biệt nhân hiện để lập định nhân hữu, từ đó phân tích các biểu hiện
dã nhân hóa/khử nhân tính hóa, truy tìm nguyên nhân của nó, luận giải để đề xuất
hóa giải quá trình này[18].
Phải chăng, điều này phản ánh con người ngày càng nghiêm túc hơn trong việc rà
soát, tổng biện vấn đề nhân tính. Chí ít việc này cần thiết cho việc thúc đẩy
tiến hóa cái gọi là “sản tạo nhân tính” (invention of humanity).
Nhìn chung, đến đầu những năm 2000,
nghiên cứu dã nhân hóa ngày càng đi vào hướng đa ngành[19].
Cùng với nghiên cứu đa ngành dựa trên nền tảng tâm lý học xã hội, dã nhân hóa
được khảo sát chi tiết hơn cả về định tính lẫn định lượng[20].
Một số vấn đề đáng chú ý: đe dọa an ninh, bảo mật cá nhân, vấn đề người tỵ nạn,
tra tấn tù nhân, chiến lược chính trị, bình đẳng giới, v.v.… Quả thực, dã nhân
hóa đồng thời hiện diện ở vi mô lẫn vĩ mô xã hội người!
Nói tới lịch trình nghiên cứu dã nhân
hóa, không có nghĩa, vấn đề này chỉ thuộc về tư niệm “giới tinh hoa” trong học
thuật. Thực tế, nghiên cứu dã nhân hóa dựa trên thực tiễn xã hội và quan niệm/nhận
thức dã nhân hóa đã hiện diện trong tư tưởng người lao động bình dân. Người nhà
quê chẳng đã nói: “thú diện nhân tâm”, và ngược lại …!
Dã nhân hóa: những biểu hiện trong đời
sống xã hội?
Xét trên phương diện xã hội, hành vi
dã nhân hóa đối với kẻ khác có ba hình thức biểu hiện:
a-trừ khử kẻ khác trong
xã hội (exclusion within a society);
b-trừ khử kẻ khác ra
ngoài phạm vi xã hội (exclusion from a society);
c-trừ khử kẻ khác khỏi
đời sống (exclusion from life)[21].
Điều này dẫn tới:
+a: biến người thành
phó người, vị người;
+b: biến người thành
phi người;
+c: biến người từ hữu
thành vô.
Opotow cũng phân chia thành ba biểu
hiện/cấp độ/phạm vi dã nhân hóa:
+ khử nhân trong xã hội
người (hạn chế quyền công dân, quyền lao động,…);
+ khử nhân ra khỏi xã
hội người (trục xuất, giam giữ, …);
+ khử nhân khỏi đời sống
(bao gồm các hình thức giết hại hoặc tác động khác nhau dẫn đến cái chết).
Dưới góc nhìn của Maria Kronfeldner:
“The
contexts, in which avantla-lettre reflections on dehumanization occurred,
certainly varied and did so not only in time but also in topical orientation.
They were part of discussions on diversity, assimilation, exclusion, purity and
danger, education, religious belief, sexuality, misogyny, hatred, wars,
savagery, barbarism, cannibalism, slavery, racism, ethnocentrism, egocentrism,
evolutionary thinking, anatomy, perfectibility and civility, progress, the
exotic, missionary or colonial activities, public events, and so on”[22].
Từ đó, trong các mối quan hệ đa chiều,
bạn có thể liệt kê một số biểu hiện/thực trạng/quá trình dã nhân hóa/khử nhân
tính hóa, chẳng hạn:
·
Giữa
kẻ xâm lược và dân thuộc địa;
·
Giữa
các nước phát triển và các nước đang phát triển;
·
Giữa
các liên hiệp chính thể và mỗi quốc gia;
·
Giữa
các siêu cường, tiểu cường và nhược quốc;
·
Giữa
các giai tầng xã hội;
·
Giữa
chính thể và dân gian;
·
Giữa
bác học/hàn lâm và bình dân;
·
Giữa
đa số và thiểu số (gồm cả vấn đề giới tính), …
Câu chuyện nhiều người bị coi thường
khi bước vào cửa hàng đồ hiệu sang chảnh nào đó, … không có gì lạ! Đáng nói, bạn
nên nghĩ như thế nào về diện mạo hào nhoáng của “văn minh vật chất”. Liệu “nhãn
hiệu” hào nhoáng này sẽ đẩy con người đến chỗ suy thoái nhân tính như thế nào,
bằng cách làm sụp đổ/biến dạng giá trị sống. Trao cho vật chất giá trị, con người
cơ hồ tự khiến mình sụt giảm hoặc bị triệt tiêu giá trị. Quanh đi quẩn lại,
vong thân/vong bản, rất nhiều hiền nhân
xưa nay đã nói và cảnh tỉnh nhân loại. Thế nhưng với sự nông cạn, kiêu căng, ngạo
mạn của tư duy khoa học thực chứng, con người càng sa lầy trong nền văn minh
“thặng dư” và những “đột biến thặng dư” đến mức xã hội người bây giờ là một bãi
đời “không thể lý giải nổi”. Người trong xã hội người đã trở thành chất liệu.
[Thử nghĩ
dưới góc nhìn Phật lý: phiên biệt, nhị nguyên đưa tới vách ngăn/vực thẳm giữa
chủ thể tính. Dã nhân hóa phải chăng vấn nạn căn bản giữa người với người. Nhận
thức sai lầm, vũng lầy khái niệm, … dã nhân hóa buộc người phải trở lại vấn đề
nhận thức đúng đắn tồn hữu toàn diện. “Chánh niệm” chăng!]
Mỗi ngày, bạn bị bao vây bởi tầng tầng
lớp lớp sóng năng lượng tiêu cực bức xạ từ lòng đố kỵ, tham lam, tàn độc, thù hằn,
chia rẽ, ganh ghét, dèm pha, ương chướng, … Nhân loại vẫn hằng mong và kêu gọi
xây dựng đời sống tích cực nhưng bản thân mỗi con người chưa thể (thậm chí lún
càng sâu) vào những tà ý/ác niệm độc hại, biến nhau thành nạn nhân giữa cuộc
sinh hiện. Thực trạng dã nhân hóa, như đã nói, hẳn là một vấn đề cũ kỹ và tiếp
tục đeo bám cuộc sống con người. Liệu nhân loại có thể chung sống “cân bằng” với
tình trạng này? Từ những dự báo về họa tận thế (mà nguyên do bắt nguồn từ hành
vi sống của con người), bạn phải thừa nhận: nhân loại không thể chung sống và
xoa dịu thực trạng dã nhân hóa. Căn bệnh dã nhân hóa đến hồi nguy kịch, không
thể nuôi bệnh cầm chừng, không thể dây dưa câu giờ. Đại dịch toàn cầu Covid-19
(từ China) chỉ là một trong số nhiều biểu hiện cho thấy ác niệm trong thân tâm
nhân loại đã ngày càng khỏa lấp cõi thế. Đó là thực trạng mà Ashley Montagu và
Floyd Matson gọi là “bệnh truyền nhiễm tinh thần”, vốn lẩn lút âm thầm, độc hại,
phổ biến, muôn hình vạn trạng, khó trị dễ lây – Hội chứng dã nhân (the dehuman
syndrome).
“Here is
the authors view of the "one-dimensional human," a creature
physically intact and mentally competent but psychologically disabled. The
authors guide us through this dehumanized creature's environs—the wasteland of
modern culture, crowded with the walking dead, decorated by sullen art, and
continuously disrupted by mindless acts of viciousness and national
administrations of fear”[23].
Nhân loại dần hiện nguyên hình là giống
loài toàn vẹn về thể chất, năng lực tinh thần nhưng tật nguyền về tâm thức. Cõi
thế đầy rẫy phi nhân, tàn ác và sợ hãi. Bạn có nhìn thấy cõi bình địa hoang vu
của nền văn minh thui chột nhân tính?
Thử nghĩ về nguyên do thúc đẩy thực
trạng dã nhân hóa hiện đại?
Đời sống kỹ nghệ, khi sinh hoạt cơ học
thay thế nguyên lý hữu cơ trong đời sống con người tại hiện: điều này dẫn đến,
sinh hoạt cơ học “hấp thụ” và dần tiêu biến sinh hoạt người[24].
“Hữu tại” của người dần trở thành “hữu tại” của kỹ nghệ! Đáng sợ, con người lầm
tưởng đà tiến phát của văn minh đồng nhất đà tiến phát kỹ nghệ! Khái niệm hiện
đại hóa dần ẩn chứa nội hàm mở rộng kỹ nghệ hóa. Dẫn tới: văn minh người trở
thành văn minh kỹ nghệ. Hễ kẻ nào bứt mình ra khỏi guồng máy đó, đều bị khép
vào hạng dã man và lập tức bị khai trừ. Luật tắc của văn minh kỹ nghệ buộc mỗi
cá nhân cho tới mỗi chính thể-tổ chức không thể vượt thoát khỏi khuynh hướng thịnh
thế này. Ví như văn minh nhân loại đã rơi vào chân trời sự kiện của hố đen,
đang dần bị xé toạc và tiêu biến. Phải chăng kỹ nghệ nên hỗ trợ thúc đẩy tiến
hóa, chứ không phải thay thế đời sống nhân tính-tâm linh! Ai cũng hiểu vậy, thế
nhưng không ai vượt thoát khỏi mãnh lực ngoạm nuốt cơ học của nền văn minh kỹ
nghệ hậu công nghiệp hôm nay! Thử hỏi, vì cơn cớ gì?
Nhìn kỹ hơn, chủ thể tính bị bào mòn,
dần trở thành “tha thể” trong tự thân. Người đã trở thành kẻ khác trong chính
cuộc đời mình. Kỹ nghệ và truyền thông cùng những chiến lược định hướng nhận thức
vi mô lẫn vĩ mô, biến cõi thế gian trở thành chốn bình địa hoang tàn không có
bóng người, biến hiện hữu người thành hiện hữu đại diện.
“Cả cảnh vật trần
gian cùng mờ xoá
Trong màn đen huyền
bí. Ta bảo lòng
"Ngày mai đây
muôn loài đều tan rã
Vũ trụ kia rồi biến
ra Hư Không!"”[25]
Thứ nữa, dã nhân hóa bào mòn khả lực
cách mạng nội tại tinh thần người. Đến khi khả lực cách mạng tê liệt (hoặc chìm
vào tâm lý đám đông), dã nhân hóa coi như hoàn toàn chiếm lĩnh chế ngự thân
tâm. Bấy giờ, thân tâm người chẳng khác xác sống (living dead) đi lại vô hồn trên cõi
thế: Malevolent Robot/Cheerful Robot.
“Chưa cần cầm lên nếm,
anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi
vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá
rối
Ðêm vui
Bảo anh không còn có
khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra
khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp
nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi
vào bàn
Như không có gì xảy
ra hết
Và những người khác
thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...”[26]
Thế nhưng, bạn cũng không thể phủ nhận
nhiều nỗ lực hôm nay, hòng đẩy lùi thực trạng dã nhân! Việc truy nguyên dã nhân
hóa không dẫn bạn đến chỗ bi quan tiêu cực, ngược lại khiến bạn nhận thức rõ
hơn bản diện dã nhân trong thân mình. Bấy giờ bằng chính hành động cụ thể-thiết
thực-gần gũi, bạn hoàn toàn có khả năng góp phần đẩy lùi hỗn loạn dã man ra khỏi
đời sống!
Như cây đời bám rễ đại địa, gắn lòng mình
với truyền thống văn hóa dân tộc trong “sinh cảnh” đương đại, hướng đến giá trị
người phổ quát: giữ lấy niềm tin tưởng ấy chí ít trước mắt có thể chế ngự hỗn
mang!
Dã nhân hóa và văn học nghệ thuật?
Bạn còn nhớ hàng loạt phim về tội phạm
giết người rùng rợn như: Psycho (1960), Texas Chainsaw Massacare (1974), Halloween
(1978), Nightmare on Elm Street (1984), The Silence of the Lambs (1991), Scream (1996), American
Psycho (2000), Saw (2007), … hay không? Hay vở kịch Edmond (1982) của David Mamet chẳng hạn, bạn có nhận thấy
điểm chung của tội phạm khởi dựng từ đột biến tâm lý người! Nhân tính chỉ còn vỏ
bọc. Tâm hồn Edmond đầy rẫy phẫn nộ với hư vô trống rỗng tâm linh. Động cơ tội
ác trở thành vấn đề “bất khả luận giải” cũng giống như lời khai của kẻ thủ ác với
cảnh sát. “Tell the cop you don't know why you did it, you don't know that
you did it”. Chỉ đơn giản, kẻ thủ ác cảm thấy thư thái an nhiên khi được
tái sinh và hiện diện thể như quái vật[27].
Điều này khiến bạn nghĩ lại nhận định của Aristotle về khả lực cự phản dã nhân
hóa của văn học nghệ thuật nói chung, đặc biệt thi ca!
“The
function of the poet is not to say what has happened, but to say the kind of
thing that would happen, i.e., what is possible in accordance with probability
or necessity. […] For this reason poetry is more philosophical and more serious
than history. Poetry tends to express universals, and history particulars”[28].
Dẫu “lời quê chắp nhặt dông dài,/ mua
vui cũng được một vài trống canh”, văn chương vẫn là bản tường trình đời sống
con người. Hơn thế, văn nghệ nói chung có khả năng phơi bày thực trạng đời sống
trong tận cốt tủy. Kiểu như âm thanh vang thét thống thiết Trư điểu đề của
Ngô Thế Lân, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Đồ Chiểu, tuồng hát Hai Bà
Trưng của Nguyễn An Ninh, …. tựu trung phản ánh vấn nạn “người” trong cõi
người. Liệu bạn có nhận ra qua bản mệnh văn chương, nhân tính và dã nhân tính vẫn
song hành suốt chiều dài lịch sử tồn hoạt. Văn minh cơ hồ là cuộc giằng co vật
lộn của tâm linh người khỏi mê muội, hôn ám, dã man. Nói theo Phật lý, ấy là cuộc
giằng co vật lộn giữa tâm linh người và vô minh, ái dục bít bùng. Mức tiến phát
tâm linh cho thấy mức tiến phát của văn minh: nếu dựa trên luận điểm này, bạn
thấy rằng nỗ lực tiến vào đường văn minh của nhân loại hàng ngàn năm trước dường
như vẫn tiếp tục dẫm chân tại chỗ, dẫu cho bao hình thái ý thức, bao nhiêu hình
thái chính thể xã hội đã lần lượt thay phiên trì ngự cõi thế thì, văn minh nhân
loại kỳ thực vẫn chưa tiến bước vào chặng đường tiếp theo; mà hẳn còn tiếp tục
cuộc giằng co với ái dục vô minh trong tâm linh. Từ đây, chắc bạn nhận ra văn
minh người trên hai ngàn năm qua kỳ thực rất tạm bợ và tốc độ diễn tiến ngày
càng nhanh, trong khi cấp độ tiến phát không thay đổi.
Vì sao văn chương có thể tu sức cự phản
dã nhân hóa? Qua thí nghiệm Milgram và thí nghiệm Stanford, tà ý ác niệm có thể
sản tạo và kích hoạt dưới áp lực nhất định. Cho nên, khả năng phản cự dã nhân
hóa của văn chương có được bởi văn chương có thể duy trì “khoảng cách an toàn”
cho người quan sát triển khai tư duy phản biện. Đời sống tư niệm người có điều
kiện thuận lợi để nghiền ngẫm về tình trạng “dã nhân hóa” trong tác phẩm văn học
(thơ, kịch, truyện, …). Trong tình trạng bị chi phối/dưới áp lực của các hành
vi dã nhân hóa, cá nhân không thể biểu hiện đúng thực tư duy phản biện trong ý
thức. Do đó, tiếp nhận tác phẩm văn học đưa lại kết quả phản ứng hành vi dã
nhân hóa đáng tin cậy (bởi khoảng cách an toàn cho tư niệm triển hiện chân thực).
Văn học nghệ thuật nói chung, có thể xem như nỗ lực đáng kinh ngạc của nhân loại
trong việc giãy thoát khỏi hỗn mang, hôn ám, vô minh, dã man. Khó có thể xác định
mức tiến phát, giá trị, biểu hiện nhân tính trong từng tác phẩm, trong từng nền
văn học quốc gia, trong từng khu vực, trong từng thời đại văn học khác nhau, …
nhưng rõ ràng mỗi tác phẩm văn học điều bộc lộ ít nhiều nỗ lực kháng cự dã nhân
hóa trong bối cảnh nhất định. Nên chăng, văn nghệ và người làm văn nghệ cần ý
thức sâu sắc và tiếp tục trọng trách này, cùng những hình thái ý thức xã hội
khác, thúc đẩy cuộc tiến hóa tâm linh (nên hiểu, tâm linh không thuộc phạm vi
huyền học, tâm linh căn bản thuộc về tồn tại người rất chân thực và gần gũi).
Ngoài ra, truyền thống nhân đạo-nhân
văn trong hầu hết nền văn học là biểu hiện nỗ lực chống lại quá trình dã nhân
hóa trong suốt lịch sử phát triển của xã hội người. Văn chương khám phá, phơi
bày, cũng là tiếng nói đồng cảm cho nạn nhân dã nhân hóa. Do đó, văn chương có
thể được xem xét như văn bản nhân quyền (human rights). Nhưng có lẽ cũng nên
thân trọng, bởi văn chương đôi khi trở thành phương tiện cho ý thức quyền lực lợi
dụng[29].
Bởi những tiếng nói mạnh mẽ dứt khoát nhất bảo vệ nhân quyền, nhân danh nhân
quyền lại có khi chính là “sài lang” hóa thân. Trong bộ sách “Đất và Người Nam
bộ mến yêu”, Trần Bảo Định cũng nói “không thể nhân danh quyền con người để tước
đoạt quyền con người của kẻ khác”.
Tựu trung, văn chương không chỉ khám
phá, đồng cảm mà còn thúc đẩy nhận thức “thanh tẩy” quá trình dã nhân hóa. “Ôn
cố tri tân”, lấy chuyện xưa nói chuyện nay, nhiều văn sĩ đã dùng cách ấy. Vừa
phủi bụi dĩ vãng vừa lay động nhận thức kẻ đương thời, văn chương không chuyên
chở ý hướng này thì không thể làm tròn trách nhiệm đương đại cũng không thể
vươn mình đến mai hậu. Sức sống văn chương bồi tụ và gắn liền với khả lực vận động
của xã hội người.
Tạm kết
Cùng khai dẫn vấn đề dã nhân hóa, chắc
bạn cũng không có ý đặt mình vào vị trí cái thế anh hùng, ngõ hòng ra tay dời
non lấp bể. Mấy lời nói dong dài, có lẽ cũng chỉ là tiếng vạt sành giữa trời
khuya, sao dám sánh bường tiếng sấm rền của đấng trượng phu. Nhưng lòng vạt
sành bụi bờ cũng thủ thỉ đôi lời cho bóng tối đêm trường bớt phần dày đặc. Theo
đó, mấy bụi cỏ quê kiễng, bằng nhúm rễ mỏng manh, giữ từng hột đất nhỏ, mong
cho đất đai nhân thế tránh phần sạt lở. Manh lệ ví như cỏ dại, phủ trùm đại địa,
dầu búi rễ yếu nhược nhưng cùng hiệp sức có thể giữ phần nào cõi thế không
không trở thành bình địa hoang vu! Cỏ dại hoa hèn phải biết thân, biết phận!
Nhưng chắc mọi người cũng thấy xưa nay, hoa hèn cỏ dại phủ trùm không biết bao
nhiêu nấm mồ anh hùng cái thế!
Kỳ thực, nói những lời này về nhân
tính và hậu nhân luận, nói về dã nhân hóa/khử nhân tính hóa, liệu có quá thừa
thãi không? Xưa nay chẳng đã có hằng hà người góp tiếng góp lời rồi đó sao! Cớ
gì lại bồi thêm những lời đã cũ đến mức nhãng nhàm. Quả đúng cũ kỹ nhưng mãi
còn mới, thậm chí càng khẩn thiết, cấp bách hơn. Vì đời “hạ ngươn” toàn cầu
hóa, việc đảo cực xoay chiều trật tự quyền lực, giằng co vật lộn giữa các “hung
thú” đứng đầu “chuỗi thức ăn” đang đe dọa trực tiếp cuộc sống con người. Chắc
ai cũng thấy, loài người đang sống trong một thế giới ngày càng xáo trộn, hỗn
loạn. Bởi tốc độ vận động của đời sống ngày càng nhanh, có phải điều này chỉ
cho thấy xã hội người đang co giật, giãy giụa và mỗi người buộc phải thích ứng
liên tục với những biến tướng khôn lường. Dã nhân hóa là một vấn đề cũ kỹ,
nhưng là một vấn đề muôn đời, một vấn đề luôn luôn ở thì hiện tại tiếp diễn.
Nhân loại vẫn đang tiếp tục đối diện một cách khốc liệt với quá trình dã nhân
hóa trong nhiều chiều kích khác nhau.
“Vì vậy cho
nên lịch sử có cái trách nhiệm khi nhửng việc tương lai tưởng tượng bấy lâu nay
đả bị phá tiêu tan, phải lập thành cái sự thật cho đời nầy … Sự phê bình thiên
đàng đỗi lại là phê bình trái đất nầy đây…”[30].
Liệu văn học nghệ thuật có thể đóng
vai trò gì trong cuộc giằng co tâm linh và hôn ám vô minh này? Từ dân tộc tính
đến nhân tính, văn nghệ nói chung hoàn toàn có khả năng, bởi văn chương thuộc về
một trong số căn cơ hoạt động ý thức xã hội. Văn nghệ phủ chối hoặc né trách bản
chất này cũng tức là tự triệt tiêu “căn tính văn nghệ”, tự gạt mình ra khỏi phạm
vi hình thái ý thức xã hội chân chính. Nói khác, ngụy văn nghệ!
Theo đó, văn nghệ khởi đi từ chủ thể
tính đến dân tộc tính trở về nhân tính phổ quát, lẽ nào bỏ rơi con người trong
nỗi khổ niềm đau bao vây. Văn nghệ cần giữ gìn niềm tin và tinh thần lạc quan
tươi sáng; đồng thời không sa vào lối “à ơi” lòng người trong nền văn minh dã
nhân. Tin tưởng và lạc quan góp phần thức tỉnh, không phải tu sức mê mị nhân
tâm. Vấn đề người mãi còn trên cuộc thế; dù ở góc độ nội tại tinh thần hay ngoại
hiện thế giới; dù ở góc độ cá nhân, giai tầng, dân tộc, quốc gia, thế giới, … Đời
người vẫn tiếp tục trải ra theo mỗi bước chân đi tới, văn nghệ cũng không ngừng
đi tới theo mỗi bước chân người. Chẳng có lẽ chỉ là văn nghệ thời trang, chẳng
có lẽ chỉ là văn nghệ tình cảm, chẳng có lẽ chỉ là văn nghệ phản ánh phê phán,
nên chăng hướng tới: văn nghệ tư tưởng!
“Hồng nhạn bi minh tán lâm tẩu
Sài lang hoành hành đương lộ khê
Triều dã thôn thanh bất cảm thuyết
Ô hô! Kỳ tai trư điểu đề”[31]
Tiếng chim heo kêu thất thanh, có phải
chim heo kinh hoảng thảng thốt giữa cuộc thế. Giữa đô thị văn minh, bạn có nghe
ra tiếng chim heo; bạn có thấy ly loạn chiến chinh, bom đạn giết chóc vẫn hằng
ngày ì đùng dưới vòm trời; có thấy phận người nằm ngửa phản kháng; thấy những kẻ
Hikikomori trốn tiệt trong nhà; những khu rừng tự sát; và đói nghèo, bệnh tật,
cưỡng bức, giả hoặc, lừa bịp, tranh giật, nhiễu sự,…! Ấy vậy mà, xã hội người trên
phạm vi toàn cầu, ngày càng nhiều ý hệ, thiết chế, kết cấu quyền lực nhân danh
văn minh tiến bộ và hòa bình để tiếp tục gieo rắc “đại dịch dã nhân”, đẩy con
người đến chỗ “phó nhân/hậu nhân” trong xã hội hậu công nghiệp. “Đười ươi chê
khỉ dã nhân, Thuồng luồng chọc khoáy giao long dìm thuyền!” Cáo buộc, luận tội,
mạo xưng, … chắc gì ai thực sự đứng về phía nhân bản. Chỉ có con người may ra cứu
lấy con người! Nếu không nghe không thấy, bạn cũng đương tiếp tay cho quá trình
dã nhân hóa lan tràn lấp mộ đời sống.
Ngờ đâu:
“Lao xao cõi trần ai, trường hoan
lạc gẫm không mấy lúc
Thấm thoát cơn mộng ảo, đoạn biệt ly
há dễ bao lâu”[32]
Rừng Dầu, 05/2022
Võ Quốc Việt
Tài liệu tham khảo
1.
Arendt,
H. (1951). The Origins of Totalitarianism. New York: Harcourt, Brace and
Co.
2.
Arendt,
H. (1963). Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil.
London: Faber and Faber.
3.
Arendt,
H. (1971). The Life of the Mind: Thinking (Vol. 1). San Diego:
Harcourt-Brace.
4.
Aristotle
(1987). Poetics (Transl. R. Janko). Indianapolis, Cambridge: Hackett.
5.
Backhouse,
J. (1844). A narrative of a visit to the Mauritius and South Africa.
London: Hamilton, Adams, and co. Paternoster Row and New York: John L. Linney,
Low Ousegate.
6.
Barnard,
A. (2008). History and Theory in Anthropology (ninth printing). UK:
Cambridge University Press.
7.
Bernard,
V. W., Ottenberg, P. and Redl. F. (1971). “Dehumanization.” In Sanctions for
Evil, edited by N. Sanford and C. Comstock, 102–24. Boston, MA: Beacon
Press.
8.
Bleiker,
R., Campbell, D., Hutchison, E. and Nicholson. X. (2013). “The Visual
Dehumanisation of Refugees.” Australian Journal of Political Science 48
(4), 398–416.
9.
Gray,
H. M., Gray, K. and Wegner, D. M. (2007). “Dimensions of Mind Perception.” Science
315 (5812), 619.
10. Hagan, J. and Wenona R. R. (2008).
“The Collective Dynamics of Racial Dehumanization and Genocidal Victimization
in Darfur.” American Sociological Review 73 (6), 875–902.
11. Haslam, N., Bain, P., Douge, L., Lee,
M. and Bastian, B. (2005). “More Human than You: Attributing Humanness to Self
and Others.” Journal of Personality and Social Psychology 89 (6),
937–50.
12. Haslam, N. (2021). “The Social
Psychology of Dehumanization.” In The Routledge Handbook of Dehumanization,
edited by M. Kronfeldner. London and New York: Routledge, pp.127-144.
13. Heidegger, M. (1974). Thư về nhân
bản chủ nghĩa (Trần Xuân Kiêm dịch, in lần nhất). Saigon: Tân An xuất bản.
14. Heinämaa, S. and Jardine, J. (2021).
Objectification, inferiorization, and projection in phenomenological research
on dehumanization. In The Routledge Handbook of Dehumanization, edited
by M. Kronfeldner. London and New York: Routledge, pp. 309-325.
15. Kronfeldner, M. (Edited by, 2021). The
Routledge handbook of dehumanization. Series: Routledge handbooks in
philosophy. London and New York: Routledge.
16. Kuper, L. (1982). Genocide: Its
Political Use in the Twentieth Century. New Haven, CT: Yale University
Press.
17. Kuper, L. (1989). “The Prevention of
Genocide: Cultural and Structural Indicators of Genocidal Threat.” Ethnic
and Racial Studies 12 (2), 157–74.
18. Montagu, A. and Matson, F. (1983). The
Dehumanization of Man. New York: McGraw-Hill Book Company.
19. Moore, T. (1853). Memoirs,
Journal, and Correspondence of Thomas Moore (Vol II) (edited by John
Russell). London: Longmans, Brown, Green and Longmans, p.38, 308.
20. Nguyễn An Ninh (1932). Tôn giáo
(in lần thứ nhứt). Bộ “Sao mai” cuốn nhứt. Saigon: Nhà in Bảo Tồn.
21. Opotow, S. (1990a). “Moral Exclusion
and Injustice: An Introduction.” Journal of Social Issues 46 (1), 1–20.
22. Opotow, S. (1990b). “Deterring Moral Exclusion.” Journal
of Social Issues 46 (1), 173–82.
23. Opotow, S. (2011). “How This Was
Possible: Interpreting the Holocaust.” Journal of Social Issues 67 (1),
pp.205-224.
24. Perry, R. J. (2003). Five key
concepts in anthropological thinking (1st ed.). USA: Pearson Education,
Inc.
25. Nguyễn Văn Sâm (1972). Văn học Nam
hà (văn học Đường Trong thời phân tranh). Saigon: Lửa Thiêng xuất bản.
26. Stuurman, S. (2017). The Invention
of Humanity: Equality and Cultural Difference in World History. Cambridge,
MA: Harvard University Press.
27. Vương Xuân Tình và Trần Hồng Hạnh (đồng
chủ biên,2012). Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập
ở vùng Đông Bắc. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
[1]
“Dehumanization” có thể được hiểu như sự giải trừ/khử nhân tính hóa. Ở đây, để
nói đến tính chất dã man, hung ác trong tư niệm và hành vi người, khiến kẻ thực
hiện hành vi và người bị hành vi tác động đều trở thành dã man ác tính, xin tạm
dịch thuật ngữ này: “Dã nhân hóa”. “Khử nhân tính hóa” và “Dã nhân hóa”: tương
liên tương thông!
[2]
Maria Kronfeldner (Edited by,
2021). The Routledge handbook of dehumanization. Series: Routledge handbooks in
philosophy. London and New York: Routledge, p.xvi.
[3]
Moore, T. (1853). Memoirs, Journal, and Correspondence of Thomas Moore
(Vol II) (edited by John Russell). London: Longmans, Brown, Green and Longmans,
p.38, 308.
[4]
James Backhouse (1844). A narrative of a visit to the Mauritius and South
Africa. London: Hamilton, Adams, and co. Paternoster Row and New York: John L.
Linney, Low Ousegate, p.40.
[5]
Stuurman, S. 2017. The Invention of Humanity: Equality and Cultural Difference
in World History. Cambridge, MA: Harvard University Press.
[6]
Martin Heidegger (1974). Thư về nhân bản chủ nghĩa (Trần Xuân Kiêm dịch, in lần
nhất). Saigon: Tân An xuất bản, tr.14.
[7]
Martin Heidegger (1974). Thư về nhân bản chủ nghĩa (Trần Xuân Kiêm dịch, in lần
nhất). Saigon: Tân An xuất bản, tr.16.
[8]
Vương Xuân Tình và Trần Hồng Hạnh (đồng chủ biên,2012). Phát triển bền vững văn
hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc. Hà Nội: Nxb. Khoa học
Xã hội, tr.32-34.
Xem thêm:
- Alan Barnard (2008). History and Theory in Anthropology
(ninth printing). UK: Cambridge University Press, pp.99-119.
- Richard J. Perry (2003). Five key concepts in
anthropological thinking (1st ed.). USA: Pearson Education, Inc.,
pp.159-188.
[9]
Arendt, H. (1951). The Origins of Totalitarianism. New York: Harcourt, Brace
and Co.
[10]
Arendt, H. (1963). Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil.
London: Faber and Faber.
[11]
Arendt, H. (1971). The Life of the Mind: Thinking. Vol. 1. San Diego:
Harcourt-Brace.
[12]
Sara Heinämaa and James Jardine (2021). Objectification, inferiorization, and
projection in phenomenological research on dehumanization. In The Routledge
Handbook of Dehumanization, edited by M. Kronfeldner. London and New York:
Routledge, pp. 309-325.
[13]
Xem:
-
Opotow, S. (1990a). “Moral Exclusion and
Injustice: An Introduction.” Journal of Social Issues 46 (1), 1–20.
-
Opotow, S. (1990b). “Deterring Moral Exclusion.” Journal
of Social Issues 46 (1), 173–82.
[14]
Haslam, N. (2021). “The Social Psychology of Dehumanization.” In The Routledge
Handbook of Dehumanization, edited by M. Kronfeldner. London and New York:
Routledge, pp.127-144.
[15]
Bernard, V. W., Ottenberg, P. and Redl. F. (1971). “Dehumanization.” In
Sanctions for Evil, edited by N. Sanford and C. Comstock, 102–24. Boston, MA:
Beacon Press.
[16]
Kuper, L. (1982). Genocide: Its Political Use in the Twentieth Century. New
Haven, CT: Yale University Press.
Kuper, L. (1989). “The
Prevention of Genocide: Cultural and Structural Indicators of Genocidal
Threat.” Ethnic and Racial Studies 12 (2), 157–74
[17]
Opotow, S. (1990a). “Moral Exclusion and Injustice: An Introduction.” Journal
of Social Issues 46 (1), 1–20.
Opotow, S. (1990b).
“Deterring Moral Exclusion.” Journal of Social Issues 46 (1), 173–82.
[18]
Ví dụ như công trình của Ashley Montagu and Floyd Matson (1983). The Dehumanization
of Man. New York: McGraw-Hill Book Company.
[19]
Gray, H. M., Gray, K. and Wegner, D. M. (2007). “Dimensions of Mind
Perception.” Science 315 (5812), 619.
Haslam, N., Bain, P.,
Douge, L., Lee, M. and Bastian, B. (2005). “More Human than You: Attributing Humanness
to Self and Others.” Journal of Personality and Social Psychology 89 (6),
937–50.
[20]
Hagan, J. and Wenona R.-R. (2008). “The Collective Dynamics of Racial
Dehumanization and Genocidal Victimization in Darfur.” American Sociological
Review 73 (6), 875–902.
Bleiker, R., Campbell, D.,
Hutchison, E. and Nicholson. X. (2013). “The Visual Dehumanisation of Refugees.”
Australian Journal of Political Science 48 (4), 398–416.
[21]
Opotow, S. (2011). “How This Was Possible: Interpreting the Holocaust.” Journal
of Social Issues 67 (1), p.213 (205-224).
[22]
Maria Kronfeldner (2021). Introduction: Mapping dehumanization studies. In Maria
Kronfeldner (edited by, 2021). The Routledge handbook of dehumanization.
Series: Routledge handbooks in philosophy. London and New York: Routledge, p.2 (1-36).
[23]
Ashley Montagu and Floyd Matson (1983). The Dehumanization of Man. New York: McGraw-Hill
Book Company.
[24]
Ashley Montagu and Floyd Matson (1983). The Dehumanization of Man. New York: McGraw-Hill
Book Company, p.xxix.
[25]
Bóng tối, 1937 – Chế Lan Viên.
[26]
Bánh vẽ, 1991, Chế Lan Viên.
[27]
Ashley Montagu and Floyd Matson (1983). The Dehumanization of Man. New York:
McGraw-Hill Book Company, p.xxxi.
[28]
Aristotle. (1987) Poetics. Transl. R. Janko. Indianapolis, Cambridge: Hackett,
p.12
[29]
Xem thêm: Nguyễn Văn Sâm (1972). Văn học Nam hà (văn học Đường Trong thời phân
tranh). Saigon: Lửa Thiêng xuất bản, tr.108.
[30]
Nguyễn An Ninh (1932). Tôn giáo (in lần thứ nhứt). Bộ “Sao mai” cuốn nhứt.
Saigon: Nhà in Bảo Tồn, tr.62.
[31]
Trư điểu đề của Ngô Thế Lân.
[32]
Hoài cổ phú của Võ Trường Toản.
Comments
Post a Comment