BẤT KHẢ THUYẾT ĐƯỜI ƯƠI: GIẢI TIẾP NHẬN THÍCH NHẤT HẠNH QUA “NẺO VỀ CỦA Ý”
Thế nào bất khả thuyết,
thế nào đươi ươi? Lấy đười ươi lập thành thể tính, tức là tái kiến ngữ ngôn tri
nhận, bấy giờ thuyết thành ra bất khả. Lối tịnh khẩu tiếp nhận. Nhận thể như xổ
tung sự tiếp, làm cho gặp gỡ kỳ cùng, tiếp liên thuần túy. Lấy tư thế đó gặp gỡ
Nhất Hạnh ở Phương Bối, trong “Nẻo về của ý”, lập thành một cách thế tiếp
nhận ý hướng. Đưa ý hướng trở thành ý thể, rồi siêu ý thể, đây chính là phương
pháp tiến hành mà cũng là đối tượng tiến hành. Nói khác, ta phá hủy diễn trình
trực quan bản chất. Quan điểm này phủ quyết điều đưa lại của việc tiếp nhận, nhờ
đó tiếp nhận trong cách thế người trở thành tiếp nhận trong cách thế phi-người
(tạm gọi đười ươi). Một khi ta phá vỡ cầu tiếp liên ý hướng cũng là khi ta tái
kết nhịp cầu đười ươi. Bấy giờ, mấy lời hàm hồ này có thể xác lập vấn đề giải
tiếp nhận, bởi vì tiếp không phải để nhận bất cứ gì.
***
1. Gửi đười ươi thương mến!
Mở đầu hay đè đầu ra để mở,
sao cũng được! Đười ươi tôi đang làm cái gì đây, đười ươi bạn đang làm cái gì
đây? Bạn vô tình buộc phải hoặc duyên do may rủi đẩy đưa, bạn đọc được bài này,
trách nhiệm hoặc duyên trời gió lộng thổi mát ngẫu nhĩ cuộc đời, bạn đã lướt
qua bao nhiêu bóng hình trên nẻo dòng cuộc sống luân chuyển luôn luôn, bạn có
biết được không, bạn có biết bạn đang làm gì không? Đười ươi tôi hẹn bạn ở
Phương Bối am, trên rừng núi Đại Lão. Vì tất cả chúng ta đều trở về Phương Bối,
rồi tất cả chúng ta sẽ quay lại Phương Bối. Vì sao chứ! Giản đơn, tất cả chúng
ta đều thuộc về Phương Bối, tất cả giả nhân, đười ươi, vượn người, tinh tinh,
khỉ đột, đầu chó, bạc má, đít đỏ, titi đuôi hường, mura đầu bông, popa cái
bang, saki điệu đà, … hay Strepsitthini, Cercopithecoidea, Homo sapiens,
Hominoidea, Haplorhini, Tarsiidae, Anthropoidea, Pongo, Platyrrhini,
Catarrhini, Hylobatidae, Hominidae, Hominini, Homininae, Gorillini, … cho tới
khỉ biết ho cò biết gáy, chó phải ăn đá gà phải ăn muối, hết thẩy đều thuộc về
một Phương Bối toàn hiện chánh đẳng chánh giác. Bởi vậy, chuyện Phương Bối
không thể là chuyện gì khác ngoài những lời chân như ảo tưởng. Biết sự thể đười
ươi chỉ có thể chân như ảo tưởng, tức là đã thoát ra ảo tưởng chân như của kiếp
phận đười ươi. Nam Mô đười ươi ảo tưởng chân như, lấy cái cớ đó bước tới Phương
Bối am, có thể may ra thoát được nguy cơ đánh rơi thân tâm, té ngã thần trí xuống
vực thẳm âm u của núi rừng Đại Lão một khi ai đó muốn dời bước trở về Phương Bối.
Lời này, có thể gửi thượng đẳng trí thức, có thể nhắn toàn giác hàn lâm, có thể
nhủ thượng thừa học giả, làm ơn cởi truồng ra, gửi lại đường quốc lộ Bảo Lộc,
trả lại hình hài người vay mượn bởi văn minh khoa học tráo trở, để cho hình hài
nguyên vẹn trần gian, lấy bằng ấy thôi trở về Phương Bối, lập thành cách
thế tiếp nhận. Và xin đừng khuân vác hàn lâm, trí giả trí tri cách vật,
trí thức trí tỉnh trí mê trí mù, vẩn nhơ Phương Bối và đồi trà. Nếu được vậy
thì kẻ hèn lấy làm cảm tạ lắm lắm! Mấy lời rồi, bày tỏ bụng dạ đười ươi tôi, nhắn
gửi đười ươi người, trong cuộc truy vấn hoang đường đang diễn ra qua mấy mớ chữ
nghĩa hàm hồ này!
Kỳ
đười ươi ngộ nam mô
Bối
phương đảo lại điên rồ trổ bông
Hường
phôi phai nữa mai hồng
Lão
kia vẫn đại còn không vượn người !
2. Tiếp rồi
Nhận, rồi Giải tiếp nhận từng chút đười ươi!
Ta
bà toàn giác
Dù gì đi chăng nữa đười
ươi cũng nhận Phương Bối am và núi rừng Đại Lão là mái nhà nguyên thủy. Cũng giống
như bao con đười ươi bôn ba khắp bốn phương trời, mang những vết thương rướm
máu quay về Phương Bối để hàn gắn - cứu chuộc - chữa chạy - bồi bổ lại phần hao
hụt - mòn ruỗng - phôi phai - bay màu qua mưa nắng gầm thét phố thị và thời vận.
Hẳn mỗi con đười ươi sẽ tự có một Phương Bối am cho riêng mình, mà kỳ thực như
Nguyên Hưng từng nói, mỗi con đười ươi đều thuộc về Phương Bối. Chỉ có một
Phương Bối duy nhất mang nét đẹp dữ dội khốc liệt huyền bí của rừng thiêng Đại
Lão ngày ngày mưa gầm thác đổ. Vẻ u mị hoang tịch huyền thoại của thượng cổ
bình minh, cho nên đã có kẻ rắp tâm muốn lột truồng áo quần, để thân không trơ
trọi chạy vào trong rừng đại lão nguyên thủy, trở lại làm loài linh trưởng thức
giấc bình nguyên và hoang vu như ấu thơ nhân loại. Lột bỏ quần áo bước vào rừng
thiêng Đại Lão cầm bằng như trở về buổi hồng hoang của tỉnh thức, giây phút xán
lán mênh mông bất khả nghĩ tưởng, ngay trong cực tiểu ban đầu, mà như vậy thì
cũng tức là hoàn toàn thuần túy hiện tại. Thuần túy bây giờ, ngay bây giờ, ngay
giây phút bây giờ, ngay khoảnh khắc của sự thể bây giờ đương nhiên hiển hiện.
Ta bà hiện tại, ta bà toàn giác.
Niềm
cô đơn bản chất
Đười ươi tôi, đười người
người, đười ươi làm tha thể, đười ươi làm ngã, đười ươi là chấp, đười ươi là
tri giác điên đảo thần trí, che mờ chân tâm, dẫu gì đười ươi cũng không thể nói
gì, chỉ có thể réo gọi hồi cố, nên chăng rất ưa thích gửi gắm, nhắc nhớ. Đười
ươi nhớ nhung, kể lể những chuyện lòng rất khẽ, bằng giọng hài rất hòa, bằng lời
hiền rất hậu. Chất giọng và lời lẽ đười ươi, gửi về tha nhân, nhắn với tha thể,
nói những chuyện thế thể (thế tính / worldhood). Mô Phật đười ươi, con đười ươi
câm nín tịnh khẩu. “Nguyên Hưng, không phải tôi chỉ nghe tiếng gọi mầu nhiệm
kia trong lúc trăng và rừng nói chuyện hay trong những cơn mưa lớn đầu mùa. Tôi
lại còn nghe tiếng gọi ấy vào những buổi trưa rất là im lặng nữa” (Thich,
1967, p.64). Bất khả thuyết tiếng gọi mầu nhiệm nên đười ươi chỉ nghe mà rồi ứng
để cảm thấy được, chẳng khác gì gieo vào lồng ngực mình và tâm trí nữa, gieo và
cảm thức một hạt giống, cho hạt giống kia nảy mầm trên thời khắc của hiện tại,
để cắm rễ truyền chuyển rồi kết nối lại với muôn vàn hiện tại (tức là siêu hiện
tại, vô lượng hằng hà hiện tại, vô cực hạn thời không hiện tại của đười ươi). Có
lẽ vậy nên đười ươi không lột mà rồi tả, con giả nhân hồng hoang thế giới chỉ
ví von. Lối so sánh rất nguyên sơ của hài nhi lão tổ, ví buổi trưa buồn
như thi ca, hoặc buổi trưa trên quê hương xứ sở của ta buồn như hình dung viễn
khách qua xóm vắng. Nỗi buồn đười ươi và trưa nồng làm chúng sinh có nhớ lại tiếng
vọng Pháp quốc với nỗi niềm cô lẻ căn cơ (Essential Solitude) của Blanchot
(Blanchot, 1982, pp.21-22), buồn hơn cả buồn chết, buồn hơn cả buồn người, buồn
hơn cả buồn đời, buồn tức chính là người. Sự thể đười ươi khi mà cảm ứng hiện tại
màu nhiệm lập tức biến thành sự thể hiện tại của hồng hoang thiên địa. Bàn chân
đười ươi lúc bấy giờ, bước một bước đầu tiên, bước một bước muôn đời.
Nhiệt
hạch hay phân hạch
Những con chữ ‘nẻo về
của ý’ mới ngay ngắn đẹp đẽ làm sao! Không biết trong cửa thiền, đười ươi lấy
duyên cớ gì thường hay họa chữ rất to, vẽ những chữ vàng vạnh, tròn trịa nhìn
mà phát thích, ngó mà phát thèm, những muốn cắn từng chữ thuần khiết tinh khôi.
Mấy chữ đó có khác gì búp trà lá nõn rất mượt, những muốn đưa tay với, ngắt ngọt
búp trà còn mướt sương. Có lẽ đó là cái ngã chấp chới trong việc ngã hữu, thôi
thì vẫn ôm phận đười ươi cơ mà! Cam tâm làm đười ươi hèn mọn, hái từng búp trà
chữ, để thưởng thức vẻ ngọt lành ban mai của từng chữ bình minh. Từng con chữ
có làm đười ươi bạn cảm thấu vẻ đường hoàng bình dị mà rất ư dõng mãnh hiên
ngang, vẻ uy hùng lặng lẽ của ánh mắt vô lượng và điệu cười thâm trầm, thanh tẩy
bởn nhơ dính dấp thân tâm. Từng chữ một, từng búp trà nhỏ, kỳ thực gồm chứa
dòng năng lượng kinh hoàng như vậy. Cho những ai tiếp rồi nhận, nhận rồi ứng, ứng
rồi cảm, cảm rồi phát tỏa tinh anh bất hủ dồn lại làm thành hồi ứng và phản ứng,
lập thành nhiệt hạch rồi phân hạch. Ôi má con đười ươi, không thể nghĩ tưởng,
đươi ươi hột nhân phát tỏa năng lượng kinh thiên động địa, làm lay chuyển cả những
hóc đá âm u Đại Lão, làm kinh ngạc cả loài hữu tình hữu sinh đến những giống vô
tình vô giới, ù lì nằm đâu đó dọc đường bước tới đồi trà. Ôi tía con đười ươi,
không thể nghĩ tưởng mà thuyết nổi những lời vang động ấy. Chợt như thấy đười
ươi trổ ra lông lá nguyên thủy, nghe hiểu cả muôn vàn vô lượng ngữ ngôn của vạn
vật muôn loài. Đười ươi tôi với vạn vật muôn loài, đâu có khác giống, kỳ thực
đâu có giống loài để khác. Chỉ có hằng hà màu nhiệm của sự thể đối ứng, lập
thành đây với đó, lập thành này với kia, lập thành ngày với đêm, lập ra nóng với
lạnh, lập ra trước với sau, lập ra đúng với sai, lập ra tôi với người, lập ra
đười ươi với giả nhân linh trưởng. Ôi cố tổ đười ươi, mỗi búp trà non suốt, trổ
thành từng quả chuông trên đồi Phương Bối chật ứ ban mai.
Chuông
lòng
Vạn bất đắc dĩ có thể
nghĩ về Phương Bối, sự bất đắc dĩ đó làm người ta tưởng có thể khởi thuyết về
đười ươi Phương Bối. Có lẽ thuyết được ra, một khả dĩ thuyết được ra, thuyết được
về cái sự thuyết va chạm ấy, để lấy đó làm tin, lấy tin làm hiểu sự va chạm tiếp
nhận ý hướng căn cơ. Cụ cái sự thể kia, kỳ thực làm sao mà có thể như cụ được.
Rong ruổi theo sự thuyết va chạm hòng biến thể ra cụ ấy, làm đười ươi tôi rã rời
mê mỏi, tưởng như hao hụt cạn kiệt lần hồi toàn thẩy năng lượng của thân tâm.
Có lẽ đười ươi đang mất cốt đười ươi vì cái vụ rong ruổi đuổi truy. Nhưng hóa
ra, nhờ đuổi truy rong ruổi, đười ươi trở thành phi đười ươi, từ chỗ đười ươi đến
không còn đười ươi nữa. Đười ươi bạn có dám thực hiện một cú nhảy dõng cảm, thiết
thành trái tim, ngã về trời phi tưởng, cho đười ươi trở thành phi đười ươi. Đười
ươi bạn có dám không, hả người bạn đười ươi nào đó đọc dò mấy chữ này. Đười ươi
bạn dám không? Dám mở hết cương lòng, cho ý hướng của lý trí quan năng mất hết
quyền thống soái, cho mỹ nữ uốn éo tiềm thức trổ ra điệu bộ, cho ma nữ vô thức
lò dò bước ra múa may quay cuồng, cho quỷ mẫu tàng thức (alaya-vijñāna) linh thức
huyền thức đại thức dật dờ đội mồ ngồi dậy, bạn có dám không? Dám cho bằng ấy ý
hướng u minh kia trở lại va chạm với ý hướng đười ươi trên đồi Phương Bối; không
biết bạn có dám làm cuộc va chạm tiếp nhận ấy không, chứ đười ươi tôi đây thèm
muốn chảy nước, cái cảm giác đười ươi Phương Bối hả hê lòng dạ nghĩ về tự do
căn bản của đười ươi may nhờ Phương Bối thực thành thể hiện, chớ một khi đười
ươi ở chốn thị thành cầm bằng như bị rào vuông trong quy phạm rối bời, rối nùi,
rối như tơ vò, rối như canh hẹ, rối rắm lung tung không thể thở nổi. Con đười
ươi Phương Bối nhắc Nguyên Hưng nhớ, cái buổi nọ Nguyên Hưng rong ruổi trong rừng
thiêng Đại Lão, bỗng cảm ứng pháp thiêng nhiệm màu huyền linh, phát ra tiếng hô
vang vực dậy rừng thiêng, và đười ươi Phương Bối váng động thần cốt, bỗng chồm
dậy giữa am Phương Bối đáp ứng lại tiếng hô vang của Nguyên Hưng. Nguyên Hưng
có còn nhớ không, cuộc va chạm ý hướng thuần túy, gọi nhắc đười ươi tôi, liệu
có nhắc đười ươi bạn, để thuần túy ý hướng làm thành chùy nện vào chuông lòng,
vang vọng thành âm thanh đại vũ “Ommmmmmmmmmmmmmm…..…..” bất diệt vĩnh hằng !
Đười ươi bạn sẵn có chuông lòng, và đười ươi tôi rất vinh hạnh làm thành chùy nện!
Nam mô CHUÔNG LÒNG!
Cách
đọc mù chữ
Lấy thân phận đười ươi mà
đọc lời Phương Bối của con đười ươi trốn về rừng Đại Lão, thì cái đọc như thế
chẳng thể xong được nổi, căn bản không thể đọc xong được! Nói vậy có hàm hồ lắm
ru! Và đúng ra rất ư hàm hồ. Bởi mấy lời búp non lá trà như vậy có đáng kể gì
đâu, mắc mớ gì thượng thừa trí thức hàn lâm trên chiếu gấm ngự trì phải bỏ ra công
sức để lật tìm mấy lời hàm hồ như vậy. Không đáng! Không đáng! Không đáng một
chút nào! Cho nên, đừng lấy phận thượng thừa trí giả hàn lâm mà thử rỡn một lần
kiếp phận đười ươi; lỡ mà đọc trong cách thế đó, để va chạm bất khả thuyết của
đười ươi Phương Bối thì hàn lâm cũng sẽ dễ hàn lầm và hàn lộn tùm lum. Bấy giờ,
lập thức bậc thường thừa trí giả hàn lâm gì gì đó, sẽ đương nhiên biết được
không thể nào đọc xong ‘Nẻo về của ý’ đười ươi Phương Bối. Đọc tới cầm bằng
như đọc lui, đọc xuôi hồ như là đọc ngược, và đọc xong tức là chưa đọc gì[1], … Cuối cùng, con đười ươi
chỉ lẩn quẩn ở Phương Bối, đọc đi đọc lại, đọc rồi đọc nữa, đọc ngang đọc dọc,
đọc quàng đọc xiên, đọc tung đọc hoành, đọc thượng đọc hạ, đọc trong đọc ngoài,
đọc còn đọc mất, đọc hữu đọc vô, … ôi má ơi quần nát cái sự đọc cho tiêu tan
cái sự duyệt. Nhưng hú hồn, tiêu tan sự đọc như vậy, đười ươi bạn làm thành
linh thiêng sự đọc. Sự đọc thôi miên hồn cốt để truy về tiền hiện tiền nghiệp
tiền kiếp tiền hữu tiền vô, tiền tiền cái sự tiền tiền đó luôn; lấy cách thế đọc
của hàng thông thiên bác địa hàn lâm chính thống, liền thấy đọc đười ươi Phương
Bối mới ngu xuẩn hàm hồ làm sao và ‘Nẻo về của ý’ cứ như liều thuốc độc
làm tê liệt tâm thân. Nhưng lấy cách thế đọc của đười ươi ú ớ mù chữ, liền sẽ
thấy Ý trên NẺO VỀ Phương Bối sạch lào rậm rựt cỏ hoang ven đường, lối thăng
thiên cứ vậy thênh thang! Đọc thành toàn giác! Những mong đười ươi bạn dám và
làm được toàn hiện sự đọc như vậy. Chẳng phải vô duyên mà gã hiệp khách hớ hên
luyện thành vô tự chân kinh.
Đười
ươi hiển thánh
Đười ươi tôi và bạn không
thể hoàn tất sự đọc đười ươi Phương Bối, như đã nói lãi nhãi nãy giờ, bởi lẽ
chính đười ươi Phương Bối cũng không thể hoàn tất cảm ứng mầu nhiệm. Dẫu có
hàng trăm lần nghe thấy trong những buổi trưa nồng nước Việt, mà đười ươi
Phương bối tưởng rằng trái đất bị thôi miên rồi điểm huyệt dưới cái nhìn rực lửa
hung hãn của mặt trời. Đười ươi Phương Bối luôn luôn cảm thấy tiếng gọi vĩnh hằng
ấy nguyên vẹn, cứ như lần đầu tiên nghe tiếng gọi của mẹ liền nhanh nhảu đáp lại
tức thì không đắn đo. “Nếu ta thiếp đi vào buổi trưa trong một giấc ngủ ngắn
mà thức dậy đúng vào giờ phút ngưng đọng ấy, thì lập tức ta nghe tiếng gọi. Tôi
nghe tiếng gọi như thế đã có đến hàng trăm lần rồi Nguyên Hưng, mà lần nào trái
tim tôi cũng hồi hộp như nhau. Mà vì vừa mới thiếp đi cho đến lúc chợt tỉnh tôi
nghe nó không phải với lý trí của tôi mà với tất cả biển tiềm thức còn đương
dâng tràn, còn chưa kịp rút xuống khỏi lằn mức ý thức. Tôi nghe tiếng vũ trụ gọi
tôi về, và tất cả bản thể tôi rung động đáp lại tiếng gọi ấy” (Thich, 1967,
p.66). Mà cũng phải thôi, tiếng mẹ vẫn là tiếng đầu tiên, nguyên hiện sự đầu
tiên tồn hữu của sanh mạng. Có lạ gì sự tiếp ứng vẹn nguyên sơ xưa của đười ươi
Phương Bối, cũng dễ hiểu Phương Bối đười ươi rung động thần cốt bản thể. Cái
đáng nói, đúng ra là sự rung động nguyên vẹn đó. Đười ươi tôi tiếp liên rung động
đười ươi Phương Bối, truyền chuyển niềm xao xuyến bất tận trác tuyệt của vĩnh hằng
thiên thanh thiên thu thiên tuế thiên tưởng, có khác gì hột nhân nguyên tử thường
xuyên nhiệt hạch cấu hợp tác luyện hiện hình mãi mãi hoài hoài luôn luôn tiếp
tiếp liền liền, … ôi bất tận “cmn” tiếp liên năng lượng ý hướng thướng vượt thượng
cấp chiều kích (high dimension) mà cũng là siêu cấp chiều kích (hiểu chiều kích
như là một phương thức/cách thế tồn hiện) (Ouspensky, 1922). Không nhất thiết
chỉ có cái chết, cơn co giật nhiệt hạch ý hướng thân tâm như vậy cũng có thể tạo
cơ hội cho ra siêu vượt chiều kích, để trải nghiệm tồn hiện ở chiều kích khác,
cách thế khác, phương trời khác, … Bấy giờ đười ươi hiển thánh!
Lửa
thiêng
Hồi đó, nghĩ lại thấy đười
ươi Phương Bối cũng nghịch ngợm quá chừng, quậy tưng bừng rừng núi Đại Lão một
bữa. Mà đúng là đêm giao thừa với một đóng lửa lớn chất cây khô cỡ lớn mất hai
ngày mới xong, lại thêm những ống tre cưa bỏ vào lửa phát ra tiếng nổ làm thành
pháo tết trên đồi Thượng (Thich, 1967, pp.68-69&71-72). Nghịch ngợm quá chừng,
nhưng đó là cái Tết muôn đời của đười ươi! Tiếp nhận niềm hân hoan mừng Tết của
đười ươi, lấy cái gì để tiếp đây? Đười ươi tôi bỗng dưng thấy rằng, mình đã cởi
bỏ thể tất chấp niệm danh xưng, thể tất quy phạm đồng loại, thể tất con ngươi
đám đông, thể tất vị thế nhân quần, chỉ còn trong cách thế đười ươi để cửng nhảy
rỡn hớt quanh đống lửa nguyên thủy trên đồi Thượng, thực thụ làm một con đười
ươi múa hát quanh lửa hồng, mặc tình cho sương núi bao vây. Tiếp nhận như vậy,
tự dưng chính bản nhiên cổ thể của đười ươi tôi hiện hình ra qua ánh lửa chập
chờn. Có một bóng hình sâu xa sơ xưa chi đó của lửa, niềm cảm ứng lửa, niềm cảm
ứng không hề mang tính chất cấm kỵ như bạn hiền Bachelard (Bachelard, 1938) ca
cẩm hồi đó, không phải ngọn lửa đó, mà ánh lửa khai nguyên mở đầu cuộc sống đười
ươi. Biết bao nhiêu tiền hiện tổ tiên của đười ươi tôi, cũng hiển linh lập tức
khi tất cả chúng ta múa ca bên đống lửa huyền thoại cổ sơ. Thấy được rằng tiền
thân tiền kiếp của ta, nào có mất mát gì, đâu có sa sút di hoạt đi đâu, còn tất
cả nguyên vẹn ở đây ngay bây giờ, tổ tiên ta chết đi nhưng không mất, bởi cái
chết như vậy đáng lẽ phải gọi bằng hóa thân truyền chuyển; và ta có khác gì sự
truyền chuyển hóa thân ấy của một tổ tiên bất tử nào đó, của một tối sơ cố tổ
nào kia, nguyên vẹn còn đây ngây bây giờ. Đười ươi Phương Bối ơi, đười ươi có
nhớ một lần ký giả Hoà Lan hỏi đười mươi muốn làm gì nhất trước khi chết. Lẽ ra
đười ươi không nên trả lời, nhưng đười ươi tôi cũng hiểu vì thương cho ký giả
kia lắm lắm, vạn bất đắc dĩ, đười ươi phải lên tiếng. Nở một nụ cười hiền, đươi
ươi Phương Bối đâu có chết bao giờ! Tự hỏi … cớ vì sao đười
ươi Phương Bối lại hay nói bằng âm thanh, dệt chữ bằng âm thanh, lấy cọ vẽ âm
thanh để lập thành bức tranh chuyển động. Lại cũng hay sử dụng lửa và bóng tối.
Nhờ lửa, tối càng thêm tối như nguyên thủy; nhờ tối, lửa càng thiêng như lửa trời.
‘Nẻo về của ý’ hầu như chỉ dẫn về một cửa động thần thiêng, chốn hồng
hoang nguyên thủy mơ màng và im lặng. Im lặng như tịch diệt, hoặc giả có thể
xem như im lặng vĩnh hằng an nhiên của tam thiên đại thiên thế giới. Có thể im
lặng mà đười ươi Phương Bối cảm ứng là thứ âm thanh lớn lao vĩ đại nhất. Im lặng
kia, niềm tĩnh tại tuyệt đối mà đười ươi Phương Bối cảm rồi ứng đó, kỳ thực còn
là gì nữa?
Chim
chíp gà con
Mà nè, Nguyễn Lang có nhớ
bận viết thư cho thầy Thanh Từ. Bức thư xúc động quá chừng! Sự hồn nhiên xúc động
chân như ngây thơ rất đỗi. Bởi thư chẳng khác gì lời thú nhận thành thật đương
nhiên, cảm xúc lúc nhìn thấy cái chân của lý. Kỳ thực không xa lạ,
không xấu chẳng đẹp và kỷ niệm tái ngộ của Ma Vương cùng Đức Phật, nghĩ … cũng
thân tình thương mến lắm đó. Đười ươi tôi đã tiếp bằng chân trời bát ngát xa
đưa, dở bỏ mẹ hết cả lằn ranh cương giới. Bấy giờ, đười ươi tôi nhận thấy đười
ươi Phương Bối cũng mưu mô xảo thuật lắm lắm. Cái xảo thuật tinh nghịch đáng
yêu của anh bạn Ma Vương hồi nẳm. Lời đười ươi kết chồng đan chéo, mà vẫn trong
suốt như nước suối trên rừng núi Đại Lão, tưởng cũng huyền mị âm u như bóng tối
trên đồi thượng, nào dè lại linh động tươi sáng vô ngần. Thư từ (Thich, 1967,
pp.76-79) hay hồi ức, tâm tình và sẻ chia, phải chăng đười ươi Phương Bối nắm
được cái tuyệt kỹ thiện xảo[2] của ngữ ngôn Việt tộc, nên
phối hợp ăn ý quá chừng. Chẳng biết thầy Thanh Từ nhận được thư ấy từ “Nẻo về của
ý” có ôm bụng cười như đười ươi tự cười ngoặt nghẽo lúc nhận ra cái chân
của lý hay không, có ôm bụng cười quả trứng gà mà đười ươi Phương Bối
tha hương mang theo để ắp ôm như kiểu gà mái ắp trứng bấy lâu ở xứ người, rồi một
sáng tỉnh dậy nghe tiếng chim chíp. Tiếng chim chíp gà con có khác gì tiếng
chuông Phương Bối vang dậy núi rừng Đại Lão. Cả Đức Phật và Ma Vương Ba Tuần hiển
hiện trong dáng vẻ gà con măng tơ lông vàng (Thich, 1967, p.77). Ngộ hen! Nói vậy
không ôm bụng cười sao được.
Ngữ
ngôn im lặng tuyệt đối
Một buổi trưa nước Việt
mơ màng, sức nóng thái dương hun đốt tâm hồn, tức là hun đốt lý trí, để đười
ươi có cơ may hun đốt tính đười ươi, ngã vào sự mơ màng của phi ý thức (tiềm thức,
vô thức, huyền thức, linh thức, hay alaya-vijñāna gì gì đó), chỉ còn là “thức”,
cũng là sự biết thấy thuần túy; với sức nóng ban trưa như thế, đười ươi đã đàm
ngôn luận thuyết bằng cách im lặng. Chợt ta phát hiện thứ ngôn ngữ siêu phàm mà
đười ươi Phương Bối đã sử dụng. Ngôn ngữ của im lặng tuyệt đối. Trong hằng hà
loại thể ngữ ngôn trên đời, ngữ ngôn của âm thanh dao động tạo ra sai biệt để
biệt phân trong ý thức, bởi vậy căn bản của thứ ngữ ngôn như thế, khởi đi từ
khu biệt đến sai biệt thành phiên biệt, mãi mãi chia rẽ, mãi mãi cách ngăn, mãi
mãi mịt mù hố thẳm ngàn khơi, mãi mãi ra đi mà không biết lộn đầu trở lợi (trực
quan bản chất/ Eidetic Insight). Nhưng bằng cách ở trong
lò bát quái Brown Hall (Thich, 1967, p.111), đười ươi tha hương Phương Bối đã học
cách “đánh vần” lặng im tuyệt đối, bằng cách nghe hơi thở Phạm thiên tuyệt đối,
con đười ươi giao tiếp được với hằng hà sinh hiện đã từng có mặt, đã ở trong cuộc
giao ứng muôn đời (thì quá khứ hoàn thành tiếp diễn), một trạng thế siêu phàm của
tư niệm mà chúng ta đành lòng phải làm cho rối rắm bằng một cách thế nghĩ tưởng
rườm rà quá chừng. Cũng bởi vì rối rắm nên bốc mùi hôi thối một chút, nếu ta gạt
đi được cái mùi tởm lợm ấy, ta rũ bỏ nào là quá khứ, nào là hoàn thành hoàn tất,
nào là tiếp diễn tiếp diện; lột bỏ hết, ta làm con đười ươi lông lá ban đầu, ta
thấy rằng tất cả những khái niệm ngữ ngôn mới nguy hại làm sao; nguy hại bởi vì
rỗng không, nguy hại bởi do điên đảo, nguy hai bởi chăng lộng giả thành chân. Mối
nguy hại kia, ta có thể tẩy trùng (dễ ợt). Bằng cách bỏ phứt đi cái thói ngữ
ngôn luận điệu sai biệt (khu biệt) âm thanh. Quăng đi cho rồi, ta cứ mạnh dạn
quăng đi để học cách tiếp giao cảm ứng bằng ngữ ngôn im lặng. Ta tạm gọi phi ngữ
ngôn hoặc gọi là siêu ngữ ngôn vậy. Cái thứ ngữ ngôn mà chối bỏ ngữ ngôn, tiêu
diệt ngữ ngôn, hãy ở trong cách thế ngữ ngôn như vậy. Bấy giờ, đười ươi bạn có
thể ở trong Brown Hall tuyệt đối im lặng của một chiều cuối năm nào đó giữa tỷ
tỷ truyền kiếp di hoạt. Bằng lò bát quái Brown Hall, Hoàng Hoa tiên sinh đã
tinh luyện cho chính mình cách thế ngữ ngôn siêu phàm. Có thể tiếp rồi giao với
hằng hà chúng sinh hữu hình lẫn siêu hình, thượng cấp lẫn hạ cấp, sự dao động của
ngữ ngôn ấy là thứ siêu ý thể diễn hoạt bằng một phương trình đa biến đang dịch
chuyển về phía tiệm cận với bất phương trình. Vượt qua các giới hạn, ý thức đười
ươi mặc quần áo không thể luận tưởng nổi. Nên đám đười ươi mặc quần áo đã khép
phương trình dị hượm đó vào thành bất phương trình. Trong khi bất phương trình
chỉ là sự siêu vượt của phương trình ở một cấu thức tồn hiện khác. Đám đười ươi
mặc quần áo không biết được, cố chấp không biết được, phủ chối không biết được,
mạt sát không biết được, … Hoàng Hoa tiên sinh thương đám đười ươi mặc quần áo
như vậy quá chừng và hàng chục năm ròng vẫn trải lòng tiếp đón đám đười ươi đó
bằng ngôn thuyết ba chiều thông thường. Và đươi ươi tôi vì thế, cảm thấy thương
cho tiên sinh hết biết. Giá như tiên sinh chẳng hạ cố thương tình cho đám đười
ươi mặc quần áo, chẳng thuyết gì bằng ngôn ngữ ba chiều tao loạn đảo điên khái
niệm như vậy, thì chắc tiên sinh chẳng phải chịu nỗi đau co giật của máu huyết
đến mức ấy! Nhưng đó là hạnh nguyện của đười ươi tiên sinh!
Nam
mô hạ cố tấm lòng!
Đười ươi truồng như tôi
đây, nguyện “ship” cho tiên sinh “siêu ý thể” im lặng tuyệt đối.
Phi
trửng điên cuồng
Liệu đười ươi ở truồng như
tôi đây, có đang cố rả vẻ, làm bộ làm tịch, làm hay làm ho, làm lẻ làm chẵn cho
giông giống cái thói trí thức ba hoa luận thuyết; có na ná cái nết học đòi làm
sang thượng thừa bác học? Tôi không biết nữa, con đười ươi tôi không biết mặc
quần áo, con đười ươi nguyện ở truồng vĩnh hằng! Nói vậy, tức là sự ngữ ngôn
tôi khi tiếp nhận đười ươi Phương Bối im lặng là cái gì hết sức tự nhiên. Cũng
giống như vốn dĩ đã có đến mức vô tâm vô tình như thiên địa mà ông già cưỡi trâu
trốn đời đã từng nói, cũng hệt như sự phản hồi im lặng của chim bằng với chim cưu
cỏn con yêu dấu. Nhưng liệu có đồng bọn du côn, đồng môn du đảng nào đó khép
cho đười ươi tôi ở truồng là cái thói cà rởn tửng từng tưng, thì tôi xin chấp
chịu cái bản án đó. Tiếp nhận đười ươi Phương Bối trên ‘Nẻo về của ý’, đười ươi
trần truồng như tôi không thể bỏ cái thói ấy được. Mà thực ra, đười ươi tôi đã
kiềm chế quá chừng để mà không nhảy trửng lên bởi chất giọng vô ngôn hiền như cục
đất mà lại quá ư vững chãi an nhiên kiên định toàn mãn như thế, kỳ thực đã ghìm
chặt cương lòng để mà không thống chạy thao thiết trong cánh rừng nguyên sinh hồng
thủy như thế! Cầm bằng như kẻ lạc đường hàng triệu năm, bỗng nhìn thấy lối
thoát trong mê lộ, như tìm thấy nẻo về của ý, thử hỏi làm sao không trửng
lên mừng rỡ. Cho nên, dù đười ươi mặc quần áo có cười nhạo đười ươi trần truồng
tôi đây, thì cũng xin ngó lơ một cái rồi đười ươi tôi lại tiếp tục phi trửng
điên cuồng! Hãy thiền lòng bằng cách trửng phi trong im lặng tuyệt đối.
Sạc
lòng
Sẵn nói về những gì im lặng,
đười ươi Phương Bối rất hay viết về im lặng. Đâu đâu cũng là im lặng, nhưng bạn
lòng sẽ vẫn thấy một Princeton nhộn nhịp và Mỹ quốc xinh đẹp tấp nập hết biết.
Bằng cách đó, Lang tinh luyện thành im lặng. Cách hành thiền im lặng giữa bốn bề
xa mã hý vang, những dao động âm thanh hoàn toàn bất lực trước pháp thiền im lặng
như thế. Và lúc đó, đười ươi Phương Bối thâu nạp được thứ năng lượng vĩnh hằng.
Dao động cắt đứt mối liên hệ giữa ta và phi ta, và trong quá trình dao động như
vậy, ta hao mòn tiêu pha năng lượng của mình. Cứ dao động rồi tiếp tục dao động,
ta đang giết chết mình từng chút. Nhưng nếu cảm ứng được lời kêu gọi trở về của
IM LẶNG VÔ MINH TUYỆT ĐỐI, đười ươi lột quần áo, thiền lòng trong vô thức hay
lúc có ý thức, thiền bị động như ngủ hay chủ động như thức, ta liền gắn lòng ta
với nguồn năng lượng vô hạn vẫn thường trực xung quanh ta xưa nay mãi mãi. Cắm
dây lòng vào nguồn năng lượng siêu việt ấy, trong khoảnh khắc “sạc pin” ta sẽ
có cơ may trở lại cốt đười ươi nguyên thủy. Lắng nghe ra không biết bao nhiêu
là phi tưởng nhiệm mầu. Phương Bối không phải của Lang hay Nguyên Hưng mà chính
Nguyên Hưng và Lang thuộc về Phương Bối. Siêu tưởng Phương Bối là nguồn năng lượng
vĩ đại vô cùng mà đười ươi muôn đời muôn kiếp có sẵn. Chỉ là … đười ươi có thể
sạc lòng mình bằng thiền im lặng chủ động như thức hay không? Riêng tôi, con đười
ươi trần truồng như tôi vẫn luôn luôn để mình lặng lẽ ngồi giữa chánh điện
Phương Bối. Chẳng có gì để thờ phượng, bởi không có đười ươi tôi, đười ươi bạn,
đười ươi Lang, đười ươi Nguyên Hưng hay đười ươi Tất Đạt Đa gì ráo. Bấy giờ chỉ
còn có đười ươi nguyên thủy với sức mạnh vô biên không bao giờ cạn kiệt. Sự thị
hiện của nó: ÁNH SÁNG.
Tịnh
khẩu thiền ngôn
Trong ánh sáng ngữ ngôn
im lặng, thứ ánh sáng chẳng khác gì nắng trưa vàng mật ong ở nước Việt huyền
thoại, chẳng khác gì tuyết lạnh trắng xóa Princeton, trong ánh sáng như vậy ta
mở cửa lòng mình đón tiếp đười ươi Phương Bối, cầm bằng như đón tiếp cách thế
nghĩ tưởng. Loài linh trưởng nào đó chực chờ tiến hóa, ta chờ đợi một cách thế
và ta thỏa lòng thỏa dạ tìm thấy một cách thế. Đó là vẻ an nhiên điềm tĩnh quá
chừng. Bỗng dưng con đười ươi trong lòng hóa ra lặng lẽ, không nhốn nháo chồm tới
chồm lui, nhảy qua nhảy lợi nữa. Đười ươi không hú hét gào rống, kể cả tiếng ư ử
the thé trong vòm họng cũng im bặt, để lặng lờ ngồi đó nghe và nhìn kẻ tiến hóa
một bước đi qua hai bước đi lại. Người qua lại kể lể những chuyện vô nghĩa, nào
là đi chợ, nào là nấu nướng ở campus center, nào là trời rét quá quắt đến
những âm 18 độ, v.v… toàn những chuyện không đâu. Nhưng con đười ươi ngây ngô
ngây dại quá chừng, ngồi ngó mãi dáng vẻ điềm tĩnh vững chãi trong lời kể,
trong ngôn từ. Và ở đó toát ra một từ trường thu hút, chẳng khác gì cao tần
sóng âm, thu hút và tê liệt cánh dơi để “hổ phách” tất cả thế giới. “Nẻo
về của ý” kỳ thực chẳng phải một câu chuyện, cũng đâu phải một con đường,
nó là một cách thế. Thế lập cách và cách lập thế … cho đười ươi cảm thấy tính
chất Phương Bối. Như vậy, vạn muôn tư tưởng, chuyện lòng, phiền muộn liền tan
biến; cho nên ta chợt thấy những chuyện Lang kể lể cho Nguyên Hưng tất thẩy đều
tầm phào. Nhưng đó là cái rỗng không sáng chói rực rỡ. Tia sáng đó có cơi mở bụng
dạ, khai phóng thần trí, đẩy những cực hạn viễn khơi của suy tưởng ngỡ rằng đã
cực hạn, ai dè còn có thể vô lượng cực hạn hơn nữa. Làm được điều đó, ngữ ngôn
đười ươi Phương Bối, ngữ ngôn Trừng Quang, ngữ ngôn Hoàng Hoa đã phi thiêng bằng
cách “thiền ngôn”. Ngay cả từng chữ cũng đang thiền, đẹp trong ở dáng vẻ lặng
yên bất thoái chuyển. Nói chỉ để mà nói, kể chỉ để mà kể; lời và ý không tao loạn
bởi cuộc xông pha xung đột của vạn muôn ý niệm trong đầu. Để cho đầu não ta
không trở thành cõi bình địa chiến trường thương tích. Nữ sĩ Hà thành năm ấy tự
sát hụt ở Hồ Gươm liệu có còn ngâm câu: “Thân không trời đất mà mưa gió”
(để ai đó họa theo “Lòng chẳng binh đao cũng chiến trường”), ngẫm lại
thì nếu người con gái năm ấy biết được rằng ngôn có phản ngôn, tưởng có phản tưởng,
niệm có phản niệm thì ba đào thân phận chắc đã êm xuôi lặng lờ như hồ thu
(nhưng tất nhiên, phải có ba đào mới thành ra tiếng vọng sông Ngân cho thiên hạ
ngâm ngợi, mới có rượu thu để thiên hạ nhấp nháp). Thôi thì cầu cho người con
gái năm ấy tìm về chốn Phương Bối của chính mình. Ở đây, ta lập thức phản ngôn,
nhờ đó ta lập định thành như cách thế: là NGÔN mà cũng là PHI NGÔN nhưng cũng
chẳng phải PHI PHI NGÔN. Từ giây phút ấy, ta bắt đầu tịnh khẩu.
Ý
Tiếp rồi nhận, hay đọc rồi
tưởng trên “Nẻo về của ý”, chẳng thể đọc theo kiểu lùa lẫy, cố nuốt
nhanh từng chữ một cách ngấu nghiễn. Bởi vì chẳng bao giờ có thể đọc xong
Phương Bối kinh này được, không thể đọc xong nổi. Nên phải ngông cuồng đọc cố
cho xong làm gì, ngược lại việc ấy còn có hại. Một đoạn một trang hay một thiên,
có thể đọc đi đọc lại, đọc tới đọc lui, đọc xuôi đọc ngược, đọc ngang đọc dọc,
có thể đọc mãi hoài hằng hà chảy tới, vậy mà vẫn không thể làm hết cho xong. Vậy
thì chỉ cần đọc một trang một câu cũng được. Duy chỉ một câu đười ươi Phương Bối
trong sách này đã xong rồi vậy. Tức thì rốt ráo chẳng hề vướng mắc một chút gì.
Cách thế Phương Bối là cách thế đười ươi nguyên thủy nên cách thế cũng phải là
nguyên thủy đười ươi. Sự lập thành tâm thế tiếp nhận, đòi hỏi bầy đười ươi lạc
loài Phương Bối phải thực thành tìm lại đường đi nẻo về, tìm được lối rồi mới
may ra có thể lò dò quay về. Vấn đề quan trọng nhất hóa ra là tìm được đầu mối
quay về, còn lúc đó, sự quay về đã trở thành cố nhiên chẳng còn đáng kể bàn luận
nữa. Tìm được đầu mối quay về (hồi quy cố quận lọt lòng) chẳng phải đang trở về
hay sao! Khi đã ở trong cách thế hồi quy, đươi ươi liền ở trong cách thế chuyển
hóa. Con đười ươi lông lá đang chuyển hóa thành ra ánh sáng. Trời ơi! con đười
ươi ngó lại và thấy rằng chính mình đã sử dụng những chất liệu gì để sống bấy
lâu nay. Đồng thời, con đười ươi cũng chuyển hóa cơn hãi hùng choáng ngợp ấy,
biến nó thành tình thương. Tình đồng loại chúng sinh vạn hữu, bát ngát thương,
vô phương yêu, không thể nói hết trong một lúc lòng thương cảm cho vạn hữu quay
quắt trong cơn biến loạn của “chất liệu ta bà”[3]. Tiếp nhận rồi phản tư xong
thanh tẩy tới chuyển hóa thành ra niềm thương cảm cứu độ, diễn trình vận động của
hạnh nguyện Avalokiteśvara Bodhisattva. Thân thể thương tích máu mủ trên quê
hương, con đười Phương Bối phát nguyện nhưng tình thương có thể giúp Phùng Xuân
thoát khỏi vướng chấp hai đàng. Bởi một đàng tà ác, một đàng phẫn uất, cả hai đều
lầm than đau khổ. Giọng văn Trừng Quang êm đềm chân không nhưng ta có thể cảm
thấu được nỗi đau thương thống khổ của giống nòi. Vậy hỏi lại đười ươi, ngươi
làm sao vượt qua cơn thống nạn của nòi giống? Truy vấn là một cách thế tiếp nhận.
Nhứt là tiếp nhận Phương Bối. Vậy thì hãy mặc tình mặc sức mà truy rồi vấn. Đuổi
riết theo cơn thực thành tư tưởng của đười ươi. Bấy giờ ta thấy đươi ươi với rừng
nguyên thủy là một, đười ươi học được bài học thiên thu ở rừng, cũng như vấn nạn
của quê hương, đười ươi học được bài học từ loài cây mùa đông trụi lá (Thich,
1967, p.119). Sự quay về với bản dạng thân tâm, để quán chiếu thân tâm rũ bỏ những
tạp niệm lẫn tà niệm, lập thành chánh niệm, quán chiếu chính sự quán chiếu đó,
ta sẽ thấy vấn đề xã hội là vấn đề con người, chiến tranh lẫn hòa bình là vấn đề
quay lại quán chiếu chính mình, nhân loại bầy đàn cần quay lại quán chiếu thói
bầy đàn, cững tức là quay lại ngó nhìn cho kỹ càng cốt khỉ lông lá. Nguyên thủy
vô minh không có chiến tranh, chẳng có hòa bình; không có thiện ác chẳng có tốt
xấu; chẳng có khôn dại chẳng có hay dở. Cơn co thắt của niệm biến thành
giẫy giụa. Giẫy giụa co giật thành ra đảo điên. Đảo điên rồi lại điên đảo. Diễn
trình này, đười ươi Phương Bối đã trải qua, ta có thể đọc thấy trong hằng hà một
chữ của ý. May mắn không gieo mình xuống vực thẳm của tưởng, kẻ đó may ra có thể
“điên đảo đảo điên” vô lượng hồi kiếp, dần dà vô cực đảo đảo điên điên, sự tác
loạn đến cực hạn như vậy, có thể quán chiếu điên đảo. Mà cái việc hãi hùng như
thế, thực ra chỉ diễn ra xung quanh và ở trong một chữ duy nhất “Ý”.
Nam mô Ý, Nam mô Nẻo về!
Thằng
cu ấu thơ
Mến, thích, yêu, thương
(Thich, 1967, pp.131-132), … toàn những tà thuyết tạp niệm! Có phải không đười
ươi Phương Bối? Lang đã dùng những từ ấy để thể hiện suy nghĩ của mình về
Nguyên Hưng, về Tuệ, về Mai, về thầy Thanh Từ, về Steve, về David, … không biết
bao nhiêu lần. Nhưng nếu vậy tức là ngã sở quá nhiều, nặng nề vướng chấp. Những
tà niệm luyến ái như vậy thật đáng sợ, phải không Lang! Nhưng đáng sợ hơn nữa
là vì những thương yêu mến thích ấy tinh khiết quá chừng. Bạn lòng đười ươi hãy
cẩn trọng, nhất là thói khu định khái niệm của bạn. Cách thế tiếp nhận Phương Bối
nhất thiết phải tẩy trừ suy đồi khái niệm. Khái niệm là phương tiện tư duy trừu
tượng, nhưng nó dễ thành liều thuốc độc của suy tưởng. Và nhất là những khái niệm
thuộc về cảm tính. Vậy nên, hễ đọc tới Phương Bối để vọng tiếng đười ươi, làm
ơn và làm phước, hãy loại trừ ô tạp khái niệm, để tiếp một cách thuần khiết và
nhận một cách thuần túy, trong cách thế đơn sơ trẻ con ban đầu mới lọt lòng mẹ.
Gánh nặng khái niệm có khác gì vác đá qua sông, rủi sao đá đè thì chôn thây dưới
đáy nước biệt dạng, nguy tai nguy tai!
Nhưng cách thế trẻ con
nguyên thủy mẹ đẻ ra đời, kỳ thực là trạng thái làm sao? Có phải là cách thế có
thể đem ra bàn luận xét đoán? Lập thành truy vấn như vậy quả là đã sai bét bèn
bẹt ngay từ đầu. Nhưng không truy vấn cách thế trẻ con, làm sao biết cách thế
trẻ con rồi ở đó tiếp nhận đười ươi Phương Bối? Thứ nhất, một khi truy vấn cách
thế trẻ con, tức là phá hủy cách thế đó. Cách thế trẻ con có khác gì phản vật
chất một khi đụng mặt vật chất tức thì tan biến. Vậy thì lời truy vấn sẽ hủy
diệt non nớt ấu thơ. Truy vấn ấu thơ là cách lập thức bệnh hoạn sai trái. Vậy
thì để làm sao mà tiếp nhận được Phương Bối bằng ấu thơ cách thế? Bên Đức quốc
có đứa học trò cưng của Franz Brentano biểu là phải hồi quy, rồi cụ đồ Từ Sơn
cho là phải dùng kỹ thuật biến dạng biến hình biến chuyển để trực quan bản chất
gì gì đó (variation) ( Benoist, J. et Espagne M., 2013,
p.440).
Nhưng sao phải phiền hà thấy ớn vậy chứ! Bạn đười ươi có thấy rằng: bạn đã từng
ấu thơ, bạn trưởng thành, bạn lão hóa, bạn gần đất xa trời; nhưng thực sự ấu
thơ trưởng thành lão hóa xa trời gần đất vẫn là một trong số nhiều trạng huống của
một thằng cu nào đó mãi mãi không thay đổi. Tất cả vẫn nguyên vẹn còn đó, hết
thẩy vẫn trọn đủ còn đây. Thời tính gây ra những nhiễu loạn về khái niệm, tiếp
tay cho sự đánh tráo khái niệm. Bạn đười ươi ngó thấy cái nết cà chớn tráo trở
của thời tính, bạn có thể an lòng biết rằng, bạn vẫn còn ấu thơ nguyên thủy
tròn đầy vành vạnh, bạn vẫn còn trẻ con trăng non xán lán. Và coi nè: Sơ nguyệt,
trung nguyệt, thịnh nguyệt, vãn nguyệt; với lại: sơ Đường, trung Đường, thịnh Đường,
vãn Đường; kỳ thực cũng là nguyệt, cũng là Đường đấy thôi. Lúc đó, bạn nghĩ có
cần phải truy vấn ấu thơ cách thế nữa không? Từ đó bạn sẽ thấy truy vấn là tánh
nết sa đọa của khái niệm. Làm ơn hãy từ biệt cái thói nết què quặt tật nguyền dị
hợm ấy đi. Nếu bạn đười ươi còn quen thói truy vấn như vậy, đười ươi vẫn còn bất
khả thuyết, muôn đời. Mà nè Bảo ơi, hai chúng mình vẫn ấu thơ vĩnh cửu phải
không nè! Ánh trăng năm đó họ Lý “cử đầu” với ánh trăng năm xưa hai đứa
mình ngồi ở bậc thềm chánh điện Phương Bối ngó lên, cũng là một đấy thôi! Tính
ra, hai đứa mình với họ Lý gần gũi quá chừng!
Đọc
để tìm cái mục ở đích ?
Tại sao ta cứ phải mang
vác trong lòng bằng ấy mục đích khi đọc. Cứ đọc để tìm một cái gì đó, cứ tiếp để
mà nhận cái gì đó. Thật bệnh họan cho cái thói đọc và tiếp nhận như vậy. Và
cũng thật đáng sợ cho cách tiếp nhận như vậy, vì nó sẽ bóp chết tất cả cuộc du
tưởng thuần túy của khai mở, kết liễu cuộc thám hiểm đầy bất ngờ chực chờ lao đến.
Đọc để mà đọc, tiếp chỉ đến tiếp tục tiếp diễn nữa cái sự tiếp như thế, đừng tư
vị cầu vọng nhận lĩnh được gì. Nếu được như thế, tiếp mãi mãi là một cơ hội thuần
túy. Sự tiếp như vậy mãi mãi triển nở vô phương vô hạn sống động sinh sôi và vô
lượng khác nhau mỗi lần tiếp đón. Như vậy bất khả thuyết đười ươi một khi chưa
sắp xếp lại tư thế đón tiếp (nghe xe ôm Chợ Lớn chở lợn đồn đãi, đó là tầm
đón đợi chi chi dành dành gì đó!). Sóng cao tần bắt sóng cao tần, chân
không hòa vào chân không. Khi nào ý niệm = vô niệm = chánh niệm, bấy giờ may ra
có thể tiếp mà chẳng cầu vọng nhận lấy bất cứ gì. Hẹn đười ươi Phương Bối hằng
hà buổi sáng, ta cùng nhau đi thiền hành tiếp đón vĩnh cửu bình minh!
Trùng
phùng
Đứng ở núi này rồi trông
núi nọ, cứ như đứng bên thương hại ngó bờ thương yêu, đười ươi Phương Bối gọi
là trắc ẩn. Thôi thì cứ huỵch tẹt ra cho rồi, nói trắng ra là thương hại, những
kẻ tặng quà cho cô nhi quả phụ mà chưa hề nhìn thấy và cảm thấy nỗi khổ niềm
đau của kẻ đau khổ, thì tấm lòng như vậy chỉ khởi lên từ vực thẳm trắc ẩn của ý
thức (Thich, 1967, pp.141-142). Thấy người ta khổ thì thương, cùng khổ như người
ta thì bấy giờ mới thấu suốt được nỗi khổ niềm đau mà thành ra yêu thương. Đừng
học thói thương hại mà hãy tập thương yêu. Nói vậy, đười ươi chúng mình phải ngã
mình trọn vẹn trong nỗi khổ niềm đau, bám lấy phao vô úy, nghĩ thấy rằng chẳng
có bờ bến gì. Nếu biết rằng không có bờ tỉnh thì cũng không có bến mê, không có
bể khổ thì không có xuồng ba lá toàn giác, nếu vậy thì hòa mình vào nỗi khổ niềm
đau, quán chiếu nỗi khổ niềm đau, quy hồi bản chất niềm đau nỗi khổ, lật nó qua
giở nó lại, ngửa nó lên úp nó xuống, kéo nó tới giựt nó lui, đẩy nó xuôi đạp nó
ngược, coi nó tanh bành té bẹ, chè hẻ chè he, chè chuối chè bưởi chè đậu xanh đậu
đỏ đậu đen ra làm sao, liền thấy nỗi khổ niềm đau dường như chỉ là cái hệ lụy của
một cuộc gặp gỡ nào đó giữa muôn hằng gặp gỡ. Vậy thì làm sao có thể tiêu biến
nỗi khổ niềm đau, vậy thì cứ triệt tiêu gặp gỡ, nhưng mang lại mệnh phần đười
ươi trong rừng già đại lão lẽ nào làm ngơ đứng ngó ú ớ bập bẹ, mà làm vậy có
khác gì tránh né đười ươi, chung quy cũng di dịch từ cái gặp gỡ này sang cái gặp
gỡ khác, cái không gặp gỡ về bản chất cũng đã là gặp gỡ (phi gặp gỡ là cách thế
khác của gặp gỡ). Nói vậy, liệu ta có thể gỡ cái sự gặp, để gỡ ra cuộc gặp, lấy
đó làm sự tái thiết gặp gỡ chăng? Có những gặp gỡ như ban đầu, có những gặp gỡ
như tái ngộ, chung quy là gặp gỡ cái chẳng phải ta, nếu ta gặp kẻ không phải ta
(ta gặp phi-ta), tức thì gặp gỡ thành ra ảnh hưởng. Dưới sự ảnh hưởng đó có thánh
thần thiên địa quỷ ma hà bá ôn dịch thiên lôi mới biết được muôn hằng duyên
nào sẽ khởi (nhưng chắc chắn đã khởi). Vậy nếu ta không gặp gỡ phi-ta,
mà ta gặp chính ta. Bấy giờ sẽ làm sao? Giả tỷ ta gặp ta, thì cái ta mà ta gặp
kia kỳ thực đã không phải là ta nữa rồi. Vậy lấy phi-ta gặp gỡ phi-ta, để phá hủy
sự gặp? Ôi thôi, chính sự phá hủy đó cũng là gặp mất rồi. Vậy thì biết phải làm
sao đây, di hoạt không thể không gặp gỡ. Tất nhiên rồi! Vậy ta thử tháo tung
toàn diện ta với phi-ta, chỉ còn lại gặp gỡ. Phải chăng chỉ còn có khởi mà chẳng
còn duyên nữa, vì đâu còn ta hay phi-ta mà duyên, chẳng còn ta với phi-ta thì
duyên là duyên giữa gì với gì? Giả tỷ có thể lập thành khởi mà không có duyên,
lập thành gặp gỡ mà không có kẻ gặp gỡ, ta có thể di hoạt mà không vướng mắc vậy!
Đó là cách thế mà đười ươi Phương Bối, nào là Lang nào là Nguyên Hưng nào là dì
Tâm Huệ, nào Steve, … những con đười ươi Phương Bối khắp bốn phương trời (phi
thời-phi không) vẫn vĩnh hằng gặp gỡ nhưng đến cuối cùng chỉ còn sự gặp gỡ mà
thôi (cũng như lần ở Làng Mai, đười ươi có nói rằng đi chỉ để mà đi, sao lại lấy
đi tìm đến, có phải không nè!). Vậy thì ta xin sụp quỳ van lạy, làm ơn bạn lòng
đười ươi nào đó khởi sự đọc lấy mấy chữ hàm hồ này, cũng biết dùm cho, hãy lập
thành gặp gỡ tương phùng, đừng lập thành dò la truy đuổi. Chẳng có gì để tìm thấy,
chẳng có bến bờ nào đỗ lại, chẳng có “xá lợi” nào để phụng thờ. Tiếp nhận đười
ươi, chỉ thuần túy tương phùng. Thuyết đã ở chỗ vô ngôn, lấy gì mà bất khả. Đến
đây, ta phải đập nát đi cái tiêu đề bài viết rửng mỡ này. Ngay giây phút đó, bạn
lòng đã ở trên ‘nẻo về của ý’, sẵn sàng thướng vượt muôn trùng.
3. Tạm biệt đười ươi!
“Bây
giờ tỏ mặt đôi ta,
Biết
đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
(Nguyen,
1956, p.93)
Đúng hôn đười ươi Phương
Bối! Và đôi ta đã gặp nhau biết bao lần. Vô lượng kiếp này, chúng ta đã gặp gỡ nói
năng hoặc đã từng ngồi ăn chè bưởi hôm nào trên Phương Bối. Lang có nhớ nổi
không, chứ đúng ra đôi ta đã tương phùng làm thành kỳ ngộ biết bao nhiêu lần rồi.
Hồi đó, hai chúng mình từng đi thiền hành trong rừng Đại Lão, bước qua Cầu Mai
rất thơ, cũng như bận hai đứa mình cùng đi lặng lẽ bên Đức Ông trong vườn Cấp
Cô Độc, có chiều nọ hai đứa mình (lúc đó còn mang tên Sujata và Svatika) cùng
mang bó cỏ kusa để dâng người sa-môn, rồi nghe người ấy chuyện trò về cái đêm
trăng trác tuyệt bừng tỉnh bên dòng sông Neranjara (Thich, 2009, p.116). Nhắc
nhẹ vậy thôi, cho bạn lòng đười ươi thử nhớ lại. Nói vậy không có ý để bạn lòng
đười ươi vướng mắc hiện tiền và dĩ vãng, làm gì có mấy cái khái niệm “chíp hôi”
như vậy, phải không ! Chỉ là để bạn lòng đười ươi thấy rằng hiện tại bây giờ đủ
đầy còn đó, cũng như chúng mình vẫn còn vẹn nguyên đôi ta như ban đầu hồng thủy
cổ thời. ‘Nẻo về của ý’ như dự phóng nhiệt hạch mà lòng dạ đười ươi tôi
như quả bom phát nổ. Đúng không Nguyễn Lang ơi!
Đọc mấy dòng gửi lại nầy,
đười ươi tôi mới thấy chẳng phải Bảo, chẳng phải Lang, chẳng phải Hạnh, chẳng
phải Quang cũng chẳng phải Xuân, mà vô lượng hằng hà đười ươi. Tiếp nhận như là
gặp gỡ, cũng như tương phùng, ta gặp lại cố nhân trong hằng hà dĩ vãng bây giờ.
Biết đâu, hai đứa mình từng là một tí ti hư vô nào đó cùng với vô hạn tí ti hư
vô nào nữa, kết thành bông hoa nở tràn hương sớm mai. Không thể nói ra được,
không thể nói ra được! Bất khả thuyết đười ươi Phương Bối, bởi lẽ đã tịnh khẩu
vô phương = dao động của nguồn năng lượng bất tử đến cực hạn dao động, tức là
chẳng còn dao động nữa. Vô cực dao động là tuyệt đối tĩnh tại, lúc đó tĩnh tại
bắt đầu quang phục mở phơi kết nối với tuyệt đối biết thấy trọn vẹn. Bạn lòng
ơi, đã sẵn sàng giải tiếp nhận chưa?
Hai chúng ta “ở trên
tình bạn, ở dưới tình yêu” vì thực ra chúng mình tình chúng sinh giao ứng
đười ươi nhiệm mầu!
Sài Gòn, 03/06/2021.
(tặng Nguyễn
Lang)
Võ Quốc Việt
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Bachelard, G. (1938), La
Psychanalyse du feu. Paris: Gallimard.
Bellow, S. (1964). Herzog
(novel). USA: Viking Press.
Benoist, J. et Espagne M.
(direction, 2013). L’itinéraire de Tran Duc Thao – Phénoménologie et
transferts culturels (trans. and direction in Vietnamese by Bui Van Nam
Son). Hanoi: University of Education Publishing House.
Blanchot, M. (1982). The
Space of Literature (translated, with an Introduction, by Ann Smock). Lincoln,
London: University of Nebraska Press.
Endō, S. (1966). Silence
(novel, trans. by William Johnston, original title: Chinmoku). USA:
Taplinger Publishing Company.
Thich, N. H. (1967). The
back way of thinking [Neo ve cua y]. Saigon, Vietnam: first edition by La Boi Publishing
House.
Thich, N. H. (2009). Old
Path White Clouds [Duong xua may trang]. Ho Chi Minh, Vietnam: Van hoa Sai Gon Publishing
House.
Nguyen, D. (1956). Annotating
Tales of Kieu [Truyen Kieu che giai] (annotated, edited and
commented by Le Van Hoe). Saigon,
Vietnam: second edition by Zien
Hong Publishing House.
Ouspensky, P. D. (1922). Tertium
Organum: The Third Canon of Thought, a Key to the Enigmas of the World
(translated from the Russian by Nicholas Bessaraboff and Claude Bragdon with an
Introduction by Claude Bragdon). USA: Vali-Ballou Co.
So, D.H. (1966). Samuel
Beckett – A pioneer in the New Novel movement [Samuel Beckett – ke tien phong
trong phong trao tieu thuyet moi]. The Nghe Thuat Weekly News no.26
(9/4-15/4/1966), pp.10-11&30-31.
Sturgeon, T. (1961). Some
of Your Blood (short novel). USA: Ballantine Books.
[1]
“Thứ tiếng nói tạo nên câu chuyện đã bắt đầu nói trước đó sẽ tiếp tục nói
sau này, và chẳng có một lý do nào để bắt nó ngừng nói. Nói đi nói lại hay ngừng
nói, Setaire ou se répéter, hai sự kiện đó chỉ là một” (So, 1966,
pp.10-11).
[2]
Nhất Hạnh dùng hình thức thư từ, hồi ký, nhật ký, biên bản hợp đồng, … để phối
hợp cùng nhau rất ư điệu nghệ trong cùng một văn bản truyện dài. Đặc trưng này
có lẽ cần thêm thời gian khảo cứu ở một bài viết khác. Có thể xem thêm: “epistolary
novel”(Sturgeon, 1961; Bellow, 1964; Endō, 1966).
[3]
“Đất nước chúng ta thế nào rồi cũng phải trải qua một cơn bão táp tàn khốc. Chế
độ đã gây nên quá nhiều bất công và áp bức, đã xử dụng tiền bạc và bạo lực để
thực hiện những tham vọng của mình. Bất mãn và căm thù càng lúc càng tăng và hiện
những phần tử vì phẫn uất gia nhập hàng ngũ Mặt trận giải phóng miền Nam để chống
đối đã không phải là ít. Chất liệu bất công, tàn ác và thối nát đã nuôi dưỡng
và làm cho lực lượng chống đối càng lúc càng mạnh”. (Thich, 1967, pp.118-119).
Comments
Post a Comment