Skip to main content

DƯỚI GÓC NHÌN HẬU HIỆN ĐẠI - KỲ 1: “MỘT MÙA SƯƠNG THỨC” CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ



1.                       Vài nét về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư và dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn Việt Nam đầu những năm 2000 đến nay

Điều trước tiên mà chúng tôi muốn nhắc đến ở bài viết này chính là cái giọng điệu tưng tửng, nửa tỉnh nửa mê, nửa đùa nửa thật của từng con chữ. Bởi sự giễu nhại ở cửa miệng là động thái đầu tiên của việc hạ bệ các thần tượng, dời các tượng đài trung tâm vào góc xó. Thế nên, hãy đến với tinh thần hậu hiện đại trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư bằng chính giọng điệu của tinh thần hậu hiện đại ấy.
Từ sau đổi mới, chúng ta nhìn thấy sự phát triển đa dạng phong phú của nền văn học nước nhà. Và cái từ đổi mới, chắc phải nói thêm cả tinh thần “ăn theo” hết ga của cả lực lượng sáng tác lẫn giới nghiên cứu lí luận phê bình (đôi khi người ta dùng từ hội nhập để thay cho từ ăn theo). Mà các nhà nghiên cứu văn học có vẻ ăn theo nhiều hơn cả. Bởi vừa ngó sang Âu Mỹ vừa phải ngó lại xưa kia mai hậu, ngó từ Tây sang Tàu, ngó từ chính lí luận phê bình ngó qua tới địa hạt sáng tác, rồi từ địa hạt sáng tác ngó ngược lại phê bình lí luận. Quả là một khung cảnh náo động tưng bừng của thời mở cửa.
Và cứ mỗi khi có một trào lưu nào dấy lên ở trời Tây thì y như rằng bên ta cũng oang oang la ó về trào lưu ấy như một cái máy phóng thanh. Nói vậy không có nghĩa là phủ nhận công lao đào mương dẫn nước, tháo phèn rửa chua của các nhà lí luận phê bình[1]. Nói vậy có nghĩa là chúng ta vẫn cứ chạy theo các trào lưu mà kì thực chưa nhập dòng với văn học thế giới. Nên nhiều nhà phê bình vẫn cứ e dè khi nói đến các trào lưu, và buộc lòng họ phải dùng cụm từ “dấu ấn”. Nghĩa là nền văn học và lí luận nước nhà dù có thả cửa, tắm mình trong sinh hoạt văn học thế giới thì nó vẫn cứ nửa mùa mồn một. Câu chuyện nửa mùa này chắc phải để lửng lơ vậy thôi, không tiện bàn nhiều ở đây.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là quy chụp các nhà sáng tác/sáng tạo quê mùa hay những kẻ nhà quê mới lên tỉnh. Chẳng qua là có vẻ họ vẫn còn bỡ ngỡ với con đường rực lòe ánh đèn và thoáng chốc chưa quen với cảnh tượng xa hoa lộng lẫy của văn chương thế giới, kì thực chưa phân định được xa hoa và phù phiếm. Trong khi, chính bản thân họ cũng chưa hiểu mấy về bộ dạng sống áo nếp quần quê nhà mà họ đang mặc trên người.
Quay lại với chuyện chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng ta vẫn thấy ràng ràng là ở trời ta, chuyện hậu hiện đại cũng chỉ là xu hướng hoặc dấu ấn mà thôi[2]. Để nói về một chất điểm phát sóng trên bản đồ hậu hiện đại thế giới với những đóng góp nhất định, như một minh chứng ghi công, dường như chúng ta vẫn chưa có căn cớ nào để tự xướng lấy tên mình. Những Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà,….rồi cả Nguyễn Ngọc Tư nữa, các vị ấy nào có nghĩ đến Hậu hiện đại khi viết. Họ viết như sống. Và sống thì là sống, nào cứ phải là sống kiểu hậu hiện đại. Bằng góc nhìn Hậu hiện đại cũng như xuất phát từ các trào lưu nào đó để nhìn sang địa hạt sáng tác ít nhiều đều mang tính quy chụp và gò ép nó vào khung lồng lí luận. Thế nên nhiều nhà nghiên cứu dùng lí luận để nói điều mình nghĩ và làm sáng thêm cái lí luận của họ mà đánh mất đi “thiên tư” văn chương trinh bạch của khởi nguyên tâm thức sáng tạo, cũng như đã giết chết tác phẩm.
Bàn nhiều như thế, chúng tôi muốn nói đến việc sử dụng quan niệm Hậu hiện đại ở đây để nhìn Nguyễn Ngọc Tư không phải để xác lập một lần nữa các đặc trưng của Hậu hiện đại mà sau rốt là tìm thấy chính cái chân trời nghệ thuật mà người viết đã khởi sinh và người đọc lập thành. Môn phái võ công nào cũng hô hoán về việc thế thiên hành đạo, rat ay trượng nghĩa, giữ cân đạo lí, thế mà phần nhiều đều xiển dương môn phái và gây dựng ảnh hưởng của mình trong lòng thiên hạ. Họ quên mất các thiên chức nguyên khai khởi hoạt ban đầu. Trở lại với phương trời chữ nghĩa, công việc của bất cứ trào lưu trường phái nào cũng là lập định các chân trời hiện hữu tồn hoạt giữa đôi bờ sáng tạo. Đấy chính là xuất phát điểm mà chúng tôi đến với truyện ngắn Từ bỏ của Nguyễn Ngọc Tư bằng cái nhìn Hậu hiện đại.
Xin được nhắc lại đây vài dòng có thể nói là khá rành rõ về sự hình thành và các đặc thù của Hậu hiện đại. Tất nhiên, đây chỉ là một trong số hằng hà vô lượng thoại trình về Hậu hiện đại:
“Có thể hiểu Hậu hiện đại ra đời vào thập kỉ 60  của thế kỉ 20 như là một sự phản ứng lại với chủ nghĩa hiện đại (cái hiện đại), phản ứng lại những mô thức định sẵn. Post (sau) ở đây không có nghĩa chỉ một tiến trình lịch sử, cái này ra đời thì cái kia biến mất, mà là một sự phản ứng trở lại. Cho nên theo nhiều nhà nghiên cứu, Hậu hiện đại là một khái niệm phi thời, nghĩa là trong bất kì xã hội nào, thời kì nào có sự khủng hoảng tinh thần cũng có thể tồn tại tinh thần hậu hiện đại, có chăng ở những giai đoạn gần đây, tinh thần ấy nổi trội, đậm đặc và ở nhiều nơi trở thành chủ đạo mà thôi. Hậu hiện đại mang tinh thần thời đại chứ không chỉ thuần là văn nghệ như một số trào lưu khác (như tượng trưng, siêu thực chẳng hạn). Là một trạng thái tâm thức (state of mind), nên rất khó để định nghĩa Hậu hiện đại là gì, bởi nó chống lại những khái niệm tuyệt đối, chống lại những nguyên lí bất di bất dịch... và chống lại (hay phá dỡ, phá bỏ) đại tự sự”[3].
Và sau nữa, xin được phép xọc thẳng vô vấn đề bằng những rút kết ngắn ngọn về Dấu ấn hậu hiện đại trong văn xuôi từ những năm 2000 đến nay mà sau đợt rửa phèn lần thứ hai, chữ nghĩa An Nam đã thọ hưởng:
+ Trong tính chất đương đại, hàm chứa những mầm mống, dấu hiệu của thi pháp hậu hiện đại.
+ “Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Có thể nói vắn tắt, đó là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh thần của thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, tính áp đặt của cái chính thống, của các phát ngôn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người… Đấy là tinh thần chung nhất”[4].
+ Chủ nghĩa hậu hiện đại không phải là chủ nghĩa hư vô, những người mang dấu ấn hậu hiện đại không phải là những kẻ xét lại.
+ Dường như có sự liên hệ nào đó giữa tư tưởng của Nietzsche về vũ trụ nghệ thuật Dionysus với cảm quan hỗn độn, sụp đổ hoài nghi, ngã ngớn, tán loạn của thời hậu hiện đại. Chẳng phải Nietzsche cũng đã từng nói, ông sẽ bắt đầu được hiểu vào thiên niên kỷ thứ III sau khi Jesus Christ tạ thế đó sao.
Tiếp theo xin phép nói về cô em út, tuy út mà sửa soạn đẹp hơn. Nhưng vì người ta đã nói quá nhiều về Nguyễn Ngọc Tư. Đến nỗi, chuyện khen chê hóa ra lại tầm thường trước những gì Ngọc Tư có thể làm và đã làm được hẳn hoi bằng các tác phẩm của chị. Và trước những khen chê, thị phi cuộc đời phủ rợp trên sáng tác của mình, Ngọc Tư vẫn giữ nguyên vẻ mặt hiền hậu với nụ cười đơn sơ hết biết, với ánh mắt thân quen chan hòa như chái bếp sau hè/ như giàn nước/ như đám ô rô lặng lẽ rì rầm cập mé sông. Vậy thôi ! Ngọc Tư vẫn là Chị Tư Cà Mau “cù lần” hết biết. Nào có e dè ngó ngại gì đến mấy lời chê bai rằng chị chưa ‘Quốc Gia hóa” ngôn từ và thiếu bề dày kinh nghiệm sống để viết truyện. Người ta hàn lâm bác học, chị đâu có “đèo bồng” tới mấy chỗ đó. Chị như bông súng ngoài đồng nước. Đơn sơ là vậy mà ngó thấy hết cả bao nhiêu cảnh đời hì hụp lên bờ xuống ruộng, ba chìm bảy nổi chín lênh đênh của miền sông nước phương Nam. Vậy thôi ! Ai bác học thì cứ bác học.
Đi hết Cánh đồng bất tận, người ta hay nói Chị Tư bắt đầu “đô thị hóa” văn xuôi của mình. Cho rằng chị đã dần mất đi chất Nam Bộ hoặc dã chất Nam Bộ đã nhạt và chị bắt đầu tìm những bờ bến khác. Cũng có nhiều lời “bình loạn” là chị không thể vượt qua được “đỉnh cao” Cánh đồng bất tận của chính mình. Người ta cột và đóng cọc chị Tư vào “Cánh đồng bất tận” mênh mông đó. Người ta không cho chị bước tiếp và sống tiếp. Như vậy liệu có kì cục quá hay không ? Nguyễn Ngọc Tư cũng như con sông quê. Mỗi sáng tác thể hiện một chặng đường thể nghiệm trên văn nghiệp của chị. Mỗi tác phẩm là một trắc diện trong đời văn của chị. Cần có cái nhìn tổng thể nhưng không thể bó buộc người viết vào một sáng tác nào đó và quy trục những tác phẩm sau nữa. Cái nhìn như vậy có lẽ đã sa vào thụ động, cố định và thiển cận.
Sau đây, chúng tôi xin phép trích ra vài dòng. Chung quy là những lời bình phẩm, đồn đoán về văn nghiệp của chị mà chúng ta có thể dễ dàng xem biết:
-  Nguyễn ngọc tư đặt trong vùng văn hóa Nam Bộ, đặt trong bối cảnh văn học Nam Bộ đương đại với đặc điểm lượng lực sáng tác ở khu vực này, và chị tiêu biểu cho lớp người viết mới ở vùng đất này, lớp người viết tiệm cận với tính cách đương đại của vùng đất này.
-  Nguyễn Ngọc Tư nhà văn viết về con người Nam Bộ, thể hiện triết lý nhân sinh của con người Nam Bộ, dấu ấn Nam Bộ từ ngôn từ, bối cảnh đến tư tưởng- đặc sệt dấu ấn vùng văn hóa sông nước.
-  Tính nhân văn cao đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
-  Giọng điệu “hiền như cục đất” nhưng thấu đáo và thương tâm đến tận xương tủy
-  “Khác với thế hệ của các nhà văn như Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,… Nguyễn Ngọc Tư đã tạo cho mình một phong cách văn chương đặc sắc, chuyên biệt từ những trang viết đầu tay. Đó là việc xây dựng hệ thống nhân vật như con người thật ngoài đời, không chú trọng xây dựng mẫu nhân vật điển hình mà tập trung khai thác vào chiều sâu tâm lý của nhân vật qua đó khái quát về số phận, đưa ra những nét đặc trưng trong tính cách và chất người lao động nghèo ở Nam Bộ”[5]. Chị Tư vẫn giữ được cái vẻ đẹp chân chất, cắm chân và tâm lòng vào miền quê sông nước Nam Bộ nhưng Nam Bộ với những niềm đau nhức của thời đương đại.
Bấy nhiêu có lẽ cũng đủ bao quát về đời văn và chất văn của Ngọc Tư. Nhưng chúng ta không nên nói quá nhiều. Chẳng phải dân ta đã có nhắc: thần nói nhiều quá lại không linh đó sao.
2.                       Câu chuyện đời trôi sông lạc chợ hay sự lên ngôi của tiểu truyện trong Một mùa sương thức

Như đã nói, ở xứ sở của chúng ta, khi ai đó nói đến Hậu hiện đại thì có nghĩa là dấu ấn hoặc cảm thức. “Cảm thức hậu hiện đại là một lối cảm nhận về thế giới như là hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức; nơi mọi bảng giá trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô vọng. Con người không còn tin vào những gì lâu nay họ từng tin: Thượng đế hay Nhà nước, Tổ quốc hay Con người, Chân lí hay Lịch sử,... Mọi “nỗ lực khôi phục trật tự đẳng cấp, hoặc những hệ thống ưu tiên nào đó trong cuộc sống, đều vô ích và không thể thực hiện được” (I.P. Ilin). Nhận thức thế giới của con người luôn là nhận thức đầy thiếu khuyết. Mọi tri thức không gì khác thứ hiện tượng được diễn dịch đầy chủ quan bằng giải trình ngôn ngữ (discourse), hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân. Còn hơn thế, nó là một trò chơi ngôn ngữ. Trong lúc ngôn ngữ như phương tiện diễn đạt “chân lí” cũng không đáng tin cậy”[6]. Một mùa sương thức chính là một mê lộ như vậy. Cõi mù sương của Bùi Giáng có lẽ đã “lây lan” sang tận cõi hẻo hút tuyệt mù vô tận vô hạn đích của kiếp người trôi nổi mà ở đâu đó trong tâm thức miên man của thời đương đại hãy còn chồm ra bàng bạc trên các con chữ của Ngọc Tư. Sự hỗn độn, mơ hồ và bất khả luận giải. Để giải thích và tìm kiếm động cơ cho sự du hành vào đêm tối của nhân vật Tôi và Nhu là điều vô nghĩa. Bởi đó chỉ là cái cảm thức. Một nền tảng bất định của nhận thức kết tạo từ mối tổng hòa các cảm ứng với đời sống tạo nên tâm thế của nhân vị trong tương quan với sự thể hiện tồn hữu của đời sống đã lập thành ý hướng lao mình vào đêm tối. Và để phân tách và làm cho rõ ngọn ngành ý hướng đó nghĩa là phải “xẻ thịt phanh thây” con chữ để tìm cái ý hướng đó. Điều này cũng đồng nghĩa là hủy diệt ý hướng mà chúng ta muốn tìm kiếm hay nói khác đi là muốn giải thích tuyệt mù chúng ta lại càng lao vào một tuyệt mù khác. Bất khả ! Bất khả ! Đó chính là tính chất phi nhị nguyên, phi nhất nguyên, phi phi nhị nguyên, phi phi nhất nguyên của tâm thế hậu hiện đại. Có lẽ “sự ngã đổ” “nhào té” “ngã ngớn” tan vỡ, “tâm thức hỗn mang” này là hạt giống Dionysus mà Nietzche đã gieo mầm vào cõi lòng nhân loại năm nào. Tất nhiên, khó nói rằng Ngọc Tư có đọc và cảm thụ Nietzsche hay không (ai mà biết được dưới Cà Mau người ta có bán sách Nietzsche hay không, chỉ là chuyện tầm phào), nhưng có thể nói trong cái tình thế đương đại và sự cảm ứng của nhân vị Ngọc Tư với sự thế hiện hoạt bấy giờ đã trở thành mảnh đất hoạt sinh cho ý hướng hỗn độn ấy nảy mầm. Nào là “Tôi”, Nhu, Nhã, Mỹ, má Cần đều lạc bước vào cõi thị hiện vô hạn, bởi do hoài niệm và triệt sản niềm tin, ngay cả niềm tin cũng đã biến dạng, niềm tin cũng phi nghĩa phi lí, như niềm tin của chàng trai 17 tuổi, như niềm tin của Mỹ về một giấc mơ Mỹ và câu hỏi cay đắng ắp ủ mãi trong lòng. Sự phi lí và phá sản của niềm tin gây ra bất khả nhận thức và các nhân vật đành lí giải đời sống bằng khái niệm “bốc hơi”. “Cảm thức thế giới là hỗn độn, “khi mọi trung tâm không chắc chắn, các nhà hậu hiện đại chấp nhận sự hỗn độn như là một sự kiện và sống một cách thực tế, xâm nhập vào nó bằng “tình cảm mật thiết” (I.P. Ilin). Thâm nhập thực tại, họ vượt bỏ niềm tin vào các đại tự sự (grand narratives) - nói như Lyotard, chỉ là “các hệ thống giải thích”, những thứ chính thống hóa, toàn trị hóa quan niệm về thời đại vừa phiến diện vừa mang ở tự thân sự bạo động”[7]. Ở Một mùa sương thức, chúng ta có thể nhìn thấy sự phá sản của các đại tự sự và tính chất chính thống toàn trị như cách phân tích và viện dẫn của Inrasara. Bắt đầu là hoài nghi, phá sản niềm tin, dần trôi về phi lí và cuối cùng là bất khả luận giải để lập thành cõi giới hỗn độn mù sương. Phải chăng chính tâm thức Ngọc Tư cũng lạc vào đêm khuya sương phủ tuyệt mù của “tính mệnh” thị hiện hoạt tồn. Hẳn nhiên Ngọc Tư không thể chối điều đó. Nhưng kẻ đọc không thể bám vào đó để truy vấn. Sự truy vấn hỗn độn bất khả ấy đang đặt ra cho chính người đọc.
Về mặt nào đó, viết nghĩa là dịch, sự tái thiết lại, tái lập thành đời sống ở một dạng thức tồn hữu khác. Và người viết chỉ sắp xếp lại bằng một thủ pháp nào đó để đời sống được nối dài và trở lại trong một cách tiếp nhận khác. Người viết đã chuyển dịch đời sống từ thực tiễn vào một thực tiễn khác – thực tiễn sáng tạo. Thế nên, viết đã là sự tháo rời các trắc diện của đời sống và tái thiết lại. Với cảm quan hậu hiện đại, đó là sự tháo rời để lắp ghép. Nghĩa là về cơ bản, viết đã là sự phá vỡ. Trước hết là sự phá vỡ các kết thức đại tự sự. Đã có thời, văn học nổi cộm các mẫu tượng “anh hùng” phổ quát. Kiểu như dân tộc Việt có một mẫu thức chung bất di bất dịch. Nhưng với sự phá vỡ của Hậu hiện đại, các mẫu thức sụp đổ và sự đặc thù lên ngôi. Cái riêng biệt, phi chính thức, cái cá biệt, thậm chí lập dị được “ngó tới” và thể hiện trên trang văn. Và khi từ lúc xuất hiện, Ngọc Tư đã đứng về phía các đặc thù nghịch dị của thân phận người như vậy. Phải chăng chính vì thế mà xung quanh các tác phẩm của Ngọc Tư ở thời kì đó vẫn ra rả vang lên lời ong tiếng ve châm chích chui chọt om cả tai. Và cho đến bây giờ, Ngọc Tư vẫn còn đứng về phía các nghịch dị, thậm chí lập dị, quái gỡ. Phải chăng ở đó, Ngọc Tư nhìn thấy “tính mệnh” được biểu bày phô trượt một cách trắng trợn. Không chắc về định hướng đó, nhưng thông qua các hình tượng nhân vật có vẻ “kì cục” đó, nhà văn đã gây dậy được sự hoài nghi và ưu tư trong lòng người đọc. Bằng các hình tượng: má Cần (ông bầu mà cũng là bà bầu đoàn tạp kĩ), Mỹ, Nhu, Nhã, Tôi và “nhân vật Bóng Tối”, người viết đã cầm tay dẫn lối người đọc vào mê lộ của nhân sinh. Và thế là, việc phá vỡ các đại tự sự không còn là việc của nhà văn nữa mà còn là hành động của người đọc. Thế giới hiện ra trong sự hỗn tạp, đa dạng, đặc thù muôn vàn của nó và tính mệnh là sự đa mang. Suy cho cùng, cõi người cũng chỉ là chuyến hành trình lưu đày của những kẻ trôi sông lạc chợ. Má Cần nhặt được Tôi và chị Mỹ cũng như nhặt được chị em Nhu và Nhã. Kiểu như các nhân vật bị ai đó vứt ra đời sống “ngộp đày” bóng tối, và cứ thế mải miết đi vào bóng tối chật ních muôn trùng. Đoàn tạp kĩ cập hết bến này bãi nọ và thành viên đoàn cứ lần hồi “bốc hơi”, khiến cho đoàn ngày càng èo uột, teo tóp, cằn cộc, kiệt quệ, chẳng khác gì thân thể què quặt, rã rũ từng ngày của Nhu vậy. Những kẻ trôi sông lạc chợ từ hư vô đến trong bóng tối rồi bốc hơi vào bóng tối trở lại hư vô. Sự tan biến của phi lí bất khả luận giải cũng giống như cách mà họ có mặt ở đời.
Với những dạng thức như vậy, Ngọc Tư thường có lối viết nhẹ tưng, kiểu như dửng dưng, hờ hừng, viết thì viết vậy thôi, có vẻ rỗng hoắng và không để tâm. Nhưng, chính cái kiểu hờ hững đó khiến cho bạn đọc đôi khi “hú hồn”. Bởi Ngọc Tư đạp đổ các “đại tự sự” một cách nhẹ nhàng. Đó là việc hoài nghi đối với các thành kiến các quy phạm xã hội. Những siêu phổ quát tồn hữu trong tâm thức cộng đồng. Hay có thể gọi là “Lẽ Thường”. Ngọc Tư cắt đứt dòng chảy của cái “lẽ thường” đó. Để bày ra một “sự thường tình” khác. Và “sự thường tình” khác này cũng đáng kể như cái “Lẽ Thường” kia vậy. “Loanh quanh chỉ năm ba con đường, những con chó xớn xác nồ theo bước, làm sự yên tĩnh trở nên đục ngầu. Chẳng bất ngờ nếu gặp một toán tuần tra không mấy thân thiện hỏi muốn chi mà rình rập ở đây? Khó mà tìm ra lời giải thích nào cho hợp lẽ thường, bởi lẽ thường của họ đơn giản: khuya phải ngủ, ngủ không được thì nằm im mà đếm sao, cớ gì ra đường dầm sương. Lẽ thường không được nuôi dưỡng trong bóng tối”[8]. Bóng tối là địa hạt của tiểu truyện của những cái “lẽ thường” khác. Lẽ thường của ánh sáng phổ quát coi bóng tối và “lẽ thường” của bóng tối là dị thường. Kì thực, không có sự dị thường. Chỉ là lẽ thường của ánh sáng và lẽ thường của bóng tối khác nhau mà thôi. Nhu và chàng trai 17 tuổi du hành vào bóng tối của đêm, đối với họ, cũng hết sức bình thường như người ta sinh hoạt làm việc ban ngày vậy. Một số người sống ban ngày và một số người sống ban đêm. Họ là người sống ban đêm thế thôi. Chỉ đơn giản đêm tối và sương khuya là cái họ thuộc về. Sao lại dùng luận lí của ánh sáng để lí luận với lẽ thường của bóng tối. Chỉ đơn giản là chuyện của đêm, tiểu truyện của bóng tối, chuyện của mê lộ lưu đày sương thức. Cho nên Một mùa sương thức là luận lý về lẽ thường của bóng tối.
Như đã nói ở trên, sự sụp đổ của các siêu đại tự sự xuất phát từ hoài nghi, mất niềm tin và khủng hoảng. Bản chất của Hậu hiện đại là hoài nghi và khủng hoảng[9]. Thế nhưng cơn cớ vì sao mà lại khủng hoảng. Khi các thần tượng Ánh sáng sụp đổ và nhân loại nhận ra các ảo tượng bấy lâu nay vẫn tôn phò chỉ là điều giả trá, bấy giờ con người buộc phải đứng trước hư vô. Và hư vô còn đáng sợ hơn bi kịch của hữu sinh. Các nhân vật của Ngọc Tư trong Một mùa sương thức bị bao trùm trong màn tối hư vô như vậy.
Tất nhiên, các nhân vật của Ngọc Tư rõ ràng không thực sự đứng trước một cuộc khủng hoảng nào rõ ràng. Tuổi 17 không hẳn là một niềm rúng động đáng sợ với các vận hội cần phải đối diện. Tuổi 17 của nhân vật tôi là sự thể nghiệm của bước đường dấn thân vào hư vô. Hơn thế, các nhân vật của Ngọc Tư trong câu chuyện này cũng không thực sự phủ định thực tại, nhưng bằng thái độ lao mình về hư vô (bóng tối) mà chính bản thân nhân vật cũng không thể lí giải thì điều đó đã là một sự chối bỏ. Và chối bỏ đến mức không thể lí giải là một thái độ phủ nhận tuyệt đối. Và chính ở hai khía cạnh này, câu chuyện mà Ngọc Tư mang lại ở đây đã khoác lên mình hơi hướm của tinh thần Hậu hiện đại hơn bất cứ tác phẩm giống trống thổi kèn hô hào về Hậu hiện đại nào đó. Ấy là sự bình thản của người viết. Chính sự bình thản, không gân guốc đã cơi nới địa vực tác phẩm. Do thế, không gian văn bản có thể đong đầy nhiều cái nhìn khác nhau.
Và tất cả những gì chúng ta đang bàn viết đến đây, bỗng dưng, lại nhắc nhở không ngờ đến một cây viết thời Việt Nam Cộng Hòa mà sức ảnh hưởng của ông dù đã bụi lầm cát phủ vẫn không thể khiến cho hậu thế chối bỏ. Thanh Tâm Tuyền. Từ Nỗi buồn trong thơ hôm nay đến Nghệ thuật đen[10] là một sự khẳng định mạnh mẽ của vũ trụ luận Dionysus và con đường tiến đến phi đại tự sự. Hay nói khác đi là con đường mà Thanh Tâm Tuyền đi từ thơ đến văn xuôi (dù cơ duyên của ông với Văn xuôi có đến trước). Sự hoài nghi, sụp đổ, hỗn loạn trong tinh thần Hậu hiện đại phải chăng là một biểu hiện khác của bóng hình Rượu Nho. Và chất Đen-Mọi trong tuyên ngôn về nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền đã là tiếng nói trước tiên như một phát ngôn đỉnh đạc của tính chất phi đại tự sự. Khi mà tiếng nói của Mọi và những kẻ bên lề - những gì vốn không đáng kể, vốn dĩ bị ánh sáng mực thước của vầng thái dương chói lòa phủ nhận, những “tiểu truyện”- Mọi ấy được lên tiếng. Cuộc đảo hoán vẫn tiếp tục. Phải chăng Thanh Tâm Tuyền đã tìm thấy và gieo những hạt mầm ấy cho mùa sau. Hẳn nhiên ở đây, chúng ta cũng không kéo Ngọc Tư về phía Thanh Tâm Tuyền. Đó là điều hết sức nực cười. Nhưng các tiểu truyện được thể hiện trong sáng tác của chị (Một mùa sương thức, Từ bỏ) thời gian gần đây đã thực sự là tiếng nói bênh vực cho kiếp Mọi. Có lẽ người ta đã chán ngấy sự điển hình và mẫu mực, chán ngấy các hình ảnh anh hùng giai nhân, chán ngáy các âm vang hô hào khẩu hiệu, chán ngấy các hình tượng quen thuộc nhan nhản trong các sáng tác dễ giải; người ta bắt đầu “ngó lại” các ảnh hình lờ mờ dò dẫm đi lại giữa đời sống và bắt đầu phát hiện ra ở đó những ngõ lối mơ hồ dẫn về hiện thể của đời sống. Phải chăng chính ở Mọi, ở những tiểu truyện như bọn người được nhặt lại rồi vứt vào sa mù cuộc đời như Nhu, Nhã, Tôi, chị Mỹ…đã dẫn độ tinh thần người đọc vào tâm thức mờ tối – cái góc khuất mà con người ít khi mò tới. Phải chăng sự mực thước của Apolo đã ngăn lối đi về, để cho nhân loại tự bó mình trong vòm ánh sáng chói lòa và một ngày phát hiện khoảng mờ tối vô định của nhân tính và nhân sinh. Phải chăng, chính ở khía cạnh này, tinh thần phủ định của Hậu hiện đại chính là khả thể của sự đánh thức – thức tỉnh tính mệnh. Và có thể nói thêm, sự thức tỉnh này không chỉ đối với các nhân vật trong Một mùa sương thức mà còn là sự thức tỉnh đối với bạn đọc. Tất nhiên, thức tỉnh về hư vô không có nghĩa là triệt tiêu hư vô. Chỉ là khẳng định kinh nghiệm hư vô cũng đáng kể như kinh nghiệm về hữu hiện. Hay nói khác đi, tiếng nói của Mọi và các tượng đài chính thống đều ngang hàng dưới ánh sáng mặt trời.
3.                       Xu hướng ngoại biên hóa qua Một mùa sương thức - chuyến du hành vào mê lộ bống tối
Để tiếp tục câu chuyện du hành vào kiếp mọi, chúng ta có thể nhắc nhở lại vài lời của J.F. Lyotard qua cái nhìn của nhà nghiên cứu Phương Lựu: “Chính vì thế mà thời đại đã thay đổi, và J. F. Lyotard khẳng định thực chất của tính chất hậu hiện đại là phải cự tuyệt “nhận thức chúng” mang tính tổng thể, ra sức ủng hộ nhiệt tình cho những diễn ngôn dị chất, đa nguyên, những tiểu tự sự vi mô, ủng hộ cho việc không ngừng hình thành và tan rã của các loại trò chơi ngôn ngữ cùng sự thay thế giữa các luật chơi. Ông kêu gọi phải đi tìm cái khác lạ, lắng nghe những tiếng nói chìm lặng khắp nơi, hay để cho những ai giữ im lặng phát biểu, nói ra cho được những nguyên tắc và quan điểm trái với số đông. Đó mới là nguyên tắc hàng đầu của sự công bằng, chính trực trong xã hội”[11]. Phải chăng sự khủng hoảng của vật lí học cổ điển và sự phát triển vượt bậc của vật lí học tượng tử, hay sự phát hiện ra các hạt hạ nguyên tử cũng như sự thiết lập cách nhìn về thế giới 4 chiều và “n” chiều đã đập một vố mạnh vào sự xác tín và thói tự mãn của nhân loại để người ta bắt đầu chú ý đến những ý kiến bên lề. Các tiếng nói chính thống dường như đã mất uy tín. Người ta đi tìm các tiếng nói ngoại biên và xem xét lại nó với tất cả sự công bình có thể có được.
Đối với vấn đề phi đại tự sự trong một số tác phẩm truyện mang dấu ấn Hậu hiện đại ở Việt Nam gần đây, nhiều nhà nghiên cứu thường diễn giải kèm theo tính chất phi trung tâm hóa. Cơ hồ, hai tính chất này cố nhiên song hành trong quan niệm về tính chất Hậu hiện đại. Tuy nhiên, tính chất phi trung tâm hóa không chỉ là xu hướng “hạ bệ” tính chất chính thống và di chuyển về các tình thế “ngoại biên” trong ý hướng trần thuật mà hơn thế, tính chất phi trung tâm còn là sự xóa nhòa ranh giới giữa trung tâm và ngoại biên. Nghĩa là không còn cái gì là trung tâm hay ngoại biên nữa. Đó là sự toàn triệt trong thái độ hoạt động văn học. Phá bỏ phiên biệt và hạn giới chính là bản tính của Phi trung tâm hóa. “Một nhà văn hậu hiện đại đúng nghĩa mang cảm thức hậu hiện đại chưa đủ, hắn cần thể hiện thái độ giải trung tâm (decentralization) trong mọi hành động văn học (không phân biệt trung tâm với ngoại vi các loại), giải khu biệt hoá (de-differentiation) từ thể loại cho đến ngôn từ,… Ở đó, giọng đặc trưng là giễu nhại (parody) với tinh thần văn phong phi nghiêm cẩn (unseriousness) thể hiện qua các thủ pháp đặc thù. Không thể khác”[12]. Có lẽ điều này được thể hiện qua sự thản nhiên của Ngọc Tư trong khá nhiều truyện ngắn gần đây. Và truyện ngắn Một mùa sương thức lại là một thản nhiên nữa trong tâm thế xóa nhòa lằn ranh giữa trung tâm và ngoại biên. Bởi do người viết cũng đã gạt bỏ đi sự phiên biệt giữa trung tâm và ngoại biên. Kể là kể thôi. Điều mà người viết hướng đến chính là các ấn tượng mang lại trên dòng diễn ngôn.
Và thế là, trên địa hạt văn bản, chỉ còn các chất điểm ấn tượng. Đó là các đóm sách le lói và giữa chúng là các khoảng mờ tối để người đọc dò dẫm bước vào. Đó là vương quốc mà người đọc phải là người nối lại các ngã đường. Bởi chính người viết, và nhận vật của kẻ viết chỉ là một phát ngôn nửa vời. Như đã nói ở trên, việc luận lý với các chi tiết và hành động của nhân vật trong câu chuyện là bất khả và hoàn toàn vô nghĩa. Do đó, sự dấn thân của nhân vật cũng như việc dấn thân của kẻ đọc chỉ là việc bước vào mê lộ. Thế tại sao gọi là mê lộ ? Mê lộ bởi vì sự bất khả luận giải ở kẻ viết – nhân vật – kẻ đọc. Mê lộ bởi vì đi không phải để đến, đi chỉ để mà đi thôi. Nghĩa là Chối bỏ và Khước từ - chính điều đó đã dẫn lối cho nhân vật đi vào mê lộ. Câu chuyện bây giờ chỉ là một kinh nghiệm không cứu cánh không mục đích.
Thế thì vấn đề đặt ra “chình ình” cho chúng ta, chính là: Vậy thì Ngọc Tư đã phá bỏ phiên biệt, ranh giới như thế nào ? Về mặt nào đó phủ định cũng là truy vấn và bắt đầu truy vấn là bắt đầu lật lại vấn đề, nghĩa là phủ định. Đó là cơ chế vận hành của diễn ngôn. Ở Ngọc Tư, cái nhìn truy vấn của chị đặt ở chỗ ngó lại các cách thế hiện tồn khác biệt. Điều đó tạo nên các diễn ngôn dị chất hay việc xây dựng các hình tượng nghịch dị[13], hay nói khác đi là kết hợp các khía cạnh trái ngược nhau vào cùng một đối tượng. Để thông qua đó chuyển tải tính chất đa nguyên của diễn ngôn. Và mọi đối tượng dù kì quặc hoặc dị biệt đều có giá trị ngang hàng nhau. Các nhân vật ở câu chuyện này hầu hết đều là một khối mâu thuẫn, nếu như không nói là một mớ hỗn độn muôn trùng. Tôi – một cậu nhóc 17 tuổi vừa là chồng, vừa là người đàn ông trưởng thành bất đắc dĩ.
Và trước hết, đây là câu chuyện của một đoàn tạp kĩ tỉnh lẻ, tạm bợ và lầm lũi vùi mình vào bóng tối. Ở đó toàn là những kẻ không bình thường. Ai cũng mang cho mình những đa chấn tâm lý. Nếu như không nói là họ mang những dấu hiệu của kẻ loạn thần kinh. Nhưng Ngọc Tư không viết như thể họ là những kẻ loạn thần kinh. Bởi kẻ loạn thần kinh và những kẻ thuộc về địa hạt chính thống không còn ranh giới, không còn phiên biệt nữa. Mà Ngọc Tư chỉ trình bày ra một dạng sống khác. Đó là Phi trung tâm hóa của chị vậy.
Tiếp theo chúng ta có thể tìm thấy thêm một vài bằng chứng nữa về sự phá bỏ phiên biệt và ranh giới trong câu chuyện này ở một vài khía cạnh nữa.
Bối cảnh truyện là một địa phương xa xôi hẻo lánh, mơ hồ nào đó. Có thể là bất cứ đâu, bất cứ thời nào. Không tính và thời tính bị xóa nhòa. Đó là cách Ngọc Tư khiến cho người đọc bớt bị trói buộc bởi các thông tin của truyện. Bởi người viết muốn kẻ đọc lạc lối vào cõi giới sương thâu mù khắp của đêm tối hắt hiu leo loét, để bị thôi miên trong các ấn tượng cảm giác được mang lại.
Cách xây dựng không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật: không gian hẻo lánh, heo hút, để gợi nên cảm giác lạc loài bơ vơ, đó là chủ tính trong cảm thức hậu hiện đại; thời gian: đêm khuya, bóng tối và bơ vơ, khi mà nhân vị đối diện với hư vô và sự trống rỗng trong lòng mình. Đó là cái khung lồng hình ảnh nhân vật vào đó. Chuyện đời của những kẻ được nhặt lại, nghĩa là những kẻ cơ bản đã bị vứt ra bên ngoài, mang vết thương mãi mãi trong tâm thức. Không rõ nguồn gốc nên hư vô càng lớn, càng băn khoăn khôn nguôi về sự có mặt ở đời. Và các suy tư ưu buồn càng lao mình vào tuyệt mù bóng tối để cố gắng lí giải điều đó, nhưng sự lí giải chỉ để mà lí giải mà thôi[14]. Nghĩa là càng muốn tự vấn, truy vấn sự thể chính mình và đời sống càng thấy rằng việc làm đó bất khả, nhận ra sự thật không cần phải luận bàn cho tường gốc tích. Bởi cuộc đời của Nhu, Nhã, Tôi, chị Mỹ đều là do má Cần nhặt lại được, nghĩa là đâu có cuộc đời. Trên hành trình đi tìm cuộc đời của chính mình, họ lập thành đời mình. Sự truy vấn vô hình trung trở thành cứu cánh của sự thể có mặt này. Và như thế là… khi truy vấn kết thúc đồng nghĩa sự thể hiện hữu cũng không còn. Nhưng không thể như thế được. Sống cơ hồ là để truy vấn về chuyện sống. Hay nói khác đi, truy vấn về cuộc sống chính là sống vậy. Bóng tối chính là biểu tượng cho sự tuyệt mù vô tận của sự truy vấn đối với hư vô của hiện tồn. Bát ngát, rợn ngợp, ngút ngàn.
Giữa không gian nghệ thuật như vậy, có vẻ các nhận vật bỗng trở nên mờ nhạt. Nghĩa là sự tập trung của người đọc vào nhân vật trước đây đã không còn nữa. Hẳn nhiên, nhân vật vẫn chưa thật sự bị gạt bỏ hoặc bị đồ vật hóa như tiểu thuyết mới, nhưng phần nhiều những sáng tác gần đây của Nguyễn Ngọc Tư dường như đã trôi vào làn sương mờ hư huyễn[15]. Các dấu ấn nhân vật không còn đậm đặc như thời viết Cánh đồng bất tận với các ấn tượng xoay quanh nhận vật mà nhân vật ngược lại đã nhường chỗ cho ấn tượng cũng như trong cảm quan hậu hiện đại, các nhân vật có xu hướng tiêu biến. Sự tiêu biến ở đây có nhiều nhà nghiên cứu gọi là mờ hóa. Chẳng hạn như cách phân định của Nguyễn Thị Bình, nhà nghiên cứu gọi lối xây dựng nhân vật ấy là mờ hóa, tẩy trắng: “bị tác giả xóa bỏ hầu hết đường viền nhân thân, tính cách chúng bị phân rã, trở thành một ý niệm, một trạng thái tâm lý, một ám ảnh…”[16] . Và điều đó cũng đi vào sự tiếp nhận của người đọc. Thế nên dấu vết còn đọng lại ở người đọc thường là một cảm thức về thân phận, chứ không phải là một ảnh tượng về con người nào đó. Và cái tạo nên tính chất cảm thức đó là nỗi ám ảnh thông qua việc “cứa” vào trang viết bằng những ấn tượng sắc nét (chứ không còn quá chú trọng xây dựng nội dung)[17].
Và cái ấn tượng sắc nét ở đây, cần phải nói thêm, rằng nó gây ra ở người đọc một cảm thức vượt thoát khỏi sự luận giải (vượt thoát đúng sai, vượt qua thiện ác). Bởi sau khi đắm mình vào đêm trường viễn đích của các nhân vật, người đọc không ngã vào việc lí giải và đánh giá về thân phận nhân vật, hơn thế, người đọc ngã vào “từ trường của tính mệnh” – sự cảm nghiệm tính mệnh và để cho cái cảm thức đó đầy ứ trong lòng. Vì sao ? Vì bạn đọc đã nhìn thấy sự truy vấn không thôi của nhân vật và cũng thấy rõ sự truy vấn đó là vô vọng. Càng phủ định càng đi vào hố thẳm, không gian truyện hỗn độn và ngày càng tụt mất. Chính đều đó, ý hướng của người đọc buông ra, ngã xòa vào trường cảm xúc mà ấn tượng mang lại. Thế thôi ! Người đọc trôi vào dòng chảy đó, và việc gì phải bàn nhiều về nó. Có lẽ, đời sống là cái gì đó cứ trải qua thế thôi. Phải chăng chính ở điểm này, văn xuôi Ngọc Tư đã vượt qua một chặng đường khác. Ít nhất là đã vượt qua được phong cách viết trước đây mà nhiều người vẫn hay gán cho chị từ thời chị viết Cánh đồng bất tận. Chúng tôi đã nhìn thấy một Ngọc Tư khác, một trắc diện Ngọc Tư khác và ít nhiều mang lấy dáng dấp của hoài nghi, của sụp đổ. Chúng tôi không vội gán cho Ngọc Tư tính chất Hậu hiện đại. Hơn thế, chúng tôi cho là có thể nhìn thấy một phần nào đó tính chất Hậu hiện đại trong văn xuôi của chị.

Kết luận
Đến đây, chúng ta có thể trở lại với các vấn đề về lí luận phê bình, đặc biệt khi mọi người vẫn còn đang nói nhiều về Hậu hiện đại.
Giới phê bình Âu Mỹ rồi các nhà phê bình Việt Nam cứ bàn luận/bình loạn suốt ngày về các vấn đề lý thuyết Hậu hiện đại. Kiểu như Hậu hiện đại là một mẫu áo mới thời thượng và ấn tượng. Nhưng tính chất Hiện đại và Hậu hiện đại chỉ là một dạng trá hình của cặp phạm trù “phổ quát” và “dị biệt”. Và các tính chất được gán cho mỹ danh Hiện đại hay mỹ danh Hậu hiện đại kì thực vẫn luôn tồn tại bấy lâu nay trong tư duy và đời sống nhân loại ở hầu khắp các lĩnh vực. Đó là sự thay đổi/ vần xoay/ thay phiên giữa “cái trật tự” và “cái hỗn loạn”, giữa tâm thế “khẳng định” và “phủ định”, giữa “xác tín” và “hoài nghi”. Trong thể tính của Hiện đại và Hậu hiện đại, suy cho cùng là không có gì mới mẻ và việc gán cho danh xưng Hiện đại hay Hậu hiện đại chỉ là một cách gán ghép hạn hẹp và vạn bất đắc dĩ. Kì thực đó chỉ là các dạng thức khác của một tâm thức đã có bấy lâu nay trong tư duy nhân loại. Thế nên, nhà phê bình đem theo cái “lồng” Hậu hiện đại “mò tới” văn bản văn học nên nhà phê bình chỉ nói cái họ nghĩ, nhà phê bình chỉ nhìn thấy và tìm thấy chính mình mà thôi. Giới sáng tác khá dửng dưng với các khái niệm đó. Trong số đó, Ngọc Tư là người dửng dưng “hơi bị nhiều”.
Chung quy, chúng tôi đề cập đến việc này là muốn nhấn mạnh rằng: việc ứng dụng góc nhìn Hậu hiện đại trên tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ để làm rõ tính chất Hậu hiện đại mà còn tìm thấy Nguyễn Ngọc Tư trong cách thế của một lối luận giải riêng biệt. Nói không phải để ép uổng cho ra “cái Hậu hiện đại” mà nói làm sao cho ra được chính Ngọc Tư trong sự luận giải phiên biệt đặc thù. Hay nói khác đi là chúng tôi nói về sự lên ngôi của tiểu truyện để mang lại một luận giải khác về cảnh trôi sông lạc chợ. Và đây là một cuộc giao thoa – một hiện tượng. Nghĩa là một hiện tượng với tính chất hoàn toàn “duy nhất”. Để mối giao thoa này là một hiện tượng thể hoạt đặc thù hoàn toàn độc đáo biệt dị. Chúng tôi cho rằng Tinh thần Hậu hiện đại được thể hiện trong bài viết này chính là ở chỗ như thế.
Tài liệu tham khảo
1.      Nguyễn Thị Bình. (2013). Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết hậu hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam). Hà Nội: Nxb. Tri Thức, tr.236-237.
2.      Nguyễn Hồng Dũng. (2016). Ảnh hưởng của chủ nghĩa Hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010. Luận án Tiến sĩ Văn học Trường Đại học Khoa học Đại học Huế, tr.62.
3.      Nguyễn Thị Hà. (2012). Dấu ấn Hậu hiện đại trong tiểu thuyết Thập Tam Bộ của Mạc Ngôn. Luận văn Thạc sĩ Văn học. Đại học Khoa học xã hôi và Nhân văn: Hà Nội, tr.6.
4.      Phương Lựu. (?). Lý thuyết văn học Hậu hiện đại. Hà Nội: NXB ĐH Sư phạm, tr.84.
5.      Nguyễn Thị Thúy Nga. (2016). Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học. Đại học KHXH&NV-ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.1.
6.      Thanh Tâm Tuyền, Nghệ Thuật đen, Talawas.org
7.      Nguyễn Ngọc Tư. (2018). Cố định một đám mây (truyện ngắn). Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng.
8.      http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c243/n8627/Chu-giai-ngan-ve-hau-hien-dai.html
11. http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=8027


[1] Thật ra không phải đến thời kỳ này dân ta mới được rửa phèn. Trước đây đã có thời Saigon là hòn ngọc viễn đông kia mà. Chỉ là sau mùa hè năm ấy, dân ta tự nhiên phèn trở lại. Nên đâm ra phải đổi mới để rửa phèn lần nữa.
[2] “Tiếp theo họ, các nhà văn theo xu hướng hậu hiện đại thế hệ thứ hai là Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Đặng Thân, Mạc Can, Châu Diên, Lê Anh Hoài, Thuận và muộn hơn một ít là Nguyễn Đình Tú, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Cao Sơn, Vũ Đình Giang, Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư… đã rộng bước hơn trên con đường sáng tạo”. Nguồn: Nguyễn Hồng Dũng. (2016). Ảnh hưởng của chủ nghĩa Hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010. Luận án Tiến sĩ Văn học Trường Đại học Khoa học Đại học Huế, tr.62.
[3] http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/liluan-phebinh/693-tn-mn-v-hu-hin-i-va-i-t-s-trong-vn-hc-vit-nam
[4] https://phebinhvanhoc.com.vn/dau-an-hau-hien-dai-trong-van-hoc-viet-nam-sau-1986/
[5] Nguyễn Thị Thúy Nga. 2016. Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học. Đại học KHXH&NV-ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.1.
[6] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c243/n8627/Chu-giai-ngan-ve-hau-hien-dai.html
[7] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c243/n8627/Chu-giai-ngan-ve-hau-hien-dai.html
[8] Nguyễn Ngọc Tư. (2018). Cố định một đám mây (truyện ngắn). Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, tr118-119.
[9] Theo Nguyễn Hưng Quốc: “Cho chủ nghĩa hậu hiện đại là sự đánh mất niềm tin đối với các siêu tự sự, Jean-François Lyotard đã lấy niềm tin làm cơ sở để định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại. Không phải một mà có tới hai niềm tin: niềm tin vào các siêu tự sự và niềm tin vào tính bất khả của các siêu tự sự ấy. Dựa trên niềm tin, chủ nghĩa hậu hiện đại, ngay từ đầu đã gặp khó khăn trong nỗ lực lý thuyết hoá, một khó khăn mà cho đến bây giờ, hơn nửa thế kỷ sau ngày manh nha như một trào lưu, nó vẫn chưa vượt qua được. Được xây dựng trên nền tảng của một niềm tin bị đánh mất, tự bản chất, chủ nghĩa hậu hiện đại là một thứ văn hoá của sự phủ định, nghĩa là, nói cách khác, nó được định nghĩa không-phải-là-một-cái-gì-đó thay vì là-một-cái-gì-đó. Chủ nghĩa hậu hiện đại, như thế, là sản phẩm và là biểu hiện của sự khủng hoảng , trước hết, là sự khủng hoảng của giới trí thức, đặc biệt trước khả năng tái hiện (representation) của ngôn ngữ, và cùng với ngôn ngữ, mọi diễn ngôn trí thức và nghệ thuật mà cho đến gần đây, nhân loại vẫn thường tin tưởng và tự hào. Mất niềm tin vào khả năng tái hiện, ranh giới giữa diễn ngôn trí thức và diễn ngôn nghệ thuật bị xoá nhoà: khoa học (science) được xem như một thứ thi học (poetics); và lý thuyết về văn học trở thành lý thuyết-như-là-văn-học. Trong lãnh vực văn học, những sự xoá nhoà ấy thực chất là một sự giải phóng: Chúng làm rộ nở cả diễn ngôn lý thuyết lẫn diễn ngôn sáng tạo.” http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=8027
[10] Người “gọi nghệ thuật đen là nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi” trong xã hội. Nhưng này, tất cả những nhà đạo đức, những người văn minh, những người Mác-xít, hãy nhận lấy một sự thực: “mọi” cũng là người và nghệ thuật của “mọi” cũng là nghệ thuật của người. Và bọn “mọi” ấy cũng muốn được phát biểu ý kiến như các ngài vậy” Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Nghệ Thuật đen, Talawas.org
[11] Phương Lựu. (?). Lý thuyết văn học Hậu hiện đại. Hà Nội: NXB ĐH Sư phạm, tr.84.
[12] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c243/n8627/Chu-giai-ngan-ve-hau-hien-dai.html
[13] “Nghịch dị (grotesque- có khi còn được dịch là kệch cỡm, kỳ quặc, quái đản, hoang đường) là một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật (hình tượng, phong cách, thể loại), dựa vào huyễn tưởng, vào tính trào phúng, vào tính ngụ ngôn, ngụ ý, vào sự kết hợp và tương phản một cách kì quặc cái huyễn hoặc và cái thực, cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái giống thực và cái biếm họa”. Nguồn: Nguyễn Thị Hà. (2012). Dấu ấn Hậu hiện đại trong tiểu thuyết Thập Tam Bộ của Mạc Ngôn. Luận văn Thạc sĩ Văn học. Đại học Khoa học xã hôi và Nhân văn: Hà Nội, tr.6.
[14] Người viết đã khéo léo chọn điểm nhìn của chàng trai 17 tuổi. Lứa tuổi bắt đầu có nhận thức sâu sắc hơn, nhìn kĩ hơn cuộc đời. Nhưng chưa đủ chín để có thể nhìn thẳng mặt cuộc đời. Ở tuổi đó, người ta mơ hồ nhận ra những cảm giác chưa bao giờ xuất hiện trong lòng, lứa tuổi người ta nhận ra điều gì đó vượt ngoài các nhu cầu thường nhật của đời sống và cũng ở tuổi đó người ta đã có nhu cầu thấu hiểu chính lòng mình. Mà lòng người là mù khơi đêm tối. Mười bảy tuổi, đêm khuya chỉ mới chồm ngấn dậy, muwofi bảy tuổi bắt đầu chuyến hành trình lưu đày tự vấn. Ngọc Tư đã tinh tế chọn lấy góc nhìn của chàng trai 17 tuổi.
[15] Lời của Nhu: “chắc chị Nhã lúc nãy không đi ngang đây”. Hay “Tan hát họi biến mất vào những ngôi nhà bỏ hoang trong thị trấn, mà có đi nhiều lượt tôi chẳng cách nào xác nhận được họ ở đâu sau những cánh cửa cái. Cũng như tôi không biết Mỹ ngồi xòe bài ở đâu mà bao giờ về người cũng ấm”. Hay “tụi mình bốc hơi đi”. Hay “Một tối dọn bãi xong, tôi cõng Nhu trầm mình vào đêm thị trấn” Nguyễn Ngọc Tư. (2018). Cố định một đám mây (truyện ngắn). Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng.
[16] Nguyễn Thị Bình, Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết hậu hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam), Nxb. Tri Thức, H. 2013, tr.236-237
[17] Những thông tin về Nhu có lẽ sẽ chẳng đáng chú ý nếu như Ngọc Tư không đưa ra chi tiết mà chính tiết đó “ghi điểm” trong lòng bạn đọc. Đó là một nhát dao. Không gì rõ ràng hơn để khắc họa về cái thân phận “lặc lìa lặc lọi”, tạm bợ và rẻ rung, phải sống để chống chịu sự tàn phế và có mặt “thừa ra đó” một cách đáng sợ bằng chi tiết: “Nhu, hơi xanh vì ăn ít, lớn hơn tôi hai tuổi, nhưng lúc nào cũng lễ phép gọi tôi bằng anh. Dường như Nhu dùng ngôi “em” với tất cả những ai có chân và đi được. Kể cả con mèo”. Nguyễn Ngọc Tư. (2018). Cố định một đám mây (truyện ngắn). Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, tr128.

Comments

Popular posts from this blog

TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN

  TÌM HIỂU PHÊ BÌNH HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) * Trong bối cảnh văn hóa đại chúng thế kỷ XXI, văn học cộng hưởng thực tiễn toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thời đại mà Stefan Herbrechter tạm gọi “hậu văn học” - thời đại mà việc tiếp cận của phê bình hậu nhân “ vừa nhận diện vừa thận trọng đối với xu hướng đương thời trong việc rời bỏ phương tiện và định chế trung tâm của văn chương thuộc về chủ nghĩa nhân văn, với tất cả những dính líu về xã hội-kinh tế-văn hóa-chính trị, với thiết chế quyền lực và thẩm mỹ của nó đằng sau đó ” [1] . Bấy giờ phê bình hậu nhân tiếp cận diễn ngôn nghệ thuật xuyên phương tiện ở một số khía cạnh: không gian hậu nhân (posthuman space), chủ thể hậu nhân (posthuman subject), hình tượng lệch chuẩn (eccentric image). Trong đó, chủ thể hậu nhân (posthuman subject) cơ hồ tương liên với khái niệm thực thể thông tin vật chất (informational-material entity [2] ) của Katherine Hayles trong  How We Became Posthuman . Đặc điểm của thực...

LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN

  LADY GAGA VÀ THỰC THỂ HẬU NHÂN Võ Quốc Việt   (lược dịch và luận giải) *** Là nghệ sĩ tiêu biểu của văn hóa đại chúng Mỹ từ thập niên 2010 đến nay, tác phẩm của Lady Gaga thể hiện sự kết hợp rất thú vị giữa các biểu hiện nội tại và ngoại tại của thực thể hậu nhân (Posthuman Entities). Vì các sản phẩm âm nhạc của cô cho thấy ý hướng muốn khuynh đảo các thiết chế nhân tính nhị nguyên của chủ nghĩa nhân văn (có từ thời Phục Hưng và được gia cố thêm từ thời Khai Sáng). Đó là sự xuyên vượt các giới hạn giữa người với máy móc, người với động vật, chủ thể với khách thể, tự ngã với tha nhân, giữa nam với nữ. Nhìn từ góc độ này, có thể nói, hiện thân xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc của cô là biểu hiện sáng rõ cho các thực thể hậu nhân trong nhãn quan của các nhà hậu nhân luận. Cụ thể, đó là người máy, quái vật và những sinh vật lai ghép phi nhân. Chưa kể, vượt qua các giới hạn này, sản phẩm âm nhạc của cô cơ hồ đã thúc đẩy thêm nhãn quan phê phán với lập trường giải cấu trúc...

PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN

  PHÁC THẢO VĂN HỌC HẬU NHÂN (Võ Quốc Việt) Hậu nhân luận (posthumanism) có thể xem như hồi ứng, rà soát, tiếp nối, dịch chuyển, tái tạo nhân bản luận (vốn dựa trên quan niệm con người trung tâm: humancentricism / Anthropocentrism/ homocentricism ). Đây là trào lưu tư tưởng chí ít khởi hoạt từ giữa thế kỷ XX, ngày càng định hình ở nửa cuối thế kỷ XX và phát triển rộng rãi đầu thế kỷ XXI. Bấy giờ, dưới cái nhìn Hậu nhân luận, con người không còn là con người như vốn được biết từ trước đến nay. Bản thân trào lưu này bao gồm nhiều chiều kích giải luận khác nhau. Hậu nhân luận còn được xem như có liên hệ hoặc thù thuộc phạm vi nghiên cứu của Tương lai học (Futures studies/ futurology). Bản thân nó bao gồm quá trình vận động đồng thời: giải nhân tính hóa-dịch nhân tính hóa-tái nhân tính hóa. Theo đó, bài viết bàn luận về hậu nhân luận như trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại; như quá trình hậu nhân hóa (posthumanisation) hay văn học hậu nhân (posthumanist literature); và hậu nhân luận...